The Secret of Strength - Peter Hoover
Chương 1: Người đàn ông bị treo bằng ngón cái (A man hanging by his thumb)
Mặt trời rọi trên Klundert, đồng bằng xanh ngát trải dài. Khách tham quan ghé Klundert chụp ảnh, những cánh đồng hoa và rau màu mỡ. Những con mương thẳng tắp cắt ngang qua những cánh đồng cho đến khi chúng quên mình ở đường chân trời. Du khách nói: "Chúng tôi thích nơi này, quả là thanh bình."
Nhưng có nhiều điều mà du khách không biết.
Klundert, một ngôi làng nhỏ của Dutch đã từng đẫm máu. Máu của những người Anabaptist đã từng đổ tại nơi này. Trong suốt những năm giữa của thế kỷ 16, để trốn khỏi những cuộc bách hại, những người Anabaptist đã lẻn tới những cánh đồng này và gặp nhau trong bí mật. Đôi khi, họ tụ họp trong nhà của ông Elsken Deeken hay Jan Peetersz, những người hầu cận (servant) của Ngôi Lời (the Word). 5 tháng 8 năm 1571, khoảng một trăm người Anabaptist gặp nhau tại nhà Peetersz ở Klundert. Họ tới từ những thành phố hay khu vực lân cận. Một cặp đôi đương chuẩn bị làm đám cưới ngày hôm đó.
Thị trưởng và tùy tùng đã nghe tin tức về những người Anabaptist đang tập trung tại chỗ nọ bèn gầm lên: "Ta sẽ nhổ sạch cái tổ đó và tống tiễn tất cả bọn chúng!" Hai lần liền ông ta sai do thám tới nhà Peetersz nghe ngóng. Do thám đã nghe thuyết giảng và thấy rất nhiều ngọn nến được thắp sáng sau 9 giờ khuya. Thế là thị trưởng và đội binh ập tới với gươm và súng. Họ quơ trái, tóm phải... Nhưng hầu hết những người Anabaptist đều sẵn sàng cho bất cứ sự tình nào tương tự. Họ trốn lên tầng trên, và trốn qua một lỗ trên mái nhà, hoặc lẩn vào góc nơi bức tường có lối thoát hiểm. Chỉ có 6 người đàn ông và vài phụ nữ bị bắt, trong số đó có một cậu bé 16 - 17 tuổi. Những người phụ nữ trốn được bằng cách nào đó. Họ tịch thu tài sản và nhà đất của tất cả những người ấy. Sau đó họ tuyên cáo: "Những người này không rửa tội cho trẻ nhỏ, không tin Christ được sinh từ đức mẹ đồng trinh, họ tự coi mình là bầy vượt trội, được tuyển chọn bởi God..."
Peter người thợ may đã chấp nhận chối bỏ "mê tín" nên được tha, còn lại phải giam chờ ngày hành hình. Một người bị trói và quật, một người bị kéo phanh thây, người khác phải há miệng ra để bị tiểu tiện vào, Geleyn Cornelis là tệ hơn cả. Họ lột trần truồng ông và treo ông lên trần nhà bằng chính ngón cái tay phải, cộng thêm một quả tạ vào bàn chân trái. Rồi họ cạo lông và đốt bộ phận nhạy cảm bằng nến, và tra tấn liên tiếp cho đến khi bất tỉnh hoàn toàn. Nhưng họ không buông tha: "Làm tiếp cho đến khi hắn phải khai!" Cuối cùng tất cả bị thiêu trên giàn lửa. Gió bỗng thổi ngược nên lính phải lấy chiếc kều đẩy họ vào lửa mới thiêu được.
Từ ấy vùng Klunder không còn bóng người Anabaptist nào.. Đây là những điều mà du khách ngày nay không biết.
-
Chương 2: Bí mật của sức mạnh ấy là gì?
Từ nhỏ, tôi đã được kể về những người Anabaptist từ chính cha ông mình. Câu chuyện về người đàn ông bị treo bằng ngón cái được kể từ lúc tôi chưa vào lớp 1. Tôi không thể quên ngày hôm đó, khi tôi là một đứa trẻ đang ngồi trên đùi ai đó và nghe người lớn kể với nhau câu chuyện này. Tôi sống đến bây giờ và nhìn nhận một cách sâu sắc thử thách đặt lên chính mình bởi tổ tiên tôi, là những người Anabaptist.
Chỉ trong 30 năm đầu khởi sự, từ những người Anabaptist đầu tiên ở Thụy Sĩ (Switzerland), dần lên đến hàng ngàn, trăm ngàn người theo đó, và họ đều đối mặt với sự bức hại cay đắng nhất. Vào năm 1525, 2 tháng sau khi Conrad Grebel được rửa tội, ông đã lập tức "rửa tội lại" cho vài trăm người ở sông Sitter, vùng Sankt Gallen, Switzerland. 10 năm sau đó, cuộc vận động mang tên Anabaptist (Rửa tội lại) lan ra khắp nơi trên lãnh thổ Đức (German). Toàn miền nam nước Đức được ghi nhận đã cải đạo theo Anabaptist lúc bấy giờ. Ở Moravia, các cộng đồng Anabaptist lên tới 60,000 người. Ở Netherlands, Belgium, Lower Rhine, Holstein, biển Baltic, phía đông Prussia... Anabaptist bùng nổ.
Phải chăng bởi gặp gió?
Không. Bởi cũng cùng những năm đó, không thể đếm nổi những người Anabaptist chịu tù đày, trục xuất, tử hình từ nhà thờ Công giáo La Mã (Roman Catholic) và chính quyền. Họ bị thanh sắt nung đỏ đâm vào chân, lưỡi bị đóng đinh vào hàm, ngón tay bị chặt, người bị buộc thuốc súng vào mồm cho nổ, kẻ bị chặt đầu, dìm chết, chôn hoặc thiêu sống, đủ kiểu hành hình được ghi lại mà độ dã man khiến người ta rùng mình.
Cuộc vận động Anabaptist khai sinh từ một thành phố mang tên Zurich, nó nhanh chóng phát triển ra các thành phố lớn khắp trung Âu: Strasbourg, Augsburg, Regensburg, Salzburg và Worms. Không lâu sau, lan đến Aachen, Gent, Utrecht, Amsterdam, Emden, Hamburg, Lubeck, Danzig, Kaliningrad ở đông Prussia. Trên đường phố lúc đèn mờ, trong quảng trường nơi hành hình trước công chúng, khắp nơi. Những cộng đồng theo đạo Thiên Chúa (Christian) thành hình trong tình yêu đã liên hợp (unite) họ - Nước Trời (Kingdom of Heaven) đã đến Trần gian (Earth).
"Bí mật của sức mạnh ấy là gì?" Một người phụ nữ hỏi. Họ đã đạt được cả vinh quang và thất bại tột cùng. Họ bắt đầu bằng ánh sáng tuyệt vời từ trời cao, trong đức tin chân thật, tự thân mỗi người. Họ đã từng tự do ngay cả trong tù ngục, thoát khỏi mọi ngục tù vật chất trần gian này. Cùng lúc ấy họ đã chết thê thảm như chính Jesus Christ, người mà họ tôn thờ. Sức mạnh ấy bắt nguồn từ đâu? Chính tôi cũng tự hỏi.
Kỳ lạ! Không có học vấn, không có lãnh đạo, không có nhà thờ, không có tập sự bài bản, không kinh nghiệm, không truyền thống, bao yếu điểm trong lý thuyết và tín điều của họ. Nhưng nó lay chuyển toàn Châu Âu như thời kỳ đầu của "Công vụ các sứ đồ".
400 năm sau đó, tôi lớn lên với ý thức thường trực về "di sản Anabaptist" rực rỡ của chúng tôi. Khi còn bé, tôi luôn tự hỏi làm sao mà tổ tiên mình có thể như vậy. Tôi và các anh chị em nghe cha mẹ mình kể về những người Anabaptist trong suốt những đêm đông dài. Chúng tôi nhìn họ trên những tấm khắc mộc không tô vẽ hay sơn màu trong nhà chung của cộng đồng nơi để hát và cầu nguyện. Luật của chúng tôi là không bao giờ chú trọng hình thức và những sự thuộc về thế gian (worldly things). Vì vậy đồ vật trong nhà cũng không bao giờ sơn mà chỉ toàn là thô mộc. Người không trong cộng đồng của chúng tôi gọi chúng tôi là những người nhạt nhẽo (plain people). Chúng tôi không khác với thế hệ vài trăm năm trước là bao trong phong cách sống.
Giờ tôi bắt đầu cảm thấy một sự so sánh khá thú vị về một nhân vật trong Kinh Thánh là Samson. Sau khi Samson đã mất đi sức mạnh và bị mù. Nhưng rồi bí ẩn nào đó khiến sức mạnh của Samson trở lại. Chúng tôi cũng vậy, điều gì xảy ra nếu một vài người "nhạt nhẽo" bắt đầu nhớ lại - hay khai phá ra bí mật của sức mạnh mà tổ tiên họ đã từng mang? Những cộng đoàn người Mennonite, Amish, Hutterite rải rác khắp nơi có đến triệu người, liệu cơ bắp họ sẽ cuồn cuộn, xiềng xích sẽ rơi xuống, và những cột trụ của đền thờ ngẫu tượng giả tạm ở trần gian (Idol's temple) sẽ rung chuyển?
Điều gì sẽ xảy ra? Trong cuốn sách này tôi muốn để những người Anabaptist đầu tiên trả lời cho câu hỏi đó.
-
Chương 3: Người phụ nữ sinh con trong ngục
Năm 1637, họ bắt được người truyền giáo Hans Meyli ở Horgerberg tại chân núi Alps, phía nam hồ Zurich, Thụy Sĩ. Họ tống giam ông nhưng sau 43 tuần ông trốn thoát. 30 thợ săn Anabaptist được treo thưởng nếu tìm thấy ông và chuyện phải đến đã đến. Họ ập tới nhà nơi ông và gia đình đang trú ẩn, ập tới với gươm giáo, bắt được gia đình ông gồm hai con trai và vợ của họ. Tất cả đều bị bắt, đứa bé 14 tuần tuổi mới sinh là cháu nội bị giật khỏi tay Anna là mẹ nó và đưa đi. Họ bị bắt giam nhiều ngày song bằng cách nào đó họ đều trốn thoát. Anna mang thai lần nữa và lần này lại bị bắt, chỉ gần đến ngày sinh con ơn sao thoát được. Người phụ nữ tên Anna (Baer) Meyli này là tổ tiên của tôi, 11 thế hệ trở về trước.
Chúng tôi sống giữa 25 chi phái Mennonites và Amish trong một hạt đông đúc ở miền nam bang Ontario. Dấu vết về Anabaptist đều hiện diện quanh đây. Mỗi nhóm đều khẳng định mình là một hậu duệ của "di sản Anabaptist". Khoảng những năm 1950, làng của cha mẹ tôi (đã phân tách ra khỏi một làng khác từ năm 1917) trải qua một khủng hoảng nội bộ lớn. Cha mẹ tôi lại đại diện lập ra một làng khác, mà tôi được sinh ra trong ấy. Khi tôi 13 tuổi, chúng tôi lại rơi vào chia tách và hai năm sau thì biệt lập hẳn. Khi tôi lớn lên thì cha mẹ đã không còn tham dự vào các buổi cầu nguyện chung. Cha tôi nói về việc sẽ đi khắp miền đông nước Mỹ để thăm tất cả các nhóm song chúng tôi không mấy hy vọng về việc tham gia vào nhóm làng nào. Suốt cuộc đời, chúng tôi đã chật vật liên miên với những vấn đề thuộc về lối sống - nên cho phép điều gì hay từ chối điều gì, bởi nó "worldly" (vô thường - thuộc về thế gian) hay thuộc về ma quỷ. Cha mẹ tôi không bao giờ thuyên chuyển đức tin Anabaptist lâu đời.
Một chiều mùa đông năm 1975, có một quý ông người thành phố từ Canana đi ngang qua chuồng ngựa nơi tôi đang dọn dẹp. Xe ông táp vào lề đường và kẹt tại đó. Ông cụ tặng tôi một số tiền kha khá, và tôi bắt đầu dùng nó để mua sách, tất cả những cuốn nói về người Anabaptist - Mennonite. Dần dà tôi được càng nhiều người cho sách và giới thiệu vào học viện Mennonite, gặp một giáo sư chuyên nghiên cứu người Anabaptist, ông cho tôi nhiều tài liệu và hướng dẫn tôi sau này. Tiếp đó, tôi gặp một người trở về từ thế chiến II, ông có một kho báu quý hiếm những trang viết cổ của người Anabaptist bằng tiếng Đức chưa từng được dịch. Từ đây tôi bước vào lãnh thổ tinh thần xưa cũ... Từ đó mà cuốn sách này thành hình.
Tôi bắt đầu thấy một ánh sáng mới kỳ lạ trên những người sẵn sàng chết với đôi mắt rạng rỡ. Từng chút một, tôi bước tới niềm tin rằng một ngày nào đó, "gió sẽ thổi và trời sẽ quang đãng sáng ngời, khi tôi đi ... đi ... trên con đường mới.
Con đường mới này dài và gian khó hơn tôi tưởng. Nó mang tôi đến nơi mà tôi không định tới. Nó mang tôi từ nơi trốn ổn định lâu bền đến chỗ không chắc chắn, chẳng biết nên đến đâu hay với ai. Nó mang tôi đến cô độc, nghèo khó, nơi tất cả đều nghèo bình đẳng. Tôi bước vào một thế giới đáng sợ, với những con người trần gian đáng sợ, với những ghét bỏ và chối từ, kiêu ngạo và độc đoán, một thế giới tàn nhẫn mà tổ tiên tôi cũng từng đối mặt.
-
Chương 4: Nguồn Gốc
Từ Parthia, Media, Elam, Babylon, Cappadocia và những nơi thuộc quản của Judea, nhà cai trị tin vào Christ, Thiên Chúa Giáo lan ra đến Hy Lạp. Sau cuộc hoán cải của sứ đồ Paul, hàng trăm hàng ngàn ngời Hy Lạp dưới thời Alexander đã cải đạo. Những kỹ sư, luật sư, bác sĩ, những người có học ở Hy Lạp bắt đầu sùng đạo và trở thành những tín hữu Chúa. Hy Lạp trước đó đầy rẫy những tệ nạn đạo đức, song cuộc chuyển đổi tôn giáo đã biến Hy Lạp thành lãnh thổ của Tin Lành. Tiếng Hy Lạp (Greek) là thứ tiếng của thế giới lúc bấy giờ, đạo Thiên Chúa đã được truyền tới Syria, Ai Cập, và tiểu Á bằng tiếng này. Sứ đồ Paul cũng đã viết những lá thư bằng tiếng Hy Lạp.
Khi sự ảnh hưởng của Hy Lạp đi xuống, đế chế phương tây là Rome lên ngôi, tiếng Latin đi vào thống trị. Những người truyền đạo dùng tiếng Latin ở Italy và Châu Âu nói chung. Thiên Chúa Giáo lan ra khắp nơi, tới Anh, Ireland, Spain, Portugal, Pháp...
1800 năm trước Công Nguyên, những nhóm người nọ đã vượt Mesopotamia, qua Persia và Ukraine, qua cả Châu Âu rồi đến biển Bắc, nơi họ dừng lại và họ tự gọi mình là Teutsch (German).
Những người Đức (German) đầu tiên sống bằng săn bắn hái lượm, họ cũng trồng vài hoa màu. Họ được coi là những thổ dân của Châu Âu ("Indians of Europe). Họ thích nghi với những cánh rừng lạnh và những vùng đất ẩm ướt dọc bờ biển Âu, họ cư ngụ khắp nơi trong Rừng Đen (Blank Forest) và trên những ngọn núi Swabia. Những người Vikings đi đánh chiếm Scandinavia, lãnh thổ của nước Anh, đến Nga, Italy, và châu Á
Những kẻ xâm lược man di này không quan tâm đến tiếng Latin hay văn hóa Hy Lạp. Họ tàn phá và giết chóc vô số. Tình cờ là họ đã mang về một đứa trẻ trong số nhiều đứa trẻ khác, làm thay đổi hoàn toàn cục diện. Đó là khoảng thời gian Constantine đệ nhất, Đức đánh chiếm vùng Cappadocian (Thổ Nhĩ Kỳ) và đem về một cậu bé tên là Ulfilas.
Ulfilas không như những đứa trẻ khác, không sợ hãi. Qua chặng đường dài gai góc, cậu học tiếng Đức và bắt đầu nói chuyện với những người Đức về Christ. Cậu bé này đã thuyết phục được từ già đến trẻ, đàn ông phụ nữ, những thổ dân Đức đã say sưa lắng nghe cậu. Trái tim họ hưởng ứng câu chuyện về Christ. Từng người một bắt đầu tin và hoán cải. Ulfilas rửa tội cho họ bằng nước. Chẳng bao lâu, Tin Mừng lan khắp Đức. Ulfilas dùng chữ cái Hy Lạp và Latin mà mình biết để sáng tạo ra một bảng chữ cái Đức dành riêng cho họ, dạy họ tự phiên dịch Kinh Thánh từ tiếng Latin sang tiếng Đức. Năm 341 sau Công Nguyên, Ulfilas trở về quê hương mình ở Châu Á. Người ta gọi Ulfilas là sứ đồ của những nước nói tiếng Đức.
Constantine với tầm nhìn lớn đã đồng bộ hóa nhà nước Roman với các nhà thờ đạo Thiên Chúa, biến Thiên Chúa Giáo trở thành công giáo có tổ chức trên toàn Châu Âu và tương lai là toàn cầu. Ông triệu tập các học giả, linh mục, tất cả những ai có khả năng để khiến điều này đi vào lịch sử. Những giáo điều mới được sửa đổi khác đi so với thời kỳ đầu công nguyên. Theo đó những điều không thuộc về "quy ước mới" của Giáo hội thì bị coi là "dị giáo". Nước Đức cũng không tránh khỏi cuộc cải cách tôn giáo này.
Nhà thờ công giáo chính quy, với tất cả những mặt trái tiêu cực của giới chức sắc, tuy vậy đã mở đường cho Châu Âu nói chung và nước Đức nói riêng tới đời sống tôn giáo. Người ta bắt đầu vào những tu viện, và sùng mộ đời sống tinh thần. Những nhà thờ mọc lên ở khắp nơi. Đây một tu sĩ người Đức - Martin Luther, kia một mục sư Menno Simons - người sau này trở thành Anabaptist. Johannes Gutenberg, một thợ kim hoàn người Đức phát minh ra máy in, năm 1455 ấn bản in toàn bộ cuốn Kinh Thánh ra đời. Máy in đã cách mạng hóa học vấn, phổ cập tri thức cho toàn nước Đức.
Những người Anabaptist xuất hiện kể từ đây.
-
Chương 6: Về Jesus
Với những người Anabaptist, theo Jesus không chỉ là vâng theo, không chỉ là chết vì ngài, mà là hiểu biết ngài, sống giống như ngài hay như những môn đồ đầu tiên của ngài. Như lời sứ đồ Paul trogn Phillippian 3:10. Trong tiếng Hy Lạp, từ "koinonia" dịch ra tiếng anh là "fellowship", tiếng Đức là "Gemeinschaft". Với những người Anabaptist, từ này vô cùng quan trọng cả trên nghĩa tinh thần lẫn vật chất. (Acts 2:44 / 4:32, 1 John 1:7. Những người Anabaptist thích dùng từ này thay từ "nhà thờ" (church).
Peter Rideman đã viết trong ngục vào năm 1540:
"Khi chúng ta lắng nghe Tin mừng và muốn giống như vậy, chúng ta tiến nhập vào cộng đồng (community) của Christ, như lời sứ đồ John (I John 1:3): "Điều mà chúng tôi đã thấy nghe, chúng tôi tuyên bố với anh em, để anh em có thể Hiệp Thông (Gemeinschaft) với chúng tôi, và chúng tôi liên giao (Gemeinschaft) với Chúa Cha và Chúa con, Jesus Christ, người đã cho chúng tôi mọi điều người nghe biết về Cha người."
Liên Thông (Gemeinschaf) không gì hơn là có chung mọi sự với người mà chúng ta gắn kết từ bên trong. Đó là không giữ bất cứ điều gì cho riêng mình, mà chia sẻ tất cả những gì mình có với người - như thể Cha không giữ gì cho riêng mình mà cho Con tất cả, và người con cũng không giữ gì cho riêng mình mà chia sẻ mọi thứ từ Cha cho những ai hiệp thông với người.
Những ai trong Tình Hiệp Thông (Gemeinschaf) với Christ thì làm theo tấm gương ngài và không giữ gì cho riêng họ. Họ có chung mọi sự với ngài, và với tất cả những ai thuộc về Liên Hiệp (Gemeinschaf) của ngài.
Với Jesus, Liên Hiệp này chỉ tới với những cái giá lớn lao. Đây là một món quà của God, nhưng người ta phải trả những cái giá khôn lường. Với những người Anabaptist, Hiệp Thông với Jesus có thể phải đánh đổi bằng vợ chồng, con cái, cha mẹ, phải trốn chạy hay hành hình. Vinh quang của những ai chung chia thương khó của ngài, sẽ rọi sáng ngay cả trong ngục tù tăm tối nhất. Nó là thứ ánh sáng nằm ngoài trần thế, rực hơn cả những ngọn lửa trên giàn thiêu. Là thứ ánh sáng mở ra thiên đàng và cho người ta thấy ngay lúc đó, trong tầm tay với, là niềm hoan hỷ không thể nói nên lời về Tình Bằng Hữu (Fellowship) nơi trời mới đất mới, nơi sự công chính ngự trị (dwell).
Hiệp Thông với Jesus, với những người Anabaptist, là lời hứa về nước Trời. Một người Anabaptist ở miền nam nước Đức viết:
"Cha trên cao đã lo cho chúng ta tất cả, nếu chúng ta thương khó với Jesus và quy phục chính mình đời này, và không ngừng cố gắng để bước vào Liên Hiệp của Ngài. Ngài đã đánh dấu con đường ta nên đi, để ta không đi lạc. Vì vậy, tín hữu, hãy cùng nhìn gương Jesus đã bước đi như thế nào, thì chúng ta cũng sẽ giống ngài trong Tình yêu và Đau khổ. Hãy để chúng ta giữ giao ước với ngài. Máu ngài chúng ta uống, thịt ngài chúng ta ăn, phải hiểu là: để chúng ta cũng sẽ như ngài trong liên kết mà God đã mở. Ngài là cộng đồng linh thiêng - trên trần gian, và chúng ta là những người bạn đồng hành, là công việc, tình yêu của ngài trên trần thế.
Vì vậy hãy tới! Tất cả những tín hữu sơ sinh! Hãy tới với Chiên Con - Chritst trong Lễ Vượt Qua (Passover), bằng tấm chân thành, để dự phần nước Trời và Liên Giao vĩnh viễn!"
Những người Anabaptist đi xa hơn việc tôn thờ cây thập tự gỗ, Đức mẹ đồng trinh, hay những vị thánh thời quá khứ. Họ tự do cầu nguyện trực tiếp với Jesus. Họ không vướng vào những giáo lý "sửa đổi" của loài người trong thời Cải Cách Tôn Giáo, họ cầu nguyện với Chúa Cha hay với anh (Jesus). Đây là một tội phạm thượng trong nhiều tội khác mà giáo hội đã gán cho họ. Trên đường đến với Hiệp Thông, họ bước qua cửa tử không chút chần chừ.
"Ôi Christ, hãy giúp người của ngài!" Michael Sattler khóc lớn trước khi bị cắt lưỡi và hỏa thiêu trên cột, năm 1527
"Ôi đức Christ từ trời cao, tôi ngợi ca ngài vì đã lấy đi đau buồn của tôi trước khi chết!" Felix Manz kêu lên trước khi bị quăng xuống hồ băng Limmat, năm 1526.
Jesus là người hùng, người bạn, người anh của những người Anabaptist. Một người vô danh trong những tuyển tập lưu lại của người Anabaptist viết:
"Nhìn kìa hiệp sĩ Jesus đã tới! Chỉ huy đã tới! Trận chiến mà chúng ta đối mặt đầy khốc liệt. Kẻ thù chúng ta - là trần gian này - là xác thịt, tội lỗi, ma quỷ, và sự chết. Nhưng chỉ huy đã vượt qua tất cả, đánh bại tất cả. Hãy tới bên ngài để được giúp đỡ. Hãy phất cao ngọn cờ, đừng để kẻ thù bắt ta khỏi tay vị chỉ huy ấy. Nếu ta muốn vinh quang chiến thắng, ta phải chịu đựng và chết cùng ngài. Họ đã bắt Christ, đánh ngài, giết ngài. Cũng như vậy họ xử tệ với chúng ta, săn giết chúng ta, chặn đường ta. Tất cả những bạo lực này đã và sẽ đến. Nhưng hãy đợi, chỉ huy sẽ tới, ngài sẽ phá vỡ sức mạnh của kẻ thù, và sẽ đứng bên đàn chiên nhỏ!
Hỡi tất cả những hiệp sĩ (knights) của God, hãy mạnh mẽ! Hãy chiến đấu! Cơn bão không lâu sẽ qua đi. Hãy vững tin! Đứng lên đối mặt với sự chết! Đừng sợ hãi. Đàn ông và phụ nữ, hãy tin vào God!"
Học bằng việc hành. Nghe thì dễ, nhưng "làm như Jesus đã làm" thì không dễ. Hans Schlaffer là một linh mục Catholic Roman ở Austria. Ông trở thành một Anabaptist vào ngày 5 tháng 12, 1257 trên đường về nhà, ông tình cờ dự một buổi gặp lén của những người này. Ông bị bắt và đêm trước khi bị chặt đầu, ông viết:
"Ôi God, khai sáng bởi lòng Ngài. Ai tin Jesus thì phó thác chính mình cho ý God. Jesus đã khước từ bản thân và nhận lấy cái chết. Ôi God, bất cứ ai sống trong Christ đều chịu khổ và chịu chết để được phục sinh với ngài trong vinh quang nước trời. Đây là Linh Thánh! Đây là cách chúng ta hiểu về Đức tin (Faith). "
Ambrutz Spittelmayr, một linh mục cải đạo theo Anabaptist, trước khi bị hành hình ở Ansbach, viết:
"Tất cả những ai nên một với Jesus qua lời thiêng của ngài phải hiểu. Jesus là đầu, cái đầu đã khổ thì toàn bộ chi thể chân tay và các bộ phận khác cũng phải như vậy. Jesus Christ là con người bằng xương bằng thịt. Lạy God, trong giờ chết của xác thịt tôi, là sự sống vĩnh hằng!"
(Sở dĩ người Anabaptist trở thành đối tượng căm phẫn của Chính giáo và Chính quyền là bởi họ luôn đề cao sự từ bỏ cá nhân, họ cho rằng các tín hữu không nên sở hữu tài sản, nhà đất, tất thảy những gì thuộc về trần gian. Họ không tôn trọng tiếng nói của nhà thờ chính tòa. Họ đảo lộn trật tự xã hội vốn luôn coi những của cải, địa vị, giàu sang quan trọng hơn tất cả. Người Anabaptist đã "cực đoan hóa", "lý tưởng hóa" về đức tin của họ, trong một xã hội nơi kẻ cầm quyền sợ nhất việc mất đi quyền lực. Ở họ có lý tưởng sâu sa của chủ nghĩa cộng sản.)
-
Chương 7: Về Tội Lỗi
Thành phố lâu đời của Đức là Schwabisch-Gmund ẩn mình trong những rặng núi Swabian Alp. Người Roman biết địa điểm này từ những năm 1230 và nhà thờ cùng cây thập tự đã quen thuộc với dân chúng nơi này từ đó. Một người đàn ông trẻ tên là Martin đến từ Bavaria là một nghệ sĩ chuyên vẽ tranh cho thành phố Augsburg ở Bavaria. Martin bị trục xuất khỏi Augsburg vì tội tham gia giáo phái "mê tín dị đoan" (sect) của những người Anabaptist.
Martin trở nên nổi tiếng trong thành phố Gmund giữa những người trẻ tuổi. Martin làm thơ và hát, gõ cửa từng nhà để mời gọi người ta đi theo Jesus. Sự chân thành của Martin đã khiến cả trăm người trong thành phố cải đạo theo Anabaptist, cho đến một ngày mùa đông năm 1529. Giữa buổi hành sự, Martin bị bắt quả tang đang "lừa đảo" trẻ em, thanh niên, người nghèo.... Những người vô tội được thả còn Martin phải tạm giam đợi xét xử. Những người yêu mến đã cố gắng hết sức để bênh vực Martin, họ trèo tường vào ngục, xin với lính canh để được gặp Martin, họ thậm chí còn cùng hát trong tù. Martin bị buộc tội lạm dụng tình dục phụ nữ và thiếu nữ. Martin không có gì để thú nhận ngoài việc ham muốn duy nhất là sống đúng như Jesus. Tội trạng lớn nhất của Martin (từ quan điểm của chính quyền) là việc "dụ dỗ dân lành để trục lợi tài sản cho bản thân". Vì chủ trương Anabaptist cho rằng tín hữu nên chung chia mọi tài sản vật chất cũng như tinh thần trong Liên Hiệp với Jesus.
4 tháng 12 năm 1528, họ mang 7 người bao gồm Martin ra tử hình trước công chúng để làm gương cho thành phố. Trong 7 người có một người là phụ nữ và một cậu bé là con trai ông xay lúa. 7 người này cứng đầu nhất thiết không chịu từ bỏ tín điều. Họ bị giải đi bằng xích sắt từ nhà giam tới cánh đồng băng ngoại thành. Quý tộc, lãnh chúa, quan tòa, các công dân trong thành phố đều đến xem. Trong đám còn có trống và kèn inh ỏi. Lính canh làm thành một vòng tròn và ở giữa là những tội nhân khốn khổ. Bỗng nhiên có tiếng hét của cậu bé con ông xay lúa. Tiếng cậu lớn hơn cả tiếng trống, to rõ vang lên: "Hãy từ bỏ tội lỗi! Quay về với God! Ngoài Jesus Christ người đã chết trên thập tự, không còn đường nào khác tới thiên đàng."
Một số người trong đám xem hét lên đáp lời: "Can đảm lắm cậu bé mạnh mẽ!" Một quý tộc nhân hậu không thể chịu được cảnh này nữa bèn tiến vào vòng vây và lớn tiếng than: "Con trai ta, hãy quay đầu khỏi lỗi lầm đang phạm phải. Đừng để chết uổng một đời trai trẻ! Con đang đánh đổi điều gì vì nó? Ta sẽ đưa con về nhà, lại đây với ta. Ta cho sẽ cho con thừa kế gia sản, coi con như con ruột hết đời này. Con có rất nhiều điều tốt đẹp tương lai phía trước. Lại đây, ra khỏi đó và trở thành con trai ta!"
Nhưng cậu bé dõng dạc thưa: "God không muốn con làm vậy. Liệu con nên chọn một đời trần gian và từ bỏ God? Không! Của cải của ngài không thể giúp cho ngài hay cho con đâu. Con chọn của cải lớn hơn sau cùng. Con xin nộp Tinh Thần con cho God và Jesus, để khổ nạn của Jesus không phải là uổng phí."
Cả 7 người đó đều bị chặt đầu và một nỗi sợ hãi lớn lao bao phủ khắp dân chúng. Có người thấy những tia sáng trong đài phun nước vào đêm hôm đó và nghe những giọng hát của thiên thần...
Jesus là vị tử đạo đầu tiên, ngài đã khước từ cuộc đời dễ dàng, vinh quang trần thế, bước đi không chần chừ tới cái chết tủi nhục bởi trong tim ngài có sự bình thản đinh ninh rằng điều ngài đang làm là điều phải. Những người Anabaptist cũng có một sự đinh ninh như thế. Và họ có thể gọi những lãnh đạo tôn giáo thời ấy là "Caiaphas" hay chính quyền là "Pilate".
Menno Simons, một trong những người gây ảnh hưởng lớn tới Anabaptist viết: "Chỉ mình Christ là bậc cai trị của lương tâm, hãy để ngài là quốc vương, và lời ngài là Luật lệ. Hãy vâng theo God trước khi vâng theo các đại đế trần gian, và quan trọng lời God hơn cả."
Điều này hiển nhiên làm rúng động mọi thể chế lúc bấy giờ. Điều gì xảy ra nếu dân chúng không vâng theo những người có thẩm quyền, xã hội sẽ đảo lộn đến mức nào? Nếu người ta được tự do tin vào những điều mình muốn, tự do vâng theo những điều họ muốn vâng theo?
Khi nào đó, có một "nước trời bên trong" đã chạm tới những người Anabaptist. Như sự hoán cải tinh thần một cách rõ ràng, tỏa rạng trên gương mặt cậu bé con ông xay lúa, như những người đã có thể nói về God bằng cái giá của đời mình.