Wednesday, October 2, 2024

C86: Những Lời Tiên Tri

Chương 86: Những Lời Tiên Tri

Tiên Tri là nhìn thấy hoặc hiểu trước một việc trước khi việc đó xảy ra.

Nhân cõi thường coi những lời tiên tri là một sự huyền bí lạ lùng. Cơ chế hoạt động của những lời tiên tri ra sao thì phàm nhân không biết, còn thiên giới có hẳn một bộ ban ngành chuyên nghiên cứu những lời tiên tri từ thời thượng cổ đến đời hạ ngươn. Truy lùng từ việc ai, ở đâu, khi nào, trong hoàn cảnh gì ... mà nói nên những lời tiên tri ấy. Giống như làm toán vậy, logic chính xác đến từng con số. Đầu têu ra bộ môn tiên tri bói toán từ xa xưa là các vị chuyên coi quỹ đạo của các vì tinh tú. Vì rảnh quá nên ngày này qua tháng nọ ngồi đếm sao trời và xem nhật nguyệt. Xem miết nên nhắm mắt cũng biết được khi nào trăng tròn hay khuyết, khi nào các vì sao thẳng hàng hay chênh lệch, vận hành theo quy luật, quỹ đạo nhất quán qua bao nhiêu nghìn năm. Rồi từ đó chiêm nghiệm được những tác động tới vạn vật ra sao do ảnh hưởng từ năng lượng của các thiên thể to lớn đó. Vũ trụ vận hành theo quy luật, chính bởi cái gì cũng có quy luật cho nên mới có thể từ đó mà đưa ra những khả năng, dự trù. Như là: Nếu phương trình f(x) thì cho ra bao nhiêu nghiệm vậy...

Cũng không hiếm chuyện xưa nay có những sự mê tín dị đoan một cách kinh khủng. Chỉ bởi một lời nói trước ngẫu nhiên mà khiến cho bao sự chấp trước trùng trùng duyên khởi. Có vị tiên còn bảo rằng cả thiên hạ này là một đại mê tín không hồi kết. Còn có vị tiên bảo, cả thiên hạ này là một giấc mơ, ảo mộng hồng trần mà khi Thiên Cổ Đế tỉnh mộng thì hồng trần cũng tan biến... Khi ấy Thiên Cổ Đế tập hợp lại mọi linh hồn ngài từng sinh ra, giống như cha mẹ gọi con về nhà vậy!

Tín là tin, niềm tin thì có tội tình gì đâu mà không cho người ta được tin, được mê/ mơ một điều gì đó là tốt đẹp, là cao thượng, thánh thiện!
Ví dụ như: Đức Phật Thích Ca đã giải thoát hoàn toàn khỏi Luân Hồi Khổ, hay Đức Chúa Jesus đã được sinh ra từ Đức Mẹ Đồng Trinh...

Mặc cho những lời tiên tri về tận cùng cái thế gian này là hủy diệt điêu tàn, là những gì kinh khủng nhất. Hắn vẫn cứ đánh một giấc no say ngày hôm nay. Ai bảo rằng đủng đỉnh không phải là một đức hạnh? Nếu ai cũng có thể thực sự trung dung nhởn nhơ mà sống thì trần đời này quả là an vui rồi!

----------------------------------

TRUNG DUNG TÂN KHẢO
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
QUYỂN I: TRUNG DUNG KHẢO LUẬN

Chương 8
KHAI THÁC TRUNG DUNG

Bây giờ đọc Trung Dung ta sẽ thấy nó rất hay rất rõ. Nó hay nó rõ, vì ta đã san bằng được mọi khó
khăn về từ ngữ, ta đã gỡ được mối tơ vò tính mệnh, và nhất là ta đã nắm được chìa khóa Trung Dung của
hai vua Nghiêu, Thuấn:
«Lòng của Trời siêu vi huyền ảo,
Lòng con người điên đảo ngả nghiêng.
Tinh ròng chuyên nhất ngày đêm,
Ra công ra sức giữ nguyên lòng Trời.»

Chu Hi đề tựa Trung Dung như sau:
«Trung ấy là không nghiêng, không ngửa,
Dung ấy là muôn thuở y nguyên.
Trung là đạo chính mọi niềm,
Dung kia là lý hiển nhiên mọi đời.
Tâm pháp này truyền nơi cửa Khổng,
Ông Tử Tư sợ chóng sai ngoa,
Bút thần tay thảo thiên hoa,
Muôn vàn truyền lại Mạnh Kha sách này.
Sách mới thoạt trình bày một lẽ,
Sau dần dần mới tỏe thành muôn,
Cuối cùng thu lại một nguồn.
Tung ra tản mạn khắp muôn phương Trời,
Thu cuốn lại dấu nơi ẩn áo,
Hay sao, hay kỳ ảo khôn cùng.
Đó là thực học chính tông,
Ai say tìm hiểu sẽ thông ý màu.
Thông ý màu rồi sau ứng dụng,
Dùng cả đời cũng chẳng hề vơi.»

Chu Hi đã cho ta thấy đại ý Trung Dung: «Thể duy nhất, dụng vẹn thù». Căn nguyên chỉ một mà tác dụng hiệu quả muôn vàn. Đồng thời Chu Hi cũng đã gợi cho biết Trung Dung là một triết học cao siêu, một phương pháp lý luận rất có mạch lạc. Ta có thể nói: Thoạt tiên, Trung Dung dùng phương pháp diễn dịch như Descartes: Từ một duyên do căn bản suy ra ngàn vạn sự, ngàn muôn kết quả.[1] Trong phần thứ hai của sách, có thể nói được là Tử Tư dùng phương pháp qui nạp như Bacon, đi từ những kết quả tạp thù vô số kể mà trở lại nguyên nhân cũ. Nguyên nhân và
kết quả đều gồm trong hai chữ Trời và Thành. [2] Trời phát quang huy, chiếu ảnh tượng người vào đáy lòng nhân loại.[3] ảnh tượng ấy vừa là thực thể cho tâm hồn dựa nương, vừa là tính mệnh (vie) vừa là mệnh lệnh (ordre, loi), cũng vừa là đạo (voie). Ảnh tượng Trời đó hoàn thiện và quang minh tuyệt đối. Trung Dung đã khéo mô tả bằng hai chữ «thành,minh».[4] Trong chương đầu Trung Dung, Tử Tư đã xác định căn bản tâm hồn con người; đồng thời dạy luôn cả đạo làm người:

«Bản tính cũng chính là thiên mệnh
Đạo là noi theo tính bản nhiên.
Giáo là cách giữ đạo nên.
Đạo Trời giây phút vẫn liền với ta.
Rời ta được đâu là đạo nữa.
Thế cho nên quân tử giữ gìn,
E dè cái mắt không nhìn,
Tai nghe không nổi cho nên hãi hùng.
Càng ẩn áo lại càng hiện rõ,
Càng siêu vi càng tỏ sáng nhiều,
Nên dù chiếc bóng tịch liêu,
Đã là quân tử chẳng xiêu lòng vàng...» [5]
 
Trời xa, nhưng quyền phép ngài siêu việt, vẫn soi sáng tâm khảm của trần gian. Trời tuy xa nhưng vẫn giáng lâm, vẫn tại diện tiền không giây phút nào ngơi. Đó là niềm tin tưởng then chốt cốt cán của Đạo Nho, và của các thánh hiền Trung Hoa qua các thời đại. Tác giả Trung Dung nhắc tới lòng tin tưởng đó ở đầu, giữa, và cuối sách Trung Dung. Cả chương 16 của Trung Dung viện dẫn sự tin tưởng của muôn dân về thần quyền để minh chứng sự giáng lâm của Thượng đế.

Trung Dung viết:
«Quyền phép thần linh oai hùng khôn xiết,
Nhìn chẳng ra, nghe cũng chẳng thấy gì,
Nhưng vẫn lồng vào vạn vật chẳng phân ly,
Khiến chay tịnh tâm hồn, những chành áo xống,
Mời cho làm những việc tâm thành thờ phụng,
Man mác lẽ, như phảng phất ở trên,
Linh lung, như mường tường ở hai bên.
Thần giáng lâm lúc nào ta đâu có biết,
Cớ sao ta dám bơ thờ khinh miệt?
Thật siêu vi nhưng vẫn hiển hình,
Thật hoàn hảo, không giấu nổi oai linh.» [6]

Tác giả Trung Dung khuyên ta nên theo phương pháp loại suy (raisonnement par analogie) mà tìm ra căn bản tâm hồn ta, tìm cho ra đạo làm người, để cho nhân tâm hết ngả nghiêng, cho đạo tâm siêu vi được tận hiển dương, tiến tới thế trung hòa muôn thuở.

«Khi chưa phát vui, thương, mừng, giận,
Gọi là trung vì chẳng ngả nghiêng.
Phát ra đúng tiết, hợp duyên,
Ấy là hòa tấu ấm êm nhạc Trời.
Trung ấy chính muôn đời căn bản,
Hòa kia là đạo quán thiên thu,
Ước gì đạt thế trung hòa,
Ấm êm Trời đất, nhởn nhơ muôn loài.» [7]

Chu Hi bình giảng thêm:
«Nguồn đạo ấy phát từ Thượng đế.
Chẳng đổi thay, chẳng thể biến rời,
Hoàn toàn sẵn có nơi người,
Một giây một phút chẳng rời khỏi ta.» [8]

Và khuyên:
«Quay vào ta mà tìm đạo ấy
Tìm đáy lòng sẽ thấy chẳng sai.
Dẹp tan cám dỗ bên ngoài,
Căn lành sẵn có đồng thời khuếch sung.» [9]

Một khi con người được giác ngộ, tin có Trời ngự trị trong tâm khảm mình, chứng giám những điều ẩn áo nơi đáy lòng mình, và lo hoàn thiện mình để tiến tới sự phối hợp giữa tâm và tính, nhân tâm và đạo tâm, khi ấy con người sẽ trở thành quân tử. Mục đích của đạo Trung Dung là phối hợp thiên ý với nhân tâm, tính với tình, nhân tâm và đạo tâm, cho nên là một đạo rất cao diệu. Đức Khổng nói:

«Đạo Trung Dung cao siêu, toàn mỹ,
Theo Trung Dung hồ dễ mấy ai.
Ta biết đạo Trung Dung thi hành khó,
Người sắc sảo, quá trớn đi đã lỡ,
Kẻ ngu đần, chậm chạp khó khuôn theo.
Ta biết đời chẳng hiểu đạo cao siêu:
Người hiền đức ỷ mình không suy xét,
Kẻ bất lương trông vào thì mù mịt.
Uống ăn kia ai cũng lấy làm thường,
Nhưng mấy ai sành mùi vị tinh tươm?» [12]

Mục đích Trung Dung là phát triển cho đến cực độ mầm mống hoàn thiện sẵn có nơi đáy lòng mình, theo thiên tính thiên lý sẵn có nơi mình mà phát huy ra ba đại đức, ba nguồn sáng tinh thần: Trí - Nhân - Dũng. Trí là khôn ngoan. Khôn ngoan như vua Thuấn, biết Trời, biết Người, biết thăm dò xét hỏi, biết «ẩn ác dương thiện». Trí để phục vụ đạo lý, chứ không phải trí xảo của người đời.[13] Đức Khổng nói:

«Ai cũng nói ta đây tài giỏi,
Trên đường đời rong ruổi ngược xuôi;
Sa vào cạm bẫy người đời,
Sa hầm, sụp hố, thoát thôi dễ nào.
Ai cũng ỷ tài cao, biết rộng,
Theo Trung Dung chẳng đặng tháng Trời.» [14]

Nhân là nhân đức nội tâm. Nhân như Nhan Hồi luôn lo lắng làm điều thiện, cho gương lòng vằng vặc sáng lên như đèn Trời, chứ không phải nhân đức lộ liễu bên ngoài của thế nhân. Những người có tài cán gan góc, vị tất đã là những người nhân đức, vị tất đã theo nổi đạo Trung Dung.

«Người có thể trị yên thiên hạ,
Người có gan từ bỏ vinh hoa,
Gươm trần người dám bước qua,
Trung Dung đạo ấy khó mà người theo.» [15]

Dũng không phải là cái dũng vũ phu, mà chính là cái dũng tinh thần của người quân tử, là cái dũng của bậc đạo hạnh: nếu «Xét thấy lương tâm mình ngay thẳng, thì dầu đối với hàng ngàn muôn người vẫn đi qua một cách an nhiên.» [16]

Ba đức «nhân, trí, dũng» đó đều mầm mống trong đáy lòng mọi người; chân lý muôn trùng hằng ẩn áo trong tâm khảm mọi người. Thánh hiền là những người có công khuếch sung trí nhân dũng cho tới mức cao siêu, tuyệt diệu. Vì thế đạo Trung Dung như hạt sồi của Lamartine,[18] lúc nhỏ chưa sinh sôi nảy nở thì rất tầm thường, nhưng khi đã triển dương tới mức độ lớn lao, thì trở nên thiệt uy nghi, cao đại.

Theo Trung Dung đạo Trời có hai đầu: Một đầu thì ẩn ảo huyền vi, tiềm ẩn ở tít tận đáy lòng, còn một đầu thì mênh mông bát ngát. Lúc sơ phát thì ẩn áo siêu vi, nhưng lúc đạt đạo tới chỗ chí cùng chí cực thì vĩ đại.

«Đạo người quân tử mênh mông,
Đồng thời ẩn áo, mông lung khó dò.»

Tác giả Trung Dung viện dẫn Kinh Thi để làm nổi bật những nét mênh mang và ẩn áo đó:
«Diều tung cánh sát từng mây biếc,
Cá dương vây lặn miết đáy sâu.» [20]

Rồi tác giả khuyên ta nên tung tầm mắt mà quan sát vạn vật đất Trời để tìm cho ra đại đạo. Quan sát đất Trời ta thấy gì? Ta sẽ thấy:

«Ngoài nội chim kia còn chấp cánh,
Trên lương yến nọ chẳng lìa đôi
Từng mây kết ngãi lưng Trời...» [21]
Đôi chim ríu rít, đôi người chắt chiu.

Đầu Kinh Thi, ta đọc thấy:
«Quan quan thư cưu, tại Hà chi châu,
Yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu.» [22]

Trung Dung viết:
«Đạo quân tử từ nguồn phu phụ,
Tung mãi ra trùm cả đất Trời.» [23]

Đạo phu thê là đạo phu xướng phụ tùy, để đi đến chỗ sắc cầm hòa hợp. Còn Trời đất thì lúc nào cũng quấn quít lấy nhau, hưởng ứng nhau. Trời che, đất chở, Trời sinh, đất dưỡng. Đầu đất là chân Trời. Vòng càn khôn lúc nào cũng hiện ra nơi nhãn giới. Suy ra, thì trong đạo làm người, tâm phải thuận theo tính, tâm phải biết phục mệnh. Nếu tâm theo tính, nếu nhân tâm phục tòng thiên mệnh, thì tức là theo đúng đạo xướng tùy, hòa hợp của đất Trời. Thế là Âm theo Dương, bóng tối nhường gót cho ánh sáng, sự chết nhường chỗ cho sự sống. Thế là Dương sinh, Âm dưỡng, Dương sinh, Âm trưởng. Tâm hồn sẽ tài bồi cho mầm tính nở tung muôn hoa đức hạnh, tâm hồn sẽ phả quang huy của vừng dương thiên tính, sẽ biến hóa theo đúng Đạo Trời.

[Khi đạt đạo, mảnh trăng lòng sẽ thoát ly hết mọi mây mù dục vọng, sẽ viên mãn, như vầng nguyệt hôm rằm, tung hết mọi làn ánh sáng đã thụ hưởng được của vừng dương thiên lý. Thế là Âm Dương phối hợp trong thế trung hòa của Thái cực. Thế là «nhật nguyệt đồng minh» thành chữ Dịch muôn đời.[25] Vậy muốn hiểu đạo Trung Dung, phải hiểu chỗ thấp, chỗ cao, chỗ gần, chỗ xa. Chỗ đắc đạo, đạt đạo là Trung Dung.

Trung đạo «dữ Thiên đồng đức», chí thành, chí thiện. Chỗ đạt đạo thì bao trùm hết không gian, thời gian, rực rỡ ngàn trùng. Chỗ khởi điểm chỉ là một tàn lửa thiên lý, thiên chân, thiên mệnh, ẩn áo nơi đáy lòng. Chỗ đạt đạo thì chỉ bậc chí thánh mới vươn lên tới, nhưng con người đạo lý mở rộng chờ đón mọi người, và thực ra khởi điểm của nó cũng dung dị tầm thường, dầu ngu phu, ngu phụ cũng vẫn hay biết và có thể thi hành được
như thường.[26]

Quan điểm Trung Dung phù hợp với Đạo Đức Kinh của Lão Tử:
«Muốn làm những việc khó khăn.
Phải từ chuyện dễ đi lần mới xong.
Muốn làm những việc kỳ công,
Phải từ việc nhỏ mới mong hoàn thành.» [27]

Vậy thì đạo Trời tuy rất khó, nhưng chính ra rất giản dị. Chúng ta chỉ việc làm những công việc thông thường hằng ngày, không cần lập dị, «sách ẩn hành quái».[28] Đối với mọi người thì nên khoan dung, độ lượng, mà uốn nắn cho qui hướng về đường thiện mỹ:

«Người quân tử khi lo giáo hóa,
Sửa trị người sẵn có khuôn người.
Thấy người giác ngộ thì thôi,
Đã chiều cải hóa, liệu bài ta ngưng.» [29]

Còn đối với mình, thì lúc nào cũng cúc cung tận tụy thi hành phận sự, coi người như mình; đối với ai cũng cố vẹn tình, vẹn nghĩa, hết lòng, hết dạ:
«Đối với người hết lòng, hết dạ,
Coi mọi người cũng cả như mình.
Thế là sắp tới tinh thành.
Việc mình thoái thác chớ dành cho ai...» [30]

Tìm bí ẩn làm điều quái dị.
Cốt mong cho hậu thế người khen
Xá chi chuyện ấy nhỏ nhen,
Đã là quân tử chẳng thèm quan tâm.»

Muốn thành người quân tử, chúng ta phải:
«Tu đức hạnh, hành vi thường nhật,
Nói năng luôn đúng mực căn cơ.
Hành vi khiếm khuyết nên lo,
Nói năng thái hóa, liệu mà bớt đi.
Lời nói với hành vi phù hợp;
Nói làm sao, làm khớp như in;
Lòng người quân tử triền miên,
Thấp tha, thấp thỏm, mới nên công trình...» [31]

Nếu thời thường, lo hàm dưỡng tính tình, trau dồi óc chất như vậy, thì trí, nhân, dũng sẽ như ngọn lửa, ngày một lan cháy rực Trời, như nguồn lai láng, tràn ngập năm hồ bốn biển.[32] Ngu phu, ngu phụ nếu ra công tu tâm, dưỡng tính cũng có thể nên người quân tử, nên gương cho nhân loại
soi chung; nếu người quân tử biết tu thân, hàm dưỡng khuếch sung tính tình thì có thể nên những trang hiền thánh, chẳng kém gì Nghiêu, Thuấn, Văn, Võ, Chu công.

«Đạo quân tử như in lữ thứ
Muốn đi xa phải tự chỗ gần.
Đạo người như cuộc đăng san,
Muốn lên tới đỉnh, đầu đàng là chân.» [33]

Chân là ngu phu, ngu phụ, mà đỉnh thì là đại thánh, đại hiền. Gần là chuyện làm cho gia đình ấm êm, hòa hợp. Xa tít tắp là chuyện quốc chính dân an, lo sao cho mọi người được sống những ngày thanh bình, tươi đẹp. Thấp là những chuyện tình ái thông thường giữa những vợ chồng, mà cao là nền luân lý phổ quát, bao gồm hết cương thường. Cao hơn nữa là đạo thánh hiền, «dữ Thiên đồng đức», vượt tầm không gian, thời gian, trường tồn cùng với càn khôn, vũ trụ.

Nhờ sự tu thân tích đức, tâm hồn người hiền thánh rạng tỏ dần, và khi long vân gặp hội, khi đức cả đã cảm ứng được đất Trời, sẽ đạt tới địa vị cao sang tuyệt phẩm. Vì thế giữa sách, Trung Dung đề cập tới sự cao cả, vinh quang của các đấng đại thánh, đại hiền. Trung Dung viết:

<Không nghỉ ngơi nên sẽ vững bền.
Vững bền muôn vẻ trưng lên,
Trưng lên vang dội khắp miền gần xa.
Khắp gần xa ắt là dày rộng,
Đã rộng dày thời cũng cao minh.
Rộng dày để chở chúng sinh,
Cao minh che khắp sinh linh xa gần.
Trường cửu để tác thành muôn vật,
Rộng dày nên cùng đất sánh duyên.
Cao minh kết ngãi thanh thiên,
Vô biên, vô tận triền miên khôn cùng.
Được như vậy không trưng vẫn tỏ,
Tuy ở yên, biến hóa khôn lường,
Không làm mà vẫn thành công...» [49]

Khi đạt tới giai đoạn «Thiên nhân nhất quán», giai đoạn huyền đồng, thánh nhân sẽ được phối hợp với Trời, thông phần vinh hiển cao diệu của Trời.Trung Dung viết:

«Chỉ có đấng chí thánh trong trần thế,
Mới có đầy đủ thông minh trí tuệ,
Y như thể có Trời ẩn áo giáng lâm,
Mới khoan dung, hòa nhã, ôn thuần,
Y như có dung nhan Trời phất phưởng;
Phấn phát tự cường, kiên cương, hùng dũng,
Y như là đã cầm giữ được sức thiêng.
Trang trọng khiết tinh, trung chính, triền miên,
Y như thừa hưởng được đôi phần kính cẩn,
Nói năng văn vẻ, rõ ràng, tường tận,
Y như là chia được phần thông suốt tinh vi.
Mênh mang sâu thẳm, ứng hiện phải thì,
Mênh mang như khung Trời bao la, vô hạn,
Sâu thẳm như vực muôn trùng thăm thẳm...» [50]

Bậc chí thánh đó sẽ vì đời sang sửa đại kinh:
«Chỉ những đấng chí thánh trong thiên hạ,
Mới có thể vì đời sang sửa đại kinh.
Mới có thể xây căn bản cho xã hội quần sinh,
Mới thấu rõ luật đất Trời sinh hóa...» [51]

Các ngài sẽ tiên tri, tiên đoán, biết trước những công cuộc hưng vong, suy thịnh của quốc gia...[52]
Đạo Trung Dung lúc đạt tới cùng cực, thực là mênh mông, bát ngát:

«Đạo thánh nhân to sao, to lớn quá,
Nó mênh mang, biến hóa chúng nhân.
Nó cao, cao vút tới Trời thẳm muôn tầm;
Nó rộng, rộng bát ngát khôn kể xiết.
Gồm thâu mọi điều lễ nghi, chi tiết.
Bao uy nghi quán triệt hết chẳng trừ.
Đợi thánh nhân, Trời mới phú thác cho,
Không đức cả, Trời không ngưng đạo cả.» [53]

Đạo đó, con đường hoàn thiện đó là con đường cho quân tử noi theo:
«Nên quân tử dốc một lòng, tòng một dạ,
Trọng kính Trời, quyết gắn bó học hành.
Tiến sao cho tới mức rộng rãi, tinh anh,
Mức cao sáng của Trung Dung đạo cả,
Ôn điều cũ, học thêm điều mới lạ,
Chuộng lễ nghĩa, sống đời sống nết na.
Ở ngôi cao, không có thói kiêu xa,
Ở cấp dưới, không làm điều trái nghịch,
Nước có đạo, chỉ một nhời làm tiến ích,
Nước đảo điên, lặng lẽ đủ dung thân...» [54]

Tóm lại đạo quân tử mới đầu ngỡ tầm thường, giản dị, nhưng dần dần mới thấy nó thật chứa chan ý vị, đầy vẻ đẹp tươi, và mênh mông, bát ngát. Nó khởi điểm từ chỗ biết kính sợ e dè, dẫu ở một mình nơi thanh vắng cũng chẳng dám làm điều gì đáng để hổ người, để tiến tới chỗ «dữ Thiên đồng đức» chỗ hoàn hảo tuyệt vời. Đó là đại ý đoạn kết sách Trung Dung:

«Thơ rằng:
Gấm mặc trong, ngoài phủ áo sa,
Là vì ngại gấm đầy hoa lòe loẹt,
Nên đạo quân tử ám nhiên ẩn ước,
Sau dần dà mới sáng rực mãi lên;
Đạo tiểu nhân mới ngó ngỡ là đèn,
Nhưng càng ngày càng tối đen, tối xẫm.
Đạo quân tử đạm thanh, không ngán ngẩm,
Đơn sơ nhưng chan chứa vẻ đẹp tươi;
Thuần phác nhưng lý sự chẳng kém ai.
Biết xa gần, biết nguyên lai bản mạt
Biết lẽ vi hiển, vừa rỡ ràng, vừa e ấp,
Là có thể bước vào nẻo đức đường nhân.

Thơ rằng:
Cá tuy lặn sâu thẳm mấy tầm,
Nhưng bóng dáng vẫn rõ ràng, hiển hiện.
Nên quân tử lo xét mình cho chín,
Đừng cho tội khiên làm u ám thâm tâm.
Người quân tử vượt trổi quá chúng nhân,
Chính ở chỗ mọi người trông chẳng đặng.

Thơ rằng:
Chái tây bắc một mình thanh vắng,
Cũng đừng làm chi đáng để hổ ngươi.
Nên quân tử không làm vẫn thu phục lòng người,
Chẳng nói năng, nhưng ai nấy đều tin tưởng.

Thần thánh giáng lâm, không một lời động dạng,
Nhưng mọi người tuyệt nhiên hết tranh giành.
Nên quân tử không thưởng, mà dân vẫn đua tranh,
Không giận dữ, mà người sợ hơn oai rìu búa.

Thơ rằng:
Văn Vương chẳng phô trương đức độ,
Nhưng chư hầu đâu đấy vẫn khuôn theo.
Người quân tử nếu dốc một dạ kính yêu,
Đạt đức cả, thiên hạ lẽ tất nhiên thịnh trị,

Thơ rằng:
Ta muốn đức rạng ngời, sáng tỏ,
Không cần chi lớn tiếng hay làm bộ ra oai.
Đức Khổng nói dùng miệng lưỡi, hay kiểu cách bên ngoài,
Cảm hóa dân, lối ấy rất nên thô thiển.

Thơ rằng:
Đức nhẹ như lông;
Lông còn có bề hơn kém,
Đức Trời cao, siêu việt chẳng tăm hơi,
Thực là hoàn hảo tuyệt vời.» [56]

--------------

Ngoại truyện: Lúc đêm khuya thanh vắng giữa ngu phu và ngu phụ:

Ngu Phu đang chuẩn bị rơi vào giấc ngủ và đã bắt đầu ngáy khò khò ...
Ngu Phụ vẫn đang trằn trọc lăn qua lăn lại, nghĩ ngợi vu vơ rồi lay lay hỏi một chủ đề cũ mãi không chán:

- Nếu chàng chết trước ta thì ta nên làm thế nào với cái xác của chàng?!

- Đem đốt thôi! Nhà mình thiếu gì củi...

- Ta không biết làm! Đốt không cháy hết thì kinh lắm, trông như miếng thịt hun ấy...

- Hừ, cũng phải... đốt phải thật nóng mà mùa hè nóng thì mệt. Hay cứ quẳng dưới đống sắt vụn, nhà mình đầy sắt vụn lo gì ...

- Sao thế được, hức hức nó bốc mùi lên ...

- Quẳng xuống sông xuống biển cho cá ăn vậy!

- Hừ, không được! Ta sẽ mummify chàng! Để đi đâu cũng đem theo đó!

- Ừ ừ thế nào cũng được, đấy là chuyện cuối cùng ta quan tâm. Linh hồn còn sống mãi, lo cho cái xác chết làm gì~

- Tốt nhất là ta chết trước chàng, như thế chàng phải lo cho cái xác ta, còn ta đỡ phải lo cho cái xác chàng. Ta đỡ phải buồn ...

- Thế cũng được!

Ngu phụ vẫn không buông tha, không bằng lòng với câu trả lời đó.

- Vậy chàng định làm thế nào với xác ta nếu ta chết trước?

- Ta sẽ đem nàng về quê rồi chôn cạnh cha nàng.

- Tại sao? 

- Để linh hồn nàng cảm thấy yên bình...như thế nàng an nghỉ tốt hơn..

Phu đã rơi vào giấc ngủ hẳn còn phụ vẫn đang mơ hồ suy nghĩ. Mãi sau nói thêm một câu:

- Tốt nhất là cùng chết! Ta sẽ cầu trời để chúng mình được cùng chết vậy.