Tuesday, August 19, 2025

C94: Anabaptist 2

 Anabaptist 2


Những người Anabaptist thường nói về việc “kết hôn với Christ” như cô dâu gắn kết với chú rể. Hoa hồng là máu Christ đã đổ để giải thoát họ khỏi nợ nần tội lỗi mà họ không thể trả. Điểm chung này dẫn họ tới cái gọi là “Cộng đồng” Liên hiệp.


Họ đi bộ rất xa khuân theo lương thực và đồ dùng, gần 200 người chưa tính cả trẻ em. Họ tới một nơi mới và dựng trại ở đó, bốn người được bầu ra làm đại diện quản lý của cải chung. Họ trải bốn chiếc áo xuống đất và “tất cả mọi người tự nguyện vứt xuống đó những gì mà mình có.”


Cộng đồng đầu tiên của người Anabaptist được hình thành và được chấp thuận cũng như hỗ trợ đặc biệt của lãnh chúa vùng nọ. Từ vài trăm người rồi tới vài nghìn. Trong 30 năm, con số lên tới 60,000.


Trước toà ở Zurich, họ bị lên án: “Những người này bảo rằng nếu là tín hữu chân thực thì cho và nhận tài sản tạm thời của nhau một cách miễn phí, ai cũng có quyền sử dụng mọi thứ. Họ nói vậy để thu hút quần chúng những người nghèo và người nhẹ dạ tham gia.”


Những người Anabaptist tuyên bố: “Anh chị em của cộng đồng này sẽ không có đất đai của riêng mình. Mà, cũng như thời các sứ đồ theo Chúa, họ có chung mọi sự. Đất đai của cộng đồng sẽ được coi là một mảnh duy nhất, nơi đó người nghèo sẽ nhận, mỗi người tuỳ theo nhu cầu. Không ai phải chịu thiếu.”


“Anh chị em hãy trao cả xác và hồn chính mình cho God trong cộng đồng của ngài. Mỗi món quà God tặng nên là của chung, ngoại trừ vợ hoặc chồng mình, cũng như thời kỳ đầu các sứ đồ.”


“Những ai bỏ cộng đồng và trở về tư hữu của cải cũng đồng nghĩa bỏ God, mất đi mối tình đầu, và trở thành kết thù của ngài, trộm lấy những thứ ngài cho. “


Những cộng đồng như thế không may thay có rất nhiều đã phải chịu bắt bớ và xử phạt nặng nề. 


Tình Yêu không biết làm gì ngoài chia sẻ. Họ chia sẻ một cách vui mừng bởi trái tim họ đã tức thời mở toang trước lẽ sống mới. 


Gabriel Ascherham, một lãnh đạo của cộng đồng Anabaptist lớn ở Moravia năm 1520 với khoảng 1200 người, đã viết:


“Những sứ đồ khi xưa ở Jerusalem không yêu cầu ai đưa ra tài sản. Nhưng khi họ nghe Tin Mừng và nước trời, họ tin và gia nhập. Họ đầy vui sướng và tim họ hướng tới những Phước lành từ Thiên quốc (heavenly blessings), nên họ coi những sở hữu Trần gian (earthly possessions) chẳng là gì cả. Tự nguyện, không cần phải ai nói, họ đi bán nhà cửa đất đai, đem tiền ấy đặt dưới chân những sứ đồ. Rồi những của cải ấy được phân phát tuỳ theo nhu cầu mỗi người. Cộng đồng của chung là một minh chứng cho Thiên quốc đã tới với họ.


“Giống như Christ, là yêu thương nhau trong mọi sự ở Trần gian này. Chúng ta không thể chỉ yêu bằng lời xuông mà bằng thực tế. Nếu ta có của dù ít hay nhiều, và thấy kẻ khác cần nhưng ta không chia sẻ những gì mình có - thì làm thế nào ta có thể sẵn sàng hy sinh cả mạng sống mình cho họ nếu cần? 


Những người Anabaptist tìm thấy lời hứa trong Cựu Ước về điều này, Peter Walpot viết:


Trong sáu năm, những người Israel có thể thu hoạch vụ mùa, nhưng đến năm thứ bảy họ phải để đó. Mọi thứ trên đất tuỳ ý bất kỳ ai tận hưởng, gia súc trâu bò cũng có thể ăn, chim muông hoang dã đến lấy. Nô lệ, người làm cũng được nghỉ và được phần. Bất kỳ ai cho vay thì không lấy nợ vào năm ấy. (Year of release). Đó là thời gian huy hoàng, như tiệc mừng đám cưới. 


Năm của buông xả, những ai đã là nô lệ cho gian ác thì được tha khỏi nó. Chúng ta ăn mừng bằng cách gộp chung mọi của cải God đã cho ta, thông qua tình yêu Christ, chúng ta chia vui bằng cách không khẳng định sở hữu bất kỳ cho riêng mình, và sẻ chia với mọi người lân cận. Cộng đồng như vậy không chỉ sống trong một năm thứ bảy mà luôn luôn là như thế. Luôn sống trong ân Phước. 


Nước trời, như Ambrutz Spittelmayr, trước khi bị chặt đầu năm 1527, đã viết:


“Không ai được thừa hưởng nước trời nếu không trở nên nghèo khó như Christ, con người đã chẳng có chỗ tựa đầu. Không có nghĩa anh phải vào rừng ngủ hay không có việc làm. Chỉ đơn giản là anh không nên nghĩ những thứ này là của riêng mình, chỉ mình mình được sử dụng, rồi nói: nhà này của tôi, đồng này của tôi, tiền này của tôi... Thay vì đó, anh nên nói: của chúng tôi, hay “của Cha Trời”.


Một tín hữu không nên có gì của riêng mình mà có mọi sự là của chung. Nói cách khác, tôi sẽ không làm việc để nhà tôi đầy ắp, bàn tôi đầy thịt, mà để những người khác có đủ.”


Wolfgang Brandhuber viết năm 1529:

“Nếu chúng ta có thể chia sẻ những điều quan trọng nhất (Đức tin vào Christ), tại sao lại không thể chia sẻ những thứ tầm thường hơn (của cải vật chất)?...”


Ulrich Stadler viết năm 1530:

“Giao ra đất đai, tài sản, mọi của cải của chính mình, vứt đi mọi tư hữu cá nhân, là một cuộc trao phó toàn diện, đặt bản thân chúng ta vào ý Ngài trong mọi sự.”


Berndt Rothmann viết:

“Hy vọng rằng tinh thần Gemeinschaft giữa chúng ta mạnh mẽ đến độ cộng đồng này sẽ thực hành được những điều chưa từng trước đây. Chứng ta không chỉ có chung tài sản mà còn có chung cảm hứng thiêng liêng, chung trái tim về God. Tất cả những gì trước đây chúng ta từng vì mưu cầu lợi ích và vật chất cho riêng mình, mua và bán, ăn và uống mồ hôi nước mắt của kẻ nghèo, dựa trên lao nhọc của họ mà vỗ béo thân ta - tất cả những điều ấy sẽ biến mất hoàn toàn giờ đây, bởi sức mạnh của tình yêu và cộng đồng.”


Michael Gaismair viết về nước của Jesus năm 1526:

“ Các thành phố sẽ sụp đổ, và chỉ còn làng quê. Rồi sẽ không còn phân biệt giữa con người, không còn ai hơn ai, ai quan trọng hơn ai. Bởi phân biệt giai cấp mà kiêu ngạo, tội lỗi nảy sinh.”


Hans Hergot viết: “Thời cựu ước là thời của Cha, Tân Ước là thời của Con, rồi tới thời của Thánh Linh. Trước khi thời Thánh Linh tới, sẽ có ba cái bàn trong xã hội. Bàn thứ nhất là sự dư thừa. Bàn thứ hai là vừa đủ. Bàn thứ ba là nghèo đói. Người ngồi ở bàn thứ nhất vẫn cố dành giật mọi thứ họ có thể lấy. Rồi God ra tay lật đổ cả các bàn, thế là mọi người phải ngồi cùng nhau ở bàn khiêm nhượng, vừa đủ (moderation).”


Peter Rideman viết:

“Những thứ trong tự nhiên được trao ban cho con người, tất cả chứ không chỉ một người. God tạo ta mọi thứ từ đầu, không muốn các thứ dưới quyền sở hữu cá nhân. Nhưng con người tội lỗi thay luôn khẳng định của mình. Con người tích luỹ mọi sự, và ngày càng rời xa khỏi God, để tôn thờ tạo vật chứ không phải Đấng Tạo Thành. Những gì ngoài tầm với của con người thì may thay vẫn là của chung: mặt trời, mặt trăng, các sao, không khí. Ý chí của God muốn thụ tạo phải nên như vậy, chung chia mọi điều.”


Peter Walpot nói: “Của tôi, của anh là nguyên nhân gây ra mọi tranh chấp, chiến tranh bắt đầu từ đó. Người ta trở thành nô lệ của sở hữu và bạn bè của thèm muốn. Như đất không bao giờ có thể uống đủ nước, lửa không bao giờ nói “đủ rồi”. Có càng nhiều, muốn càng nhiều. Của tạm cần phải được xem là những thứ công cụ nguy hiểm.”


Cộng đồng của những người Anabaptist rơi vào bức hại liên miên. Nơi tập trung hơn 25 cộng đồng cùng lúc bị thiêu rụi. Lương thực, vật nuôi, đồ đạc bị cướp đoạt. Đàn ông bị hành hình đủ kiểu, phụ nữ và trẻ em bị ngược đãi, bán làm nô lệ. Cộng đồng Anabaptist khắp Châu Âu dần tan rã, những người còn sống chạy trốn đây đó. Họ không thể sở hữu ngay chính mạng sống mình. 


Song ngay cả những khi ấy, đòi hỏi cao nhất của tình yêu vẫn không chết. Miễn là những người Anabaptist vẫn sống trong liên hiệp với Jesus. Họ vẫn chung chia những gì mình có, và Jesus chỉ đường.

Monday, June 30, 2025

C93: Anabaptist 1

The Secret of Strength - Peter Hoover 


Chương 1: Người đàn ông bị treo bằng ngón cái (A man hanging by his thumb)


Mặt trời rọi trên Klundert, đồng bằng xanh ngát trải dài. Khách tham quan ghé Klundert chụp ảnh, những cánh đồng hoa và rau màu mỡ. Những con mương thẳng tắp cắt ngang qua những cánh đồng cho đến khi chúng quên mình ở đường chân trời. Du khách nói: "Chúng tôi thích nơi này, quả là thanh bình." 


Nhưng có nhiều điều mà du khách không biết.


Klundert, một ngôi làng nhỏ của Dutch đã từng đẫm máu. Máu của những người Anabaptist đã từng đổ tại nơi này. Trong suốt những năm giữa của thế kỷ 16, để trốn khỏi những cuộc bách hại, những người Anabaptist đã lẻn tới những cánh đồng này và gặp nhau trong bí mật. Đôi khi, họ tụ họp trong nhà của ông Elsken Deeken hay Jan Peetersz, những người hầu cận (servant) của Ngôi Lời (the Word). 5 tháng 8 năm 1571, khoảng một trăm người Anabaptist gặp nhau tại nhà Peetersz ở Klundert. Họ tới từ những thành phố hay khu vực lân cận. Một cặp đôi đương chuẩn bị làm đám cưới ngày hôm đó. 


Thị trưởng và tùy tùng đã nghe tin tức về những người Anabaptist đang tập trung tại chỗ nọ bèn gầm lên: "Ta sẽ nhổ sạch cái tổ đó và tống tiễn tất cả bọn chúng!" Hai lần liền ông ta sai do thám tới nhà Peetersz nghe ngóng. Do thám đã nghe thuyết giảng và thấy rất nhiều ngọn nến được thắp sáng sau 9 giờ khuya. Thế là thị trưởng và đội binh ập tới với gươm và súng. Họ quơ trái, tóm phải... Nhưng hầu hết những người Anabaptist đều sẵn sàng cho bất cứ sự tình nào tương tự. Họ trốn lên tầng trên, và trốn qua một lỗ trên mái nhà, hoặc lẩn vào góc nơi bức tường có lối thoát hiểm. Chỉ có 6 người đàn ông và vài phụ nữ bị bắt, trong số đó có một cậu bé 16 - 17 tuổi. Những người phụ nữ trốn được bằng cách nào đó. Họ tịch thu tài sản và nhà đất của tất cả những người ấy. Sau đó họ tuyên cáo: "Những người này không rửa tội cho trẻ nhỏ, không tin Christ được sinh từ đức mẹ đồng trinh, họ tự coi mình là bầy vượt trội, được tuyển chọn bởi God..."


Peter người thợ may đã chấp nhận chối bỏ "mê tín" nên được tha, còn lại phải giam chờ ngày hành hình. Một người bị trói và quật, một người bị kéo phanh thây, người khác phải há miệng ra để bị tiểu tiện vào, Geleyn Cornelis là tệ hơn cả. Họ lột trần truồng ông và treo ông lên trần nhà bằng chính ngón cái tay phải, cộng thêm một quả tạ vào bàn chân trái. Rồi họ cạo lông và đốt bộ phận nhạy cảm bằng nến, và tra tấn liên tiếp cho đến khi bất tỉnh hoàn toàn. Nhưng họ không buông tha: "Làm tiếp cho đến khi hắn phải khai!" Cuối cùng tất cả bị thiêu trên giàn lửa. Gió bỗng thổi ngược nên lính phải lấy chiếc kều đẩy họ vào lửa mới thiêu được.


Từ ấy vùng Klunder không còn bóng người Anabaptist nào.. Đây là những điều mà du khách ngày nay không biết. 



Chương 2: Bí mật của sức mạnh ấy là gì?


Từ nhỏ, tôi đã được kể về những người Anabaptist từ chính cha ông mình. Câu chuyện về người đàn ông bị treo bằng ngón cái được kể từ lúc tôi chưa vào lớp 1. Tôi không thể quên ngày hôm đó, khi tôi là một đứa trẻ đang ngồi trên đùi ai đó và nghe người lớn kể với nhau câu chuyện này. Tôi sống đến bây giờ và nhìn nhận một cách sâu sắc thử thách đặt lên chính mình bởi tổ tiên tôi, là những người Anabaptist. 


Chỉ trong 30 năm đầu khởi sự, từ những người Anabaptist đầu tiên ở Thụy Sĩ (Switzerland), dần lên đến hàng ngàn, trăm ngàn người theo đó, và họ đều đối mặt với sự bức hại cay đắng nhất. Vào năm 1525, 2 tháng sau khi Conrad Grebel được rửa tội, ông đã lập tức "rửa tội lại" cho vài trăm người ở sông Sitter, vùng Sankt Gallen, Switzerland. 10 năm sau đó, cuộc vận động mang tên Anabaptist (Rửa tội lại) lan ra khắp nơi trên lãnh thổ Đức (German). Toàn miền nam nước Đức được ghi nhận đã cải đạo theo Anabaptist lúc bấy giờ. Ở Moravia, các cộng đồng Anabaptist lên tới 60,000 người. Ở Netherlands, Belgium, Lower Rhine, Holstein, biển Baltic, phía đông Prussia... Anabaptist bùng nổ.


Phải chăng bởi gặp gió?


Không. Bởi cũng cùng những năm đó, không thể đếm nổi những người Anabaptist chịu tù đày, trục xuất, tử hình từ nhà thờ Công giáo La Mã (Roman Catholic) và chính quyền. Họ bị thanh sắt nung đỏ đâm vào chân, lưỡi bị đóng đinh vào hàm, ngón tay bị chặt, người bị buộc thuốc súng vào mồm cho nổ, kẻ bị chặt đầu, dìm chết, chôn hoặc thiêu sống, đủ kiểu hành hình được ghi lại mà độ dã man khiến người ta rùng mình. 


Cuộc vận động Anabaptist khai sinh từ một thành phố mang tên Zurich, nó nhanh chóng phát triển ra các thành phố lớn khắp trung Âu: Strasbourg, Augsburg, Regensburg, Salzburg và Worms. Không lâu sau, lan đến Aachen, Gent, Utrecht, Amsterdam, Emden, Hamburg, Lubeck, Danzig, Kaliningrad ở đông Prussia. Trên đường phố lúc đèn mờ, trong quảng trường nơi hành hình trước công chúng, khắp nơi. Những cộng đồng theo đạo Thiên Chúa (Christian) thành hình trong tình yêu đã liên hợp (unite) họ - Nước Trời (Kingdom of Heaven) đã đến Trần gian (Earth).


"Bí mật của sức mạnh ấy là gì?" Một người phụ nữ hỏi. Họ đã đạt được cả vinh quang và thất bại tột cùng. Họ bắt đầu bằng ánh sáng tuyệt vời từ trời cao, trong đức tin chân thật, tự thân mỗi người. Họ đã từng tự do ngay cả trong tù ngục, thoát khỏi mọi ngục tù vật chất trần gian này. Cùng lúc ấy họ đã chết thê thảm như chính Jesus Christ, người mà họ tôn thờ. Sức mạnh ấy bắt nguồn từ đâu? Chính tôi cũng tự hỏi. 


Kỳ lạ! Không có học vấn, không có lãnh đạo, không có nhà thờ, không có tập sự bài bản, không kinh nghiệm, không truyền thống, bao yếu điểm trong lý thuyết và tín điều của họ. Nhưng nó lay chuyển toàn Châu Âu như thời kỳ đầu của "Công vụ các sứ đồ".


400 năm sau đó, tôi lớn lên với ý thức thường trực về "di sản Anabaptist" rực rỡ của chúng tôi. Khi còn bé, tôi luôn tự hỏi làm sao mà tổ tiên mình có thể như vậy. Tôi và các anh chị em nghe cha mẹ mình kể về những người Anabaptist trong suốt những đêm đông dài. Chúng tôi nhìn họ trên những tấm khắc mộc không tô vẽ hay sơn màu trong nhà chung của cộng đồng nơi để hát và cầu nguyện. Luật của chúng tôi là không bao giờ chú trọng hình thức và những sự thuộc về thế gian (worldly things). Vì vậy đồ vật trong nhà cũng không bao giờ sơn mà chỉ toàn là thô mộc. Người không trong cộng đồng của chúng tôi gọi chúng tôi là những người nhạt nhẽo (plain people). Chúng tôi không khác với thế hệ vài trăm năm trước là bao trong phong cách sống.


Giờ tôi bắt đầu cảm thấy một sự so sánh khá thú vị về một nhân vật trong Kinh Thánh là Samson. Sau khi Samson đã mất đi sức mạnh và bị mù. Nhưng rồi bí ẩn nào đó khiến sức mạnh của Samson trở lại. Chúng tôi cũng vậy, điều gì xảy ra nếu một vài người "nhạt nhẽo" bắt đầu nhớ lại - hay khai phá ra bí mật của sức mạnh mà tổ tiên họ đã từng mang? Những cộng đoàn người Mennonite, Amish, Hutterite rải rác khắp nơi có đến triệu người, liệu cơ bắp họ sẽ cuồn cuộn, xiềng xích sẽ rơi xuống, và những cột trụ của đền thờ ngẫu tượng giả tạm ở trần gian (Idol's temple) sẽ rung chuyển?


Điều gì sẽ xảy ra? Trong cuốn sách này tôi muốn để những người Anabaptist đầu tiên trả lời cho câu hỏi đó. 



Chương 3: Người phụ nữ sinh con trong ngục


Năm 1637, họ bắt được người truyền giáo Hans Meyli ở Horgerberg tại chân núi Alps, phía nam hồ Zurich, Thụy Sĩ. Họ tống giam ông nhưng sau 43 tuần ông trốn thoát. 30 thợ săn Anabaptist được treo thưởng nếu tìm thấy ông và chuyện phải đến đã đến. Họ ập tới nhà nơi ông và gia đình đang trú ẩn, ập tới với gươm giáo, bắt được gia đình ông gồm hai con trai và vợ của họ. Tất cả đều bị bắt, đứa bé 14 tuần tuổi mới sinh là cháu nội bị giật khỏi tay Anna là mẹ nó và đưa đi. Họ bị bắt giam nhiều ngày song bằng cách nào đó họ đều trốn thoát. Anna mang thai lần nữa và lần này lại bị bắt, chỉ gần đến ngày sinh con ơn sao thoát được. Người phụ nữ tên Anna (Baer) Meyli này là tổ tiên của tôi, 11 thế hệ trở về trước.


Chúng tôi sống giữa 25 chi phái Mennonites và Amish trong một hạt đông đúc ở miền nam bang Ontario. Dấu vết về Anabaptist đều hiện diện quanh đây. Mỗi nhóm đều khẳng định mình là một hậu duệ của "di sản Anabaptist". Khoảng những năm 1950, làng của cha mẹ tôi (đã phân tách ra khỏi một làng khác từ năm 1917) trải qua một khủng hoảng nội bộ lớn. Cha mẹ tôi lại đại diện lập ra một làng khác, mà tôi được sinh ra trong ấy. Khi tôi 13 tuổi, chúng tôi lại rơi vào chia tách và hai năm sau thì biệt lập hẳn. Khi tôi lớn lên thì cha mẹ đã không còn tham dự vào các buổi cầu nguyện chung. Cha tôi nói về việc sẽ đi khắp miền đông nước Mỹ để thăm tất cả các nhóm song chúng tôi không mấy hy vọng về việc tham gia vào nhóm làng nào. Suốt cuộc đời, chúng tôi đã chật vật liên miên với những vấn đề thuộc về lối sống - nên cho phép điều gì hay từ chối điều gì, bởi nó "worldly" (vô thường - thuộc về thế gian) hay thuộc về ma quỷ. Cha mẹ tôi không bao giờ thuyên chuyển đức tin Anabaptist lâu đời.


Một chiều mùa đông năm 1975, có một quý ông người thành phố từ Canana đi ngang qua chuồng ngựa nơi tôi đang dọn dẹp. Xe ông táp vào lề đường và kẹt tại đó. Ông cụ tặng tôi một số tiền kha khá, và tôi bắt đầu dùng nó để mua sách, tất cả những cuốn nói về người Anabaptist - Mennonite. Dần dà tôi được càng nhiều người cho sách và giới thiệu vào học viện Mennonite, gặp một giáo sư chuyên nghiên cứu người Anabaptist, ông cho tôi nhiều tài liệu và hướng dẫn tôi sau này. Tiếp đó, tôi gặp một người trở về từ thế chiến II, ông có một kho báu quý hiếm những trang viết cổ của người Anabaptist bằng tiếng Đức chưa từng được dịch. Từ đây tôi bước vào lãnh thổ tinh thần xưa cũ... Từ đó mà cuốn sách này thành hình.


Tôi bắt đầu thấy một ánh sáng mới kỳ lạ trên những người sẵn sàng chết với đôi mắt rạng rỡ. Từng chút một, tôi bước tới niềm tin rằng một ngày nào đó, "gió sẽ thổi và trời sẽ quang đãng sáng ngời, khi tôi đi ... đi ... trên con đường mới.


Con đường mới này dài và gian khó hơn tôi tưởng. Nó mang tôi đến nơi mà tôi không định tới. Nó mang tôi từ nơi trốn ổn định lâu bền đến chỗ không chắc chắn, chẳng biết nên đến đâu hay với ai. Nó mang tôi đến cô độc, nghèo khó, nơi tất cả đều nghèo bình đẳng. Tôi bước vào một thế giới đáng sợ, với những con người trần gian đáng sợ, với những ghét bỏ và chối từ, kiêu ngạo và độc đoán, một thế giới tàn nhẫn mà tổ tiên tôi cũng từng đối mặt.



Chương 4: Nguồn Gốc


Từ Parthia, Media, Elam, Babylon, Cappadocia và những nơi thuộc quản của Judea, nhà cai trị tin vào Christ, Thiên Chúa Giáo lan ra đến Hy Lạp. Sau cuộc hoán cải của sứ đồ Paul, hàng trăm hàng ngàn ngời Hy Lạp dưới thời Alexander đã cải đạo. Những kỹ sư, luật sư, bác sĩ, những người có học ở Hy Lạp bắt đầu sùng đạo và trở thành những tín hữu Chúa. Hy Lạp trước đó đầy rẫy những tệ nạn đạo đức, song cuộc chuyển đổi tôn giáo đã biến Hy Lạp thành lãnh thổ của Tin Lành. Tiếng Hy Lạp (Greek) là thứ tiếng của thế giới lúc bấy giờ, đạo Thiên Chúa đã được truyền tới Syria, Ai Cập, và tiểu Á bằng tiếng này. Sứ đồ Paul cũng đã viết những lá thư bằng tiếng Hy Lạp. 


Khi sự ảnh hưởng của Hy Lạp đi xuống, đế chế phương tây là Rome lên ngôi, tiếng Latin đi vào thống trị. Những người truyền đạo dùng tiếng Latin ở Italy và Châu Âu nói chung. Thiên Chúa Giáo lan ra khắp nơi, tới Anh, Ireland, Spain, Portugal, Pháp...


1800 năm trước Công Nguyên, những nhóm người nọ đã vượt Mesopotamia, qua Persia và Ukraine, qua cả Châu Âu rồi đến biển Bắc, nơi họ dừng lại và họ tự gọi mình là Teutsch (German).


Những người Đức (German) đầu tiên sống bằng săn bắn hái lượm, họ cũng trồng vài hoa màu. Họ được coi là những thổ dân của Châu Âu ("Indians of Europe). Họ thích nghi với những cánh rừng lạnh và những vùng đất ẩm ướt dọc bờ biển Âu, họ cư ngụ khắp nơi trong Rừng Đen (Blank Forest) và trên những ngọn núi Swabia. Những người Vikings đi đánh chiếm Scandinavia, lãnh thổ của nước Anh, đến Nga, Italy, và châu Á  

Những kẻ xâm lược man di này không quan tâm đến tiếng Latin hay văn hóa Hy Lạp. Họ tàn phá và giết chóc vô số. Tình cờ là họ đã mang về một đứa trẻ trong số nhiều đứa trẻ khác, làm thay đổi hoàn toàn cục diện. Đó là khoảng thời gian Constantine đệ nhất, Đức đánh chiếm vùng Cappadocian (Thổ Nhĩ Kỳ) và đem về một cậu bé tên là Ulfilas.


Ulfilas không như những đứa trẻ khác, không sợ hãi. Qua chặng đường dài gai góc, cậu học tiếng Đức và bắt đầu nói chuyện với những người Đức về Christ. Cậu bé này đã thuyết phục được từ già đến trẻ, đàn ông phụ nữ, những thổ dân Đức đã say sưa lắng nghe cậu. Trái tim họ hưởng ứng câu chuyện về Christ. Từng người một bắt đầu tin và hoán cải. Ulfilas rửa tội cho họ bằng nước. Chẳng bao lâu, Tin Mừng lan khắp Đức. Ulfilas dùng chữ cái Hy Lạp và Latin mà mình biết để sáng tạo ra một bảng chữ cái Đức dành riêng cho họ, dạy họ tự phiên dịch Kinh Thánh từ tiếng Latin sang tiếng Đức. Năm 341 sau Công Nguyên, Ulfilas trở về quê hương mình ở Châu Á. Người ta gọi Ulfilas là sứ đồ của những nước nói tiếng Đức.


Constantine với tầm nhìn lớn đã đồng bộ hóa nhà nước Roman với các nhà thờ đạo Thiên Chúa, biến Thiên Chúa Giáo trở thành công giáo có tổ chức trên toàn Châu Âu và tương lai là toàn cầu. Ông triệu tập các học giả, linh mục, tất cả những ai có khả năng để khiến điều này đi vào lịch sử. Những giáo điều mới được sửa đổi khác đi so với thời kỳ đầu công nguyên. Theo đó những điều không thuộc về "quy ước mới" của Giáo hội thì bị coi là "dị giáo". Nước Đức cũng không tránh khỏi cuộc cải cách tôn giáo này. 


Nhà thờ công giáo chính quy, với tất cả những mặt trái tiêu cực của giới chức sắc, tuy vậy đã mở đường cho Châu Âu nói chung và nước Đức nói riêng tới đời sống tôn giáo. Người ta bắt đầu vào những tu viện, và sùng mộ đời sống tinh thần. Những nhà thờ mọc lên ở khắp nơi. Đây một tu sĩ người Đức - Martin Luther, kia một mục sư Menno Simons - người sau này trở thành Anabaptist. Johannes Gutenberg, một thợ kim hoàn người Đức phát minh ra máy in, năm 1455 ấn bản in toàn bộ cuốn Kinh Thánh ra đời. Máy in đã cách mạng hóa học vấn, phổ cập tri thức cho toàn nước Đức. 


Những người Anabaptist xuất hiện kể từ đây.



Chương 6: Về Jesus


Với những người Anabaptist, theo Jesus không chỉ là vâng theo, không chỉ là chết vì ngài, mà là hiểu biết ngài, sống giống như ngài hay như những môn đồ đầu tiên của ngài. Như lời sứ đồ Paul trogn Phillippian 3:10. Trong tiếng Hy Lạp, từ "koinonia" dịch ra tiếng anh là "fellowship", tiếng Đức là "Gemeinschaft". Với những người Anabaptist, từ này vô cùng quan trọng cả trên nghĩa tinh thần lẫn vật chất. (Acts 2:44 / 4:32, 1 John 1:7. Những người Anabaptist thích dùng từ này thay từ "nhà thờ" (church).


Peter Rideman đã viết trong ngục vào năm 1540:


"Khi chúng ta lắng nghe Tin mừng và muốn giống như vậy, chúng ta tiến nhập vào cộng đồng (community) của Christ, như lời sứ đồ John (I John 1:3): "Điều mà chúng tôi đã thấy nghe, chúng tôi tuyên bố với anh em, để anh em có thể Hiệp Thông (Gemeinschaft) với chúng tôi, và chúng tôi liên giao (Gemeinschaft) với Chúa Cha và Chúa con, Jesus Christ, người đã cho chúng tôi mọi điều người nghe biết về Cha người."


Liên Thông (Gemeinschaf) không gì hơn là có chung mọi sự với người mà chúng ta gắn kết từ bên trong. Đó là không giữ bất cứ điều gì cho riêng mình, mà chia sẻ tất cả những gì mình có với người - như thể Cha không giữ gì cho riêng mình mà cho Con tất cả, và người con cũng không giữ gì cho riêng mình mà chia sẻ mọi thứ từ Cha cho những ai hiệp thông với người.


Những ai trong Tình Hiệp Thông (Gemeinschaf) với Christ thì làm theo tấm gương ngài và không giữ gì cho riêng họ. Họ có chung mọi sự với ngài, và với tất cả những ai thuộc về Liên Hiệp (Gemeinschaf) của ngài.


Với Jesus, Liên Hiệp này chỉ tới với những cái giá lớn lao. Đây là một món quà của God, nhưng người ta phải trả những cái giá khôn lường. Với những người Anabaptist, Hiệp Thông với Jesus có thể phải đánh đổi bằng vợ chồng, con cái, cha mẹ, phải trốn chạy hay hành hình. Vinh quang của những ai chung chia thương khó của ngài, sẽ rọi sáng ngay cả trong ngục tù tăm tối nhất. Nó là thứ ánh sáng nằm ngoài trần thế, rực hơn cả những ngọn lửa trên giàn thiêu. Là thứ ánh sáng mở ra thiên đàng và cho người ta thấy ngay lúc đó, trong tầm tay với, là niềm hoan hỷ không thể nói nên lời về Tình Bằng Hữu (Fellowship) nơi trời mới đất mới, nơi sự công chính ngự trị (dwell).


Hiệp Thông với Jesus, với những người Anabaptist, là lời hứa về nước Trời. Một người Anabaptist ở miền nam nước Đức viết:


"Cha trên cao đã lo cho chúng ta tất cả, nếu chúng ta thương khó với Jesus và quy phục chính mình đời này, và không ngừng cố gắng để bước vào Liên Hiệp của Ngài. Ngài đã đánh dấu con đường ta nên đi, để ta không đi lạc. Vì vậy, tín hữu, hãy cùng nhìn gương Jesus đã bước đi như thế nào, thì chúng ta cũng sẽ giống ngài trong Tình yêu và Đau khổ. Hãy để chúng ta giữ giao ước với ngài. Máu ngài chúng ta uống, thịt ngài chúng ta ăn, phải hiểu là: để chúng ta cũng sẽ như ngài trong liên kết mà God đã mở. Ngài là cộng đồng linh thiêng - trên trần gian, và chúng ta là những người bạn đồng hành, là công việc, tình yêu của ngài trên trần thế.


Vì vậy hãy tới! Tất cả những tín hữu sơ sinh! Hãy tới với Chiên Con - Chritst trong Lễ Vượt Qua (Passover), bằng tấm chân thành, để dự phần nước Trời và Liên Giao vĩnh viễn!"


Những người Anabaptist đi xa hơn việc tôn thờ cây thập tự gỗ, Đức mẹ đồng trinh, hay những vị thánh thời quá khứ. Họ tự do cầu nguyện trực tiếp với Jesus. Họ không vướng vào những giáo lý "sửa đổi" của loài người trong thời Cải Cách Tôn Giáo, họ cầu nguyện với Chúa Cha hay với anh (Jesus). Đây là một tội phạm thượng trong nhiều tội khác mà giáo hội đã gán cho họ. Trên đường đến với Hiệp Thông, họ bước qua cửa tử không chút chần chừ.


"Ôi Christ, hãy giúp người của ngài!" Michael Sattler khóc lớn trước khi bị cắt lưỡi và hỏa thiêu trên cột, năm 1527

"Ôi đức Christ từ trời cao, tôi ngợi ca ngài vì đã lấy đi đau buồn của tôi trước khi chết!" Felix Manz kêu lên trước khi bị quăng xuống hồ băng Limmat, năm 1526.


Jesus là người hùng, người bạn, người anh của những người Anabaptist. Một người vô danh trong những tuyển tập lưu lại của người Anabaptist viết:


"Nhìn kìa hiệp sĩ Jesus đã tới! Chỉ huy đã tới! Trận chiến mà chúng ta đối mặt đầy khốc liệt. Kẻ thù chúng ta - là trần gian này - là xác thịt, tội lỗi, ma quỷ, và sự chết. Nhưng chỉ huy đã vượt qua tất cả, đánh bại tất cả. Hãy tới bên ngài để được giúp đỡ. Hãy phất cao ngọn cờ, đừng để kẻ thù bắt ta khỏi tay vị chỉ huy ấy. Nếu ta muốn vinh quang chiến thắng, ta phải chịu đựng và chết cùng ngài. Họ đã bắt Christ, đánh ngài, giết ngài. Cũng như vậy họ xử tệ với chúng ta, săn giết chúng ta, chặn đường ta. Tất cả những bạo lực này đã và sẽ đến. Nhưng hãy đợi, chỉ huy sẽ tới, ngài sẽ phá vỡ sức mạnh của kẻ thù, và sẽ đứng bên đàn chiên nhỏ!


Hỡi tất cả những hiệp sĩ (knights) của God, hãy mạnh mẽ! Hãy chiến đấu! Cơn bão không lâu sẽ qua đi. Hãy vững tin! Đứng lên đối mặt với sự chết! Đừng sợ hãi. Đàn ông và phụ nữ, hãy tin vào God!"


Học bằng việc hành. Nghe thì dễ, nhưng "làm như Jesus đã làm" thì không dễ. Hans Schlaffer là một linh mục Catholic Roman ở Austria. Ông trở thành một Anabaptist vào ngày 5 tháng 12, 1257 trên đường về nhà, ông tình cờ dự một buổi gặp lén của những người này. Ông bị bắt và đêm trước khi bị chặt đầu, ông viết: 


"Ôi God, khai sáng bởi lòng Ngài. Ai tin Jesus thì phó thác chính mình cho ý God. Jesus đã khước từ bản thân và nhận lấy cái chết. Ôi God, bất cứ ai sống trong Christ đều chịu khổ và chịu chết để được phục sinh với ngài trong vinh quang nước trời. Đây là Linh Thánh! Đây là cách chúng ta hiểu về Đức tin (Faith). "


Ambrutz Spittelmayr, một linh mục cải đạo theo Anabaptist, trước khi bị hành hình ở Ansbach, viết:

"Tất cả những ai nên một với Jesus qua lời thiêng của ngài phải hiểu. Jesus là đầu, cái đầu đã khổ thì toàn bộ chi thể chân tay và các bộ phận khác cũng phải như vậy. Jesus Christ là con người bằng xương bằng thịt. Lạy God, trong giờ chết của xác thịt tôi, là sự sống vĩnh hằng!"


(Sở dĩ người Anabaptist trở thành đối tượng căm phẫn của Chính giáo và Chính quyền là bởi họ luôn đề cao sự từ bỏ cá nhân, họ cho rằng các tín hữu không nên sở hữu tài sản, nhà đất, tất thảy những gì thuộc về trần gian. Họ không tôn trọng tiếng nói của nhà thờ chính tòa. Họ đảo lộn trật tự xã hội vốn luôn coi những của cải, địa vị, giàu sang quan trọng hơn tất cả. Người Anabaptist đã "cực đoan hóa", "lý tưởng hóa" về đức tin của họ, trong một xã hội nơi kẻ cầm quyền sợ nhất việc mất đi quyền lực. Ở họ có lý tưởng sâu sa của chủ nghĩa cộng sản.)


-


Chương 7: Về Tội Lỗi


Thành phố lâu đời của Đức là Schwabisch-Gmund ẩn mình trong những rặng núi Swabian Alp. Người Roman biết địa điểm này từ những năm 1230 và nhà thờ cùng cây thập tự đã quen thuộc với dân chúng nơi này từ đó. Một người đàn ông trẻ tên là Martin đến từ Bavaria là một nghệ sĩ chuyên vẽ tranh cho thành phố Augsburg ở Bavaria. Martin bị trục xuất khỏi Augsburg vì tội tham gia giáo phái "mê tín dị đoan" (sect) của những người Anabaptist.


Martin trở nên nổi tiếng trong thành phố Gmund giữa những người trẻ tuổi. Martin làm thơ và hát, gõ cửa từng nhà để mời gọi người ta đi theo Jesus. Sự chân thành của Martin đã khiến cả trăm người trong thành phố cải đạo theo Anabaptist, cho đến một ngày mùa đông năm 1529. Giữa buổi hành sự, Martin bị bắt quả tang đang "lừa đảo" trẻ em, thanh niên, người nghèo.... Những người vô tội được thả còn Martin phải tạm giam đợi xét xử. Những người yêu mến đã cố gắng hết sức để bênh vực Martin, họ trèo tường vào ngục, xin với lính canh để được gặp Martin, họ thậm chí còn cùng hát trong tù. Martin bị buộc tội lạm dụng tình dục phụ nữ và thiếu nữ. Martin không có gì để thú nhận ngoài việc ham muốn duy nhất là sống đúng như Jesus. Tội trạng lớn nhất của Martin (từ quan điểm của chính quyền) là việc "dụ dỗ dân lành để trục lợi tài sản cho bản thân". Vì chủ trương Anabaptist cho rằng tín hữu nên chung chia mọi tài sản vật chất cũng như tinh thần trong Liên Hiệp với Jesus. 


4 tháng 12 năm 1528, họ mang 7 người bao gồm Martin ra tử hình trước công chúng để làm gương cho thành phố. Trong 7 người có một người là phụ nữ và một cậu bé là con trai ông xay lúa. 7 người này cứng đầu nhất thiết không chịu từ bỏ tín điều. Họ bị giải đi bằng xích sắt từ nhà giam tới cánh đồng băng ngoại thành. Quý tộc, lãnh chúa, quan tòa, các công dân trong thành phố đều đến xem. Trong đám còn có trống và kèn inh ỏi. Lính canh làm thành một vòng tròn và ở giữa là những tội nhân khốn khổ. Bỗng nhiên có tiếng hét của cậu bé con ông xay lúa. Tiếng cậu lớn hơn cả tiếng trống, to rõ vang lên: "Hãy từ bỏ tội lỗi! Quay về với God! Ngoài Jesus Christ người đã chết trên thập tự, không còn đường nào khác tới thiên đàng." 


Một số người trong đám xem hét lên đáp lời: "Can đảm lắm cậu bé mạnh mẽ!" Một quý tộc nhân hậu không thể chịu được cảnh này nữa bèn tiến vào vòng vây và lớn tiếng than: "Con trai ta, hãy quay đầu khỏi lỗi lầm đang phạm phải. Đừng để chết uổng một đời trai trẻ! Con đang đánh đổi điều gì vì nó? Ta sẽ đưa con về nhà, lại đây với ta. Ta cho sẽ cho con thừa kế gia sản, coi con như con ruột hết đời này. Con có rất nhiều điều tốt đẹp tương lai phía trước. Lại đây, ra khỏi đó và trở thành con trai ta!"


Nhưng cậu bé dõng dạc thưa: "God không muốn con làm vậy. Liệu con nên chọn một đời trần gian và từ bỏ God? Không! Của cải của ngài không thể giúp cho ngài hay cho con đâu. Con chọn của cải lớn hơn sau cùng. Con xin nộp Tinh Thần con cho God và Jesus, để khổ nạn của Jesus không phải là uổng phí."


Cả 7 người đó đều bị chặt đầu và một nỗi sợ hãi lớn lao bao phủ khắp dân chúng. Có người thấy những tia sáng trong đài phun nước vào đêm hôm đó và nghe những giọng hát của thiên thần...


Jesus là vị tử đạo đầu tiên, ngài đã khước từ cuộc đời dễ dàng, vinh quang trần thế, bước đi không chần chừ tới cái chết tủi nhục bởi trong tim ngài có sự bình thản đinh ninh rằng điều ngài đang làm là điều phải. Những người Anabaptist cũng có một sự đinh ninh như thế. Và họ có thể gọi những lãnh đạo tôn giáo thời ấy là "Caiaphas" hay chính quyền là "Pilate". 


Menno Simons, một trong những người gây ảnh hưởng lớn tới Anabaptist viết: "Chỉ mình Christ là bậc cai trị của lương tâm, hãy để ngài là quốc vương, và lời ngài là Luật lệ. Hãy vâng theo God trước khi vâng theo các đại đế trần gian, và quan trọng lời God hơn cả."


Điều này hiển nhiên làm rúng động mọi thể chế lúc bấy giờ. Điều gì xảy ra nếu dân chúng không vâng theo những người có thẩm quyền, xã hội sẽ đảo lộn đến mức nào? Nếu người ta được tự do tin vào những điều mình muốn, tự do vâng theo những điều họ muốn vâng theo?


Khi nào đó, có một "nước trời bên trong" đã chạm tới những người Anabaptist. Như sự hoán cải tinh thần một cách rõ ràng, tỏa rạng trên gương mặt cậu bé con ông xay lúa, như những người đã có thể nói về God bằng cái giá của đời mình. 

  




Thursday, June 26, 2025

C92: Mục Đích Tiếp Nối

Chương 92: Mục Đích Tiếp Nối 

Mục đích của sự sống này, của tất cả những lo toan vụn vặt thường ngày hay lo lắng lớn lao, tất tật những gánh nặng hay nhẹ buộc ràng vật chất lẫn tinh thần ai ai, mà mỗi người từ khi sinh ra đã nhận lấy - cái bổn phận phải đi hết con đường đời mòn mỏi những dấu chân này, là gì?

Tín đồ New Age bảo rằng đó là Tiến Hoá để dần trở thành Đấng Sáng Tạo, Phật Tử bảo đó là Tu Tập để thành Phật, Con Chiên bảo để được Cứu Rỗi... khỏi sự mỏi mòn lặp lại khổ đau trong cái lốt sướng vui tạm bợ.

Sách “The Secret of the Strength” của tác giả Peter Hoover nói về những người Anabaptist vào khoảng thế kỷ 15-16 có đoạn:

Năm 1527, hai năm sau sự xuất hiện đầu tiên của phong trào Anabaptist (những người rửa tội lại) ở Thuỵ Sĩ, công chúng đã đồn đại về bí mật của họ. Người ta đồn rằng những người Anabaptist có một thùng phép thuật chứa đầy dung dịch phù thuỷ, thứ nước mà đến quỷ cũng chẳng biết là cái quái gì. Những người Anabaptist bắt những ai theo họ uống thứ nước ấy, mà dù chỉ một ngụm nhỏ thôi cũng đủ để thay đổi cuộc đời kẻ ấy hoàn toàn. Cái đầu kẻ ấy bỗng trở nên cực đoan nghiêm túc, không bao giờ có thể làm những gì mà trước giờ vẫn làm nữa. Không tiền bạc, không lợi ích nào mà đời đưa ra có thể mang kẻ đó trở lại là người như y đã từng là. Một khi đã uống phù phép, kẻ nọ sẽ chết trước khi từ bỏ những tín điều kỳ lạ của mình.

Năm 1527, ở trong tù, trước khi bị chặt đầu tại Rattenberg, Leonhard Schiemer đã trả lời cho câu chuyện trên rằng:

“Hỡi công chúng vô đạo, hãy nghe tôi nói đây. Các người đã đúng, chúng tôi đều phải uống từ chiếc cốc phù thủy, và hẳn nhiên là ma quỷ chẳng biết cái quái gì trong đó. Các người cũng vậy! Nhưng nếu các người muốn biết, thì tôi sẽ tiết lộ thành phần bí mật của thứ nước ấy ngay đây! 

Sự thật là bất cứ ai đã nhấp dù chỉ một ngụm cũng đủ để thay đổi hoàn toàn! Bởi thứ nước ấy được làm từ không gì khác ngoài sự đánh gục, xay nhuyễn, vò xé một trái tim đau khổ đã bị nghiền nát trên thập tự giá. Đó là thứ nước mà người anh thân thương, người bạn của chúng tôi, Jesus Christ đã uống, nước làm từ dấm chua và mật đắng!

Ấy cũng là thứ nước mà người đã uống trong vườn cây, khiến người đổ mồ hôi máu, ớn lạnh run rẩy và ngất lịm. Quả thực, thứ nước ấy vô cùng kinh khủng, không ai uống phải mà không khiến người lân cận nhận ra kẻ ấy đã thay đổi hoàn toàn. 

Bất cứ ai nhấp một ngụm từ chiếc cốc ấy, dĩ nhiên sẽ từ bỏ mọi thứ mà mình có ... bởi Tinh Thần Christ đã dạy, đã tiết lộ cho người đó những điều mà không ai có thể biểu đạt, không thể nào viết ra giấy. Không một ai, ngoài những người đã được tỏ lộ, biết điều đó là gì ...”

Quá đơn giản để có thể hiểu, quá dễ dàng để có thể giải thích đến nỗi câu chuyện trở nên kỳ bí.

Peter Hoover viết: 

“Bằng cách nào mà họ làm được?” Tôi đã tự hỏi đi hỏi lại chính mình điều đó. Không tiền bạc, không nhà cửa, bị truy nã và bách hại. Khi mà giấy viết khan hiếm và mực thì đắt đỏ, xuất bản hay lan truyền những cuốn sách của Anabaptist là nguy cơ nhận án tử hình. Vậy mà họ vẫn có hàng ngàn cuốn sách chép tay do những Anabaptist phân phát miễn phí! 

Chỉ có thể là ý chí God đã giúp họ. Những người Anabaptist không có tổ chức hay tập trung nào, hoàn toàn rải rác và tự phát, bằng cách nào đó họ đã kết nối khắp mọi nơi. Họ không có nhà xuất bản hay người chỉnh sửa lỗi ngữ pháp ngôn từ. Sau những cuộc càn quét quy mô lớn để đốt sạch những trang viết của họ, vẫn còn lại cho đến ngày nay hàng ngàn hàng vạn ghi chép tay, những trang thơ mà lỗi chính tả sai nghiêm trọng, câu cú âm vần lạc điệu, lủng củng, những sai sót ngữ nghĩa chấm phẩy. Văn phong thì rời rạc, thậm chí chẳng có văn phong. Nhưng God đã vận hà qua thứ văn chương bộc phát, ít học đó và đã khiến nó lay chuyển cả Châu Âu. 

Sự Từ Bỏ - Detachment

Với những người Anabaptist, theo Jesus đồng nghĩa với sự từ bỏ mọi thứ vì God, và quay về với God để ngài có thể dẫn lối chỉ đường. Như Jesus từng nói, đó là ghét bỏ (hate): Ai không ghét bỏ cha mẹ mình và từ bỏ mọi thứ mình có thì không xứng đáng với ta.” Sự từ bỏ chân thực là giết chết cái phàm thể (flesh) và sinh lại một lần nữa. 

Từ bỏ thực sự bao gồm hai điều: chịu nhận mọi bức hại và vượt qua chính mình. Khi người ta tát má bên này thì đưa thêm má bên kia... Chúng ta phải cai những đường lối bản năng của phần con để phần người được khôn lớn, như đứa trẻ phải cai sữa mẹ vậy. Chúng ta phải từ bỏ vợ và chồng, cha và mẹ, tài sản và đất đai, cả đời mình, tất cả những điều mà God đã cho mình ... vì Christ.”

Điên dại hay ngu khờ?

Một người trẻ Anabaptist trước khi bị chặt đầu ngày 19/7/1560 đã viết trong tù: 

“Trần gian này đã trở nên hoang dại, đắm chìm trong tội lỗi, bớt chút ít hoặc chẳng biết gì về God. Và giờ dạy bảo căn bản nhất của Tin Mừng lại trở nên xa lạ và bị coi là dị giáo, tà vạy trong con mắt Trần gian. Ngay khi God dựng lên một sứ giả cứu rỗi, chỉ cho người ta đường lối đúng đắn, họ lập tức khước từ không tin và cho rằng vị đó điên dại, ngu khờ. Bất cứ ai được đổ đầy Thánh Linh (Spirit) thì đều bị coi là điên ngu như thế. “

Lúc đó những người Anabaptist đều bị coi là những kẻ ảo tưởng khốn khổ (miserable fanatics) hết thuốc chữa, họ là kẻ thù của đồng loại và họ chẳng có mục tiêu nào khác ngoài làm rối ren mọi trật tự xã hội! 

Những người Anabaptist từ khắp Châu Âu, hầu hết là tầng lớp lao động và dân nghèo, đã chịu sự truy lùng của chính quyền trong suốt 100 năm. Họ chính là tổ tiên của những người Mennonite, có nhánh khác tách ra là người Amish sau này.

Những người Anabaptist cho rằng việc rửa tội trước khi biết được rõ ràng và cụ thể những tội ấy là gì, thì cũng như đặt cái cày đằng trước con trâu con ngựa, ký tên vào văn thư trước khi soạn ra nó. Truyền thống rửa tội đứa trẻ ngay khi vừa chào đời và coi đó như phép tẩy cho xong không đáp ứng được khao khát sâu sa của họ. Họ tin rằng trừ phi hiểu kỹ về cuộc đời của Jesus, hiểu về tin mừng, nếu không thì có rửa tội bằng cả biển nước cũng không lại. Nước chỉ là hình thức mà thôi. 

Những người Anabaptist đầu tiên không phải là những người sách vở, họ thậm chí không quan tâm hay biết đọc kinh thánh, hầu đa là mù chữ. Họ là những người của đời sống, người của người. Họ không đọc Tin Mừng trên giấy mực mà đọc “Ngôi Lời đã trở nên Xác Thịt và sống giữa loài người” (Tin mừng John 1:14)

“Kinh văn hay thánh thư chỉ là những ký tự bề nổi, chỉ là minh chứng cho lời God bên trong. Nếu không thì một người mù hay điếc làm sao có thể được cứu rỗi? Chúng tôi hiểu God không qua những con chữ màu xám mà qua indwelling của Christ.”

Bởi họ đã tự tin hoàn toàn vào lời Christ và Thánh Linh chỉ dẫn họ cách hiểu, những người Anabaptist thời đầu đã mất hết sợ hãi loài người. Trước toà án tử hình, mọi lời lẽ “kiêu ngạo” của họ chỉ khiến các quan xét tức giận và nhanh chóng kết liễu họ hàng loạt.

Sau những cuộc truy lùng của chính quyền, Người Anabaptist quy tụ lại thành một cộng đồng và coi Jesus là trưởng làng, “người thành lập cộng đồng đầu tiên” xứng đáng để họ từ bỏ mọi sự và đi theo. Đó là lý tưởng thời kỳ đầu của công xã này và suốt mấy trăm năm sau cho đến tận bây giờ. Chỉ trong vài chục năm từ 1527-1560 đã có hơn 60,000 người theo phái Anabaptist. Cấm không được, giết không hết, chính quyền cuối cùng cũng ngừng bức hại những dân nghèo “ngu học” đi theo Anabaptist bằng cả linh hồn và thân xác họ.

Những người đưa tin - mục vụ không có chức sắc (Anabaptist messenger) là những người đầy lòng nhiệt thành sẵn sàng chết vì Đức tin của họ. Họ là những người truyền đạo không có “giấy phép”, không phải là mục sư mà dám rửa tội cho người khác ... phần lớn trong số họ đều chết thảm. 200 người Anabaptist bao gồm nhiều gia đình có trẻ nhỏ bị hành quyết cùng lúc trên đường trốn chạy. 37 người đưa tin bị gom lại và giam vào một ngôi nhà rồi ngôi nhà bùng lửa, tất cả đều bị thiêu sống. Rất nhiều người bị hành quyết chặt đầu hay giàn thiêu trước công chúng để răn đe song số những Anabaptist vẫn mọc lên như nấm sau mưa trên khắp Châu Âu giữa thế kỷ 15. Họ thuyết giảng trong trốn chạy, trong bóng đêm, trên khắp phố phường, bất chấp tính mạng!


Trong những ngày chờ đợi một kiếp người nữa lại trôi qua, A Đường với cái đầu “hoàng tuyền” của mình chẳng biết để làm gì ngoài nghiên ngẫm những di sản văn hoá tinh thần được đúc lại trong từng câu chữ của Peter Hoover, một hậu nhân của người Anabaptist. Thời đại nào cũng có những man rợ, như bao thời đại mà loài người xưa nay vẫn là...

Biết làm sao được, vẫn phải yêu và thương lấy giống loài man di mọi rợ vô lại, như Thiên Cổ Đế vẫn thương Trần gian này. 

Biết đâu có thể nảy ra giải pháp, có thể lay chuyển càn khôn qua đôi cánh bướm vỗ, có thể làm gì đó với sức con kiến cỏ của mình... Có thể hay không, âu cũng là định mệnh truân chuyên cộng gộp của ngàn đời.

A Đường bèn sách tấn tinh thần và quyết tâm nghiêm túc Việt dịch được đến đâu hay đến đó cuốn sách có 26 chương 290 trang về người Anabaptist này, để tặng cho những người đang yêu sự thật về Tình Yêu Ấy.

C17: Nhân Chứng (On to Witness)

Giữa những cánh đồng bò sữa ở Goes trên Dutch island, tại Zuid Beveland, Joost Joosten lớn lên cùng ca hát. Cậu xuất sắc tiếng Latin ở trường trung học, nhưng trái tim cậu dành trọn cho những bài ca, và cha mẹ đã tìm được một chỗ trong dàn ca tại nhà thờ của làng dành cho cậu. 

Người ta ấn tượng về cậu bé có mái tóc vàng như thiên thần và giọng ca trong trẻo vô cùng. Vào năm 1556 vua Philip II của Spain đến thăm Netherlands. Họ mời dàn nhạc làng Goes đến hát cho vua, khi ấy cậu 14 tuổi. Vua lập tức ra lệnh: “Mang thằng bé đó lại đây. Nó phải về Spain với ta!”

Nhưng Joost không muốn đi Spain và sống trong cung quách nguy nga hoàng tộc. Cậu lẩn trốn 6 tuần cho đến khi vua kia đã rời đi hẳn. Một ngày nào đó, có người đưa tin Anabaptist đến làng và “rửa tội” cho cậu trong một buổi gặp bí mật. Kết quả là Joost bị bắt không lâu sau, vào năm 1560. Bốn quy kết được đưa ra từ cơ quan cấp cao. Trên năm trang giấy dài, Joost trình bày cho họ những điều mình tin, cậu cũng viết vài bài ca và hát trong ngục nữa.

Họ đặt Joost lên giá, lấy những thanh sắt nóng xuyên vào đầu gối cậu, xuyên tới mắt cá chân. Nhưng trái tim cậu không lay chuyển. Toà án kết tội và tuyên tử hình. Họ làm một con ngựa bằng rơm trên phố. Người ta đi thuyền tới xem, cưỡi ngựa, hay đi bộ tới xem hành hình rất đông. 

Quân lính dẫn cậu ra bằng xích sắt, chưa bao giờ người ta thấy cậu héo hon vàng vọt như vậy. Bỗng nhiên điều gì đó khiến tất cả giật mình! Là tiếng hát ai?

Tiếng hát của Joost Joosten lại 
vang lên rõ ràng, vẫn giọng ca ấy, giờ đã là của một chàng trai trưởng thành. Nhiều người trong làng khóc khi nhận ra bài hát ấy: “Ôi Chúa, trong tâm tôi luôn thấy ngài trước mặt! ...”

Họ nhét Joost vào con ngựa bằng rơm, trong đó vẫn vang lên tiếng hát khi ngọn lửa bùng bùng. Đó là sáng thứ Hai, ngay trước lễ Giáng Sinh, và Joost Joosten 18 tuổi.