Anabaptist 2
Những người Anabaptist thường nói về việc “kết hôn với Christ” như cô dâu gắn kết với chú rể. Hoa hồng là máu Christ đã đổ để giải thoát họ khỏi nợ nần tội lỗi mà họ không thể trả. Điểm chung này dẫn họ tới cái gọi là “Cộng đồng” Liên hiệp.
Họ đi bộ rất xa khuân theo lương thực và đồ dùng, gần 200 người chưa tính cả trẻ em. Họ tới một nơi mới và dựng trại ở đó, bốn người được bầu ra làm đại diện quản lý của cải chung. Họ trải bốn chiếc áo xuống đất và “tất cả mọi người tự nguyện vứt xuống đó những gì mà mình có.”
Cộng đồng đầu tiên của người Anabaptist được hình thành và được chấp thuận cũng như hỗ trợ đặc biệt của lãnh chúa vùng nọ. Từ vài trăm người rồi tới vài nghìn. Trong 30 năm, con số lên tới 60,000.
Trước toà ở Zurich, họ bị lên án: “Những người này bảo rằng nếu là tín hữu chân thực thì cho và nhận tài sản tạm thời của nhau một cách miễn phí, ai cũng có quyền sử dụng mọi thứ. Họ nói vậy để thu hút quần chúng những người nghèo và người nhẹ dạ tham gia.”
Những người Anabaptist tuyên bố: “Anh chị em của cộng đồng này sẽ không có đất đai của riêng mình. Mà, cũng như thời các sứ đồ theo Chúa, họ có chung mọi sự. Đất đai của cộng đồng sẽ được coi là một mảnh duy nhất, nơi đó người nghèo sẽ nhận, mỗi người tuỳ theo nhu cầu. Không ai phải chịu thiếu.”
“Anh chị em hãy trao cả xác và hồn chính mình cho God trong cộng đồng của ngài. Mỗi món quà God tặng nên là của chung, ngoại trừ vợ hoặc chồng mình, cũng như thời kỳ đầu các sứ đồ.”
“Những ai bỏ cộng đồng và trở về tư hữu của cải cũng đồng nghĩa bỏ God, mất đi mối tình đầu, và trở thành kết thù của ngài, trộm lấy những thứ ngài cho. “
Những cộng đồng như thế không may thay có rất nhiều đã phải chịu bắt bớ và xử phạt nặng nề.
Tình Yêu không biết làm gì ngoài chia sẻ. Họ chia sẻ một cách vui mừng bởi trái tim họ đã tức thời mở toang trước lẽ sống mới.
Gabriel Ascherham, một lãnh đạo của cộng đồng Anabaptist lớn ở Moravia năm 1520 với khoảng 1200 người, đã viết:
“Những sứ đồ khi xưa ở Jerusalem không yêu cầu ai đưa ra tài sản. Nhưng khi họ nghe Tin Mừng và nước trời, họ tin và gia nhập. Họ đầy vui sướng và tim họ hướng tới những Phước lành từ Thiên quốc (heavenly blessings), nên họ coi những sở hữu Trần gian (earthly possessions) chẳng là gì cả. Tự nguyện, không cần phải ai nói, họ đi bán nhà cửa đất đai, đem tiền ấy đặt dưới chân những sứ đồ. Rồi những của cải ấy được phân phát tuỳ theo nhu cầu mỗi người. Cộng đồng của chung là một minh chứng cho Thiên quốc đã tới với họ.
“Giống như Christ, là yêu thương nhau trong mọi sự ở Trần gian này. Chúng ta không thể chỉ yêu bằng lời xuông mà bằng thực tế. Nếu ta có của dù ít hay nhiều, và thấy kẻ khác cần nhưng ta không chia sẻ những gì mình có - thì làm thế nào ta có thể sẵn sàng hy sinh cả mạng sống mình cho họ nếu cần?
Những người Anabaptist tìm thấy lời hứa trong Cựu Ước về điều này, Peter Walpot viết:
Trong sáu năm, những người Israel có thể thu hoạch vụ mùa, nhưng đến năm thứ bảy họ phải để đó. Mọi thứ trên đất tuỳ ý bất kỳ ai tận hưởng, gia súc trâu bò cũng có thể ăn, chim muông hoang dã đến lấy. Nô lệ, người làm cũng được nghỉ và được phần. Bất kỳ ai cho vay thì không lấy nợ vào năm ấy. (Year of release). Đó là thời gian huy hoàng, như tiệc mừng đám cưới.
Năm của buông xả, những ai đã là nô lệ cho gian ác thì được tha khỏi nó. Chúng ta ăn mừng bằng cách gộp chung mọi của cải God đã cho ta, thông qua tình yêu Christ, chúng ta chia vui bằng cách không khẳng định sở hữu bất kỳ cho riêng mình, và sẻ chia với mọi người lân cận. Cộng đồng như vậy không chỉ sống trong một năm thứ bảy mà luôn luôn là như thế. Luôn sống trong ân Phước.
Nước trời, như Ambrutz Spittelmayr, trước khi bị chặt đầu năm 1527, đã viết:
“Không ai được thừa hưởng nước trời nếu không trở nên nghèo khó như Christ, con người đã chẳng có chỗ tựa đầu. Không có nghĩa anh phải vào rừng ngủ hay không có việc làm. Chỉ đơn giản là anh không nên nghĩ những thứ này là của riêng mình, chỉ mình mình được sử dụng, rồi nói: nhà này của tôi, đồng này của tôi, tiền này của tôi... Thay vì đó, anh nên nói: của chúng tôi, hay “của Cha Trời”.
Một tín hữu không nên có gì của riêng mình mà có mọi sự là của chung. Nói cách khác, tôi sẽ không làm việc để nhà tôi đầy ắp, bàn tôi đầy thịt, mà để những người khác có đủ.”
Wolfgang Brandhuber viết năm 1529:
“Nếu chúng ta có thể chia sẻ những điều quan trọng nhất (Đức tin vào Christ), tại sao lại không thể chia sẻ những thứ tầm thường hơn (của cải vật chất)?...”
Ulrich Stadler viết năm 1530:
“Giao ra đất đai, tài sản, mọi của cải của chính mình, vứt đi mọi tư hữu cá nhân, là một cuộc trao phó toàn diện, đặt bản thân chúng ta vào ý Ngài trong mọi sự.”
Berndt Rothmann viết:
“Hy vọng rằng tinh thần Gemeinschaft giữa chúng ta mạnh mẽ đến độ cộng đồng này sẽ thực hành được những điều chưa từng trước đây. Chứng ta không chỉ có chung tài sản mà còn có chung cảm hứng thiêng liêng, chung trái tim về God. Tất cả những gì trước đây chúng ta từng vì mưu cầu lợi ích và vật chất cho riêng mình, mua và bán, ăn và uống mồ hôi nước mắt của kẻ nghèo, dựa trên lao nhọc của họ mà vỗ béo thân ta - tất cả những điều ấy sẽ biến mất hoàn toàn giờ đây, bởi sức mạnh của tình yêu và cộng đồng.”
Michael Gaismair viết về nước của Jesus năm 1526:
“ Các thành phố sẽ sụp đổ, và chỉ còn làng quê. Rồi sẽ không còn phân biệt giữa con người, không còn ai hơn ai, ai quan trọng hơn ai. Bởi phân biệt giai cấp mà kiêu ngạo, tội lỗi nảy sinh.”
Hans Hergot viết: “Thời cựu ước là thời của Cha, Tân Ước là thời của Con, rồi tới thời của Thánh Linh. Trước khi thời Thánh Linh tới, sẽ có ba cái bàn trong xã hội. Bàn thứ nhất là sự dư thừa. Bàn thứ hai là vừa đủ. Bàn thứ ba là nghèo đói. Người ngồi ở bàn thứ nhất vẫn cố dành giật mọi thứ họ có thể lấy. Rồi God ra tay lật đổ cả các bàn, thế là mọi người phải ngồi cùng nhau ở bàn khiêm nhượng, vừa đủ (moderation).”
Peter Rideman viết:
“Những thứ trong tự nhiên được trao ban cho con người, tất cả chứ không chỉ một người. God tạo ta mọi thứ từ đầu, không muốn các thứ dưới quyền sở hữu cá nhân. Nhưng con người tội lỗi thay luôn khẳng định của mình. Con người tích luỹ mọi sự, và ngày càng rời xa khỏi God, để tôn thờ tạo vật chứ không phải Đấng Tạo Thành. Những gì ngoài tầm với của con người thì may thay vẫn là của chung: mặt trời, mặt trăng, các sao, không khí. Ý chí của God muốn thụ tạo phải nên như vậy, chung chia mọi điều.”
Peter Walpot nói: “Của tôi, của anh là nguyên nhân gây ra mọi tranh chấp, chiến tranh bắt đầu từ đó. Người ta trở thành nô lệ của sở hữu và bạn bè của thèm muốn. Như đất không bao giờ có thể uống đủ nước, lửa không bao giờ nói “đủ rồi”. Có càng nhiều, muốn càng nhiều. Của tạm cần phải được xem là những thứ công cụ nguy hiểm.”
Cộng đồng của những người Anabaptist rơi vào bức hại liên miên. Nơi tập trung hơn 25 cộng đồng cùng lúc bị thiêu rụi. Lương thực, vật nuôi, đồ đạc bị cướp đoạt. Đàn ông bị hành hình đủ kiểu, phụ nữ và trẻ em bị ngược đãi, bán làm nô lệ. Cộng đồng Anabaptist khắp Châu Âu dần tan rã, những người còn sống chạy trốn đây đó. Họ không thể sở hữu ngay chính mạng sống mình.
Song ngay cả những khi ấy, đòi hỏi cao nhất của tình yêu vẫn không chết. Miễn là những người Anabaptist vẫn sống trong liên hiệp với Jesus. Họ vẫn chung chia những gì mình có, và Jesus chỉ đường.