Tuesday, June 17, 2025

C91: Ai Lo Cho Ta

 Chương 91: Ai Lo Cho Ta


Loài nào cũng có cha có mẹ. Loài vật nào cũng lo cho con của chúng theo bản năng mỗi loài. 

Thiên Cổ Đế thì lo cho tất thảy, bởi Ngài sinh ra tất thảy. 


Lắm kẻ không tin hay không biết về sự hiện diện của Ngài, cũng như con cái không biết về người sinh thành ra mình, gọi là “bất Hiếu”. 


Nhiều khi A Đường chạnh lòng thương cho muôn loài vật nơi hoang dã, nghĩ ... Không ai lo cho chúng miếng áo manh quần, mưa hay nắng, bão hay giông có nơi nào trú ngụ? Không ai quan tâm chúng đói hay khát, đau hay khoẻ, sống hay chết? Không ai dạy chúng biết cái chữ cái nghĩa, biết tính toán hay y dược... Kiếp thú cứ tự sinh tự diệt, lớn ăn thịt nhỏ. Như thể số phận chúng chẳng có gì đáng kể, chẳng có gì quan trọng, nên chẳng ai lưu tâm. (Thực ra Thiên Chúa lưu tâm, quan phòng mọi sự.)


Hay từng gốc cây ngọn cỏ, cứ chỉ việc đứng dãi nắng dầm mưa một chỗ. Mặc cho muôn loài nghiễm nhiên tận dụng mọi pháp luân mà cây cối đã dày công tu hành từ vạn kiếp.


Tự nhiên hoang dại là vậy nhưng nào có “dại” bằng những cái dại của con người, loài được coi là khôn nhất trong các loài...


Khi mọi cái dại dột trở nên điên cuồng của thời đại, nào có ai cho rằng mình là dại đâu khi xuôi theo dòng lũ. 


Cơn lũ vô minh ùa về khắp nẻo, tràn ngập nơi đời. Mà đã lập đại nguyện chung chia phận người, làm sao tránh khỏi những vô minh như vậy. Đã gọi là chung chia thì có ngu cùng chịu, có dại cùng hưởng. Bởi cùng như vậy, nên mới hiểu đến vậy, thương đến vậy. 


Thương cho tất thảy vô minh khờ dại khắp cùng thiên hạ, tất thảy điên cuồng đau đớn ...


Ma đạo cũng khờ dại, bởi dại khờ nên mới vui thú đau thương. 


~~~ 


Chuyện về chiếc mũi giả


Thời ấy hình thức lên ngôi, người ta chạy theo bề ngoài hơn là nội dung. Và mẹ cũng như vậy. Bà vốn là một người phụ nữ đẹp và rất ưa nhìn, song ma xui quỷ khiến thế nào mà một hôm bà về nhà với một chiếc mũi giả. Hỏi thì bảo có cô này cô cứ xui “làm mũi đi, thời buổi này ai cũng làm cho đẹp...”


Con gái bà vừa tuổi trăng tròn, chính là A Đường đã đầu thai vào bụng mẹ 18 năm trước, để “độ” cho mẹ (như lời mẹ nói). Ban đầu nàng rất kinh tởm khi nhìn cái mũi giả cồm cộm ngay giữa mặt mẹ mỗi ngày! Coi đến lạ lùng, đến nỗi không muốn nhìn vào mặt nữa. Sau rồi cùng quen...


Mẹ hỏi: Thế con có muốn làm không? 


Đường đáp ngay: Khồng! Chết cũng không làm! 


Ấy vậy mà ma xui quỷ khiến thế nào, không lâu sau liền quyết định làm. Ấy là dịp vừa đỗ đại học, cuộc đời tưởng như vừa sang trang mới, nên chăng tin rằng một chiếc mũi mới là thích hợp để “nâng cấp” phiên bản cũ của mình...


Đường vốn cho rằng mình xấu xí hơn các bạn, và mẹ cũng luôn dùng những mỹ từ thô thiển nhất để nói về khuôn mặt “chiều ngang to hơn chiều dài” của nàng. Biết đâu chiếc mũi Silicon có thể thay đổi cuộc đời ai đó?!


Mọi dụ dỗ trong cõi đời này vốn chỉ để con người phạm tội đồng loã với ma quỷ. Vốn chỉ để đưa con người vào lộ trình bất tận chẳng có điểm dừng trên con đường mang tên Vô Thường. (“Khốn thay cho kẻ nào làm cớ cho trẻ nhỏ phạm tội” - Jesus Christ.)


Một chiếc mũi giả là khởi đầu đầy hứa hẹn... Chao ôi! 


Mẹ nói: “Cái bà bác sĩ này làm cho mẹ bà chẳng có đồ nghề ghê gớm gì, tay dao tay kéo, còn chẳng có phụ giúp nào, thế mà bả làm cái vèo có một tí là xong. Lấy tiền cũng ít...”


“Con mà muốn làm mẹ cho ra bác sĩ Sơn trưởng khoa răng hàm mặt ở viện hẳn hoi. Mẹ mới mò ra được Bác ấy cũng chuyên nâng mũi. Hồi chị Hương bị tai nạn xe máy phải đóng 18 cái đinh vào mặt mà vừa thi đỗ đại học xong lên xe anh người yêu đèo thì thằng say rượu đâm phải, ngã vỡ mặt... May có bác sĩ Sơn nổi tiếng, người ta gọi là “bác sĩ có đôi bàn tay vàng”. Bác sĩ đóng 18 cái đinh vào mặt mà giờ vẫn xinh.


Nghe bùi tai, mùi mẫn quá. Đường bèn tặc lưỡi tò mò: “Thử làm xem sao. Đau thế nào không biết?”


Đến tận lúc lên bàn mổ rồi vẫn muốn thôi, xin về, nhưng như cá đã vào lưới, ma quỷ nào buông tha. Mẹ cười: “Dũng cảm lên chứ. Bác sĩ có đôi bàn tay vàng đấy! Con bảo bác sĩ làm cho cháu tự tin lên, cháu vừa thi đỗ ... bố cháu mất sớm ... Thôi để bác làm luôn!” Mẹ liến thoắng nói...


Mọi thuốc tê không có tác dụng với Đường. Tất thảy các thao tác, các đường rạch, mọi chi tiết phẫu thuật, từng mũi khâu, đều cảm biết rõ ràng. Từng đầu ngón tay bác sĩ ra sao khi thao tác, nhắm mắt vẫn cảm nhận được từng hơi thở hay nín thở của bác sĩ qua lớp khẩu trang. Thuốc mê dường như phản tác dụng, chỉ càng khiến đương sự căng ra với sự tập trung toàn lực. Nước mắt ràn rụa trong suốt cuộc phẫu thuật. Chưa từng có cơn đau nào kinh hoàng như thế trong đời. Mổ sẻ, rạch mặt, rạch mũi ... mà không đau mới lạ! Vậy mà người người thi nhau làm, diễn viên điện ảnh không ai không làm ...


Bởi vì cơ địa hay sao mà bao ống thuốc tê mê rồi vẫn không có tác dụng, bác sĩ cũng biết điều này nên dù có đôi bàn tay vàng cũng không tránh khỏi căng thẳng mỗi lần nhìn con cá lên gồng đau đớn trên bàn mổ. Bác sĩ vừa lia phải động mạch, một tia máu nóng phun ra tung toé. Bác sĩ vội bịt chặt mạch ấy, cuối cùng thở dài khi máu tạm ngưng chảy mạnh. Bác sĩ dừng cuộc phẫu thuật giữa chừng đi ra ngoài để bình tĩnh và chờ cho mạch nghỉ. Đường nằm đó với cái mũi mở toang và căn phòng lạnh như nhà xác. Con cá này vẫn còn biết tụng kinh tự hộ niệm cho chính mình. Từ khi nhát dao sắc bén đầu tiên chạm tới, từng biến chú đại bi tiếng Phạn hẳn hoi được chú Đức dạy cách học thuộc lòng từ nhỏ đã hiện về mồm một. Cá ấy vẫn khóc từ đầu đến bấy giờ, những giọt nước mắt vô minh như cả đại dương, gộp chuyển sự tập trung từ cơn đau bất tận, nhẩm đi nhẩm lại không biết bao nhiêu triết tự mà dù đọc bao lần cũng không hiểu nổi:

“A ra sấm Phật phạt ra phạt sâm phạt ra sá ra....”


Vì sao tự nguyện đưa thân vào ma lưới?! 


Bác sĩ và người phụ tá trở lại hoàn tất công việc. Đường rời khỏi đó vào buổi chiều tà với chiếc mũi giả, là ấn ký của ma đạo mà một khi đã nhận phải mang lấy cho đến chết, không bao giờ có thể gỡ bỏ.


Con người đã đua nhau phá hoại thể xác lẫn linh hồn chính mình, phá hoại công trình thuộc linh màu nhiệm của tạo hoá, cắt đứt chặn đứng các đường kinh mạch một cách tàn bạo vô tri như vậy.


Rất lâu sau đó, Đường biết được cái giá phải trả cho một cái gật đầu đồng ý là gì. Biết được sự giả dốì và hệ hậu là gì. Biết được mọi vẻ đẹp vô thường đều là giả... 


Đường chỉ mong một ngày được chết đi để trả lại chiếc mũi giả làm từ Silicon cho đất mẹ. Dẫu sao, Silicon cũng được làm từ cát. Như Kinh Thánh nói: Thiên Chúa hà sinh khí vào cát bụi đã nắn thành hình, từ đó tạo ra con người! 

Sinh khí ấy trở về bên Ngài, liền thuật lại một chặng đường vô minh!

- - -

Kinh Thánh

Sáng-thế Ký 2:7 

"Giê-hô-va Đức Chúa Trời bèn lấy bụi đất nắn nên hình người, hà sanh-khí vào lỗ mũi; thì người trở nên một loài sanh-linh."



Saturday, June 7, 2025

C90: Người Cha Nhân Hậu

Chương 90: Người Cha Nhân Hậu

Ba truyện dụ ngôn về lòng thương xót của Người Cha Nhân Hậu trong Kinh Thánh

Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Jesus để nghe Người giảng. Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.” Đức Jesus mới kể cho họ các truyện dụ ngôn này:

1. Dụ Ngôn Con Chiên Bị Mất
Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất? Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai. Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: “Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó.” Vậy, tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn.

2. Dụ Ngôn Đồng Bạc Bị Đánh Mất
Hoặc người phụ nữ nào có mười đồng quan, mà chẳng may đánh mất một đồng, lại không thắp đèn, rồi quét nhà, moi móc tìm cho kỳ được?
Tìm được rồi, bà ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: “Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã đánh mất.” Cũng thế, tôi nói cho các ông hay: giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối.

3. Dụ Ngôn Người Cha Nhân Hậu
Rồi Đức Jesus nói tiếp: Một người kia có hai con trai. Người con thứ nói với cha rằng: “Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng.”
Và người cha đã chia của cải cho hai con. Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình. Khi anh ta đã ăn tiêu hết sạch, thì lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu, nên phải đi ở đợ cho một người dân trong vùng; người này sai anh ta ra đồng chăn heo. Anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho. Bấy giờ, anh ta hồi tâm và tự nhủ: “Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói! Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy.”

Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha. Anh ta còn ở đàng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm chầm anh ta và hôn lấy hôn để. Bấy giờ, người con nói rằng: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa…” Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy.” Và họ bắt đầu ăn mừng.


Lúc ấy người con cả của ông đang ở ngoài đồng. Khi anh ta về gần đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, liền gọi một người đầy tớ ra mà hỏi xem có chuyện gì. Người ấy trả lời: “Em cậu đã về, và cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì gặp lại cậu ấy mạnh khỏe.”

Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn nỉ. Cậu trả lời cha: “Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con kia, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn đĩ điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!”

Nhưng người cha nói với anh ta: “Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy.”

>>> Chia sẻ lại góc nhìn sơ lược (không bàn sâu, nhưng chư huynh đệ có thể cần nên chiêm nghiệm sâu rộng hơn) về Người Cha Nhân Hậu:

Cả ba câu chuyện kể đều thuộc chủ đề về sự quan tâm của Cha (là Thiên Chúa) dành cho "tội nhân chịu hối cải" hơn là cho người công chính không hề sa ngã, tức là cho Chư Huynh Đệ đã nhận thức về Chân Tính Bổn Nguyên của Chính mình và có Ý Hướng Tìm Về Đoàn Viên - Hợp Nhất Quê Hương Nguồn Cội Thiêng Liêng!

Đây là một trong những dụ ngôn được biết đến nhiều nhất của Chúa Jesus, chỉ được chép lại trong Phúc âm Lu-ca, làm nổi bật thông điệp thần học của phúc âm này: Tình yêu và ân điển của Cha, hằng được trao ban cho tất cả chúng ta một cách vô điều kiện. Sự tha thứ mà Cha dành cho người con lầm lạc, hoàn toàn không dựa trên sự đóng góp công đức bất kỳ nào, vì từ đầu cho đến cuối câu chuyện, không thể tìm thấy bất cứ việc lành nào chàng trai đã làm. Chỉ cần hành động quay về trong hối cải là đủ cho tấm lòng bao dung của người Cha vẫn hằng mong đợi con mình.

Đứa con hoang đàng là hình ảnh của chư huynh đệ đang còn chịu sự chi phối của Phàm Ngã Nhân Trần, khi đang còn trong các bài học trải nghiệm đời sống ở cấp độ này thì luôn quyết liệt khước từ Niềm Tin Thiêng Liêng, bất kể những nỗ lực của bao thế hệ Cha Anh không ngừng dìu dắt giúp đỡ chư huynh đệ hậu học từng bước lớn lên trong đức tin toàn vẹn về Chính mình, cùng những lời cầu nguyện thấm đẫm tình yêu tuyệt đối dành cho thân nhân yêu dấu.

Do sự chi phối của Phàm Ngã, vốn luôn có tâm tư tình cảm đầy niềm kiêu hãnh, tự phụ, can cường và mạnh mẽ, chư huynh đệ luôn tìm đến những “vùng đất xa lạ”, buông mình vào các cuộc phiêu lưu, và háo hức dò tìm các giá trị mới, cho đến khi ngã quỵ trước thất bại và tuyệt vọng. Khi ấy, chư huynh đệ trong “vai” đứa con hoang đàng Phàm Ngã mới nhận biết hơi ấm vòng tay ấp ôm của Cha là trân quý biết bao!

Đồng thời thì tấm lòng vị tha, biết yêu thương giữa toàn thể chư huynh đệ với nhau cũng được đề cập rõ ràng trong sự miêu tả nỗi giận hờn cùng ganh tức của người anh “tự thấy mình có công cao cái thế” với Cha và cũng qua tình tiết này mà Dụ Ngôn đã tỏ rõ cho chư huynh đệ nhận thức được Cha đã yêu thương và cũng đã khổ sở biết bao với những đứa con thân yêu của Chính Người!

Câu chuyện còn đề cập đến những “người đầy tớ” phục vụ cho Gia Đình Nhà Cha, nói đến đây thì chư huynh đệ cũng đã thừa hiểu về thân phận của những “người đầy tớ” này, thực sự là gì rồi! (Chính là hàng Thiên Thần, các bậc Hộ Pháp, Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác, các Đại Giác Giả...)

Sau cùng, chư huynh đệ hỡi, chúng ta hãy học cách yêu thương, như Cha Chúng Ta Hằng Yêu Thương!

Chia sẻ tiếp câu chuyện ẩn dụ cũng mang nội dung nói về Người Con Hoang Đàng trong tác phẩm:

Ðạo Phật Ngày Nay
Một Diễn Dịch Mới Về Ba Bộ Kinh Pháp Hoa
Tác Giả: Nikkyò Niwano
Anh dịch: Kòjirò Miyasaka
Bản Dịch Anh Ngữ: Buddhism For Today: A modern Interpretation Of The Threefold Lotus Sutra,  Kose Publishing Co. Tokyo
Việt dịch Cư Sĩ Trần Tuấn Mẫn
Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam TP. HCM ấn hành 1997.

PHẨM 04 - TÍN GIẢI

Ý NGHĨA CỦA TÍN VÀ GIẢI

Tín (shin), niềm tin là sự vận hành của tình cảm, và giải (ge), sự nhận thức là sự vận hành của lý trí của người ta. Dù người ta thường bảo rằng tôn giáo hay tín ngưỡng phải được tin thay vì suy luận, nhưng thật là nguy hiểm khi tin tưởng mù quáng vào một tôn giáo mà không có một hiểu biết nào về tôn giáo ấy. Nếu tôn giáo này là một giáo lý sai lầm và vô giá trị thì sự tin tưởng mù quáng sẽ dẫn đến kết quả là tự hủy hoại chúng ta mà còn gây một ảnh hưởng vô cùng tai hại cho gia đình và xã hội nói chung.

Dù cho một tôn giáo là một giáo lý tốt đi nữa, nhưng chừng nào chúng ta còn tin nó một cách mù quáng, thì niềm tin của chúng ta cũng có thể bị hoàn cảnh lay chuyển. Hãy thí dụ một người tin rằng anh ta sẽ lành bệnh hoặc hoàn cảnh của anh ta sẽ được cải thiện nếu anh chỉ cần tin vào một tôn giáo nào đó mà không cần hiểu giáo lý của nó. Anh được lành bệnh và tin rằng được lành bệnh như thế là nhờ tôn giáo của anh, nhưng khi bệnh tái phát thì anh bắt đầu nghi ngờ. Giả như sau đó con trai anh ta bị rớt kỳ thi vào Đại học thì anh ta từ bỏ niềm tin mà anh vốn gắn bó chặt chẽ bất kể ý kiến của người khác. Điều như thế thường xuyên xảy ra.

Loại niềm tin này không phải là một niềm tin vững chắc theo ý nghĩa thực sự của niềm tin mà chỉ là một niềm tin hẹp hòi. Một tôn giáo thực sự luôn luôn có thể được hiểu bằng lý trí; loại hiểu biết này được gọi là sự nhận thức (giải). Khi chúng ta nêu một giải thích rõ ràng về một tôn giáo thì riêng điều này cũng là một niềm tin chưa trọn vẹn. Dù cho về mặt tâm linh, chúng ta có tiến đến một mức độ nào đó nhờ một niềm tin không trọn vẹn như thế, chúng ta cũng không thể vượt qua mức độ ấy. Một tôn giáo thực sự thì hết sức sâu xa. Chẳng hạn, dù ta có thể nhờ lý trí mà hiểu rằng đức Phật là chân lý của vũ trụ, nhưng khi chúng ta cố gắng thâm nhập triệt để vào chân lý này, thì chúng ta nhận thấy nó vô cùng sâu xa và không thể nắm bắt nó bằng chỉ riêng lý trí.

Một nhà khoa học nổi tiếng đã nói: “Vũ trụ khoa học trong thời đại chúng ta quá bí ẩn đến nỗi chúng ta chưa bao giờ tìm thấy nó trong lịch sử tư tưởng”. Lời nói ấy có nghĩa rằng vũ trụ được xét một cách khoa học thì bí ẩn hơn nhiều so với sự bí ẩn mà người nguyên thủy cảm nhận qua sự hiện hữu của mặt trời, mặt trăng, núi lửa, giông bão và những hiện tượng thiên nhiên khác hoặc so với sự bí ẩn mà con người cảm nhận qua các thời đại khi đối mặt với tôn giáo. Kiến thức khoa học càng phát triển thì vũ trụ hình như càng trở nên bí ẩn. Truy tìm sự bí ẩn này đến cùng bằng lý thuyết và thực nghiệm là nhiệm vụ của khoa học và hẳn phải như thế.

Mặt khác, qua tin tưởng vào tôn giáo, chúng ta có thể trực tiếp vào thế giới bí ẩn không chỉ bằng lý thuyết suông. Trạng thái tâm linh sinh ra do sự gặp gỡ lần đầu với sự bí ẩn được gọi là niềm tin. Khi một người cố gắng giải thích toàn bộ giáo lý của một tôn giáo bằng lý trí thì tôn giáo đó không có khả năng kích thích những người khác vì người ấy chỉ có sự hiểu biết về lý thuyết chứ không thể đưa lý thuyết vào thực hành.
Một tôn giáo như vậy không tạo sức mạnh khiến người khác theo nó. Niềm tin thực sự thì có năng lực và sức mạnh. Một người tuy có thể thiếu học và ở trong hoàn cảnh thấp kém, anh ta cũng có thể cứu những người khác và giúp đỡ họ phát triển tôn giáo nếu anh ta chỉ có niềm tin. Nhưng nếu anh ta đã tin vào những gì sai lầm về cơ bản thì năng lực của anh ta sẽ gây một ảnh hưởng tai hại cho xã hội và những người chung quanh. Do đó niềm tin và sự nhận thức phải đi đôi với nhau.

Một tôn giáo chỉ có thể được gọi là thực sự khi nó bao gồm niềm tin và sự nhận thức. Giáo lý của đức Phật có thể được hiểu bằng lý trí. Giáo lý ấy không đòi hỏi niềm tin mù quáng và phi lý trí. Chúng ta phải hiểu giáo lý của đức Phật bằng cách nghe giảng và đọc kinh. Một khi chúng ta tiến bộ trong nhận thức về giáo lý thì niềm tin tự nhiên sẽ phát sinh.

Khi một người có cái tâm nhạy bén, không tiến bộ trong nhận thức thì anh ta sẽ phát triển niềm tin ngay khi anh ta được bảo rằng “Đây là giáo lý thực sự”. Xét về mặt giáo lý của kinh Pháp Hoa thì điều này cũng tốt, vì anh ta sẽ tiến bộ dần dần trong nhận thức bằng cách nghe và đọc giáo lý của kinh.

Tóm lại, chúng ta có thể đi vào một tôn giáo bằng khía cạnh niềm tin hoặc khía cạnh nhận thức, nhưng nếu một tôn giáo không bao gồm cả hai khía cạnh ấy thì nó không có sức mạnh thực sự. Bằng sự nhận thức cơ bản này về các thành phần của một tôn giáo thực sự, chúng ta hãy xét đến chánh văn của phẩm 4.

Đức Thế Tôn đã thọ ký cho một Thanh văn Tỳ-kheo, ngài Xá-lợi-phất (Sariputra) rằng ngài Xá-lợi-phất sẽ thành Phật và Ngài đã giảng giải rõ lý do trong Ẩn dụ về Ngôi Nhà Lửa. Bấy giờ các Thanh văn Tỳ-kheo trong hội chúng là những bậc Đại trí như các ngài Tu-bồ-đề (Subhùti), Đại Ca-chiên-diên (Mahà-kàtyàyana), Đại Ca-diếp (Mahà-kà'syapa), và Đại Mục-kiền-liên (Mahà- Maudgalyàyana) càng lúc càng hiểu giá trị của Pháp, và hoan hỷ cực độ. Chư vị liền cúi mình nhất tâm đảnh lễ, chắp tay bạch Phật: “Chúng con là những Tỳ-kheo đầu đàn trong hàng đệ tử của Thế Tôn và chúng con đã trở nên già nua. Chúng con tự thấy đã thoát khỏi những phiền trược, khổ đau của cuộc đời và tự thấy không còn phải nỗ lực để làm gì nữa, cho nên chúng con không vội vã cầu tìm Chánh Đẳng Giác”.

“Thế Tôn đã giảng Pháp trong một thời gian dài và trong lúc chúng con đang ngồi tại chỗ, thân thể chúng con trở nên mỏi mệt, chúng con lơ đểnh và cảm thấy không còn cần nghe Thế Tôn thuyết giảng nữa. Chúng con chỉ nghĩ đến Không, Vô tướng và Vô tác. Còn đối với Pháp mà chư Bồ-tát nêu trỏ cho người khác với lòng đại từ bi, tự tại thuyết giảng theo khả năng của người khác, khiến họ tỏ bày bản tính thực sự của họ, cứu độ đồng đều hết thảy và thanh tịnh cuộc đời, thì tâm chúng con lại không thích thú. Chúng con hết sức hối tiếc về sự hiểu biết không trọn vẹn của chúng con. Nay nghe đức Phật thọ ký cho Xá-lợi-phất cũng như cho chư Hiền hữu Thanh văn của chúng con rằng “Ông sẽ chứng đạt Vô thượng Cháng Đẳng Giác”, chúng con hết sức hoan hỷ. Chẳng ngờ rằng nay chúng con bỗng được nghe Pháp hy hữu này, chúng con vô cùng vui mừng vì đã thu đạt điều rất lớn lao, thiện lành, một viên ngọc vô giá như thế mà không phải cầu tìm. Bạch Thế Tôn! Thế là chúng con đã hiểu giáo pháp mà nay Ngài giảng cho chúng con. Giờ đây chúng con xin được nói bằng một Ẩn dụ để làm rõ ý nghĩa này”. Thế rồi bốn vị đại Thanh văn kể câu chuyện sau đây.

---o0o---

ẨN DỤ VỀ NGƯỜI CON TRAI CÙNG KHỔ

Một thanh niên rời bỏ người cha mà đi xa. Ông ta sống ở một xứ xa trong một thời gian dài và cuối cùng ông được năm mươi tuổi. Càng lớn tuổi, ông càng trở nên nghèo. Lang thang đây đó để tìm việc làm, cứ thế cho đến khi ông trở về quê hương. Người cha, vốn rất đau khổ vì đứa con trai đã bỏ nhà mà đi, đã tìm kiếm đứa con khắp xứ nhưng không gặp được. Bấy giờ người cha đã lập nghiệp ở một thành phố nọ. Ông trở nên rất giàu, hàng hóa và tài sản của ông không kể xiết. Ông có rất nhiều tôi tớ, người hầu kẻ hạ.

Trong khi đó, người con trai cùng khổ lang thang từ làng này qua làng khác và qua nhiều thành phố, xứ sở, cuối cùng đến thành phố mà người cha lập nghiệp. Ông đang đứng trước cổng nhà cha ông mà không biết đấy là nhà của ai. Trong khi người cha vẫn luôn nghĩ đến đứa con, ông không bao giờ nói điều ấy với ai. Nghĩ đến sự mất mát của mình và nuôi lòng tiếc nuối, ông tự nhủ: “Ta đã già yếu lại có tài sản lớn mà không có con trai. Một ngày nào đó ta sẽ chết, tài sản ta sẽ bị phân tán và mất đi. Chỉ cần ta mang được con trai ta về mà giao tài sản cho nó thì ta sẽ sung sướng, hạnh phúc biết bao!” Bấy giờ, người con trai nghèo khổ đã làm công đây đó, bất ngờ dừng lại trước nhà cha mình, hy vọng sẽ được thuê làm việc. Đứng trước cổng, từ xa ông trông thấy một cụ già trang nghiêm đang ngồi trên sập và nhiều người có vẻ trang trọng đang vây quanh và cung kính cụ. Người con trai cùng khổ trông thấy người uy quyền kia thì đâm sợ hãi và nghĩ: “Ông ta hẳn là một vị vua hay một vị nào đó trong hàng vua chúa. Đây không phải là nơi để ta kiếm việc làm. Tốt hơn ta nên đi kiếm làng nào nghèo khổ, nơi ấy ta có thể đem sức cần cù ra mà làm thuê thì sẽ kiếm được thức ăn áo mặc dễ dàng hơn. Nếu ta đây lâu, ta có thể bị bắt và bị ép vào công việc”. Rồi ông vội vàng bỏ chạy. Bấy giờ vị phú ông đã nhận ra đứa con trai của mình từ khi thoạt trông thấy, liền rất vui mừng mà nghĩ: “A! Con trai ta bỗng nhiên trở về. Mong ước của ta được thỏa. Ta đã tìm thấy đứa con mà ta có thể giao lại tất cả tài sản của ta”. Ngạc nhiên khi thấy con mình thình lình bỏ chạy, người cha liền sai người hầu đuổi theo và mang ông ta về. Người con trai cùng khổ ngạc nhiên và sợ hãi la lớn: “Tôi không có xúc phạm gì đến quý vị, sao lại bắt tôi?”

Nhưng các sứ giả túm lấy ông và bắt ông ta quay lại. Người con nghĩ rằng dù ông vô tội, ông cũng sẽ bị giam giữ và điều này chắc chắn có nghĩa là ông sẽ phải chết. Nghĩ như thế, ông sợ hãi đến nỗi bủn rủn và ngã xuống đất. Người cha từ trong thấy thế liền ra lệnh cho các sứ giả: “Không cần phải làm như thế với hắn. Chớ dùng sức mạnh mà mang hắn về. Hãy rảy nước lạnh vào mặt hắn để làm cho hắn lai tỉnh và đừng nói gì với hắn nữa”. Người cha biết rằng cung cách của con mình là thấp hèn do đã sống lâu trong nghèo túng và rằng địa vị cao trọng của ông đã làm cho con ông sợ. Dù ông biết chắc rằng đây là con ông, ông vẫn không nói gì với ai mà quyết định sẽ từ từ lôi kéo con ông.
 
Sau khi rảy nước lạnh vào mặt người con và làm cho ông tỉnh lại, một sứ giả nói: “Nay ta cho anh được tự do; anh muốn đi đâu thì đi”. Người con trai cùng khổ mừng rỡ ra đi, liên tục cúi mình kính cẩn. Ông ta đến một làng nhỏ để kiếm thức ăn và quần áo như lệ thường. Thế rồi người cha muốn lôi kéo con mình, đã vạch ra một kế hoạch. Ông bí mật sai hai người đàn ông ăn mặc tồi tàn vào có vẻ xoàng xỉnh và dặn: “Các anh hãy đi đến nơi ấy mà nhẹ nhàng nói với người nghèo khổ kia rằng: "Đây có một chỗ cho anh làm việc; anh sẽ được trả tiền công gấp đôi”.
Nếu người ấy đồng ý thì mang anh ta về đây và giao việc cho anh ta. Nếu anh ta hỏi các anh muốn anh ta làm việc gì thì các người có thể nói với anh ta: "Chúng tôi thuê anh dọn một đống phân và hai chúng tôi sẽ cùng làm việc với anh””.

Người con cùng khổ nghĩ rằng đây là công việc thích hợp với ông và tin theo hai sứ giả, nhận trước tiền công và cùng họ dọn đống phân. Người cha nhìn ông mà thương tình. Một hôm nhìn qua cửa sổ người cha thấy gương mặt của người con từ xa, dơ bẩn và tiều tụy, ở gần những đống phân và rác. Thế rồi người cha không chịu nổi lòng thương xót người con, liền mặc quần áo tồi tàn rách rưới, dơ bẩn, lấy bùn đất vây lấm thân thể, cầm cái xẻng mà đến với những người lao công. Ông nói với họ: “Làm việc đi nào, chớ có lười biếng”. Rồi người cha bảo người con: “Ta nghe nói anh là một kẻ nghèo. Anh không có gì để sinh sống, phải thế không? Từ nay, anh có thể trông cậy vào ta. Này anh bạn, anh cứ ở lại đây mà làm việc, chớ đi đâu khác nữa. Ta sẽ tăng lương cho anh. Thứ gì anh cần, cứ lấy mà dùng, đừng ngại - chén bát, đồ đạc, gạo cơm, bột, muối, giấm v.v... Ngoài ra còn có một lão bộc già yếu dành cho anh nếu anh cần. Cứ tự nhiên. Ta cũng như cha anh, đừng lo lắng gì nữa. Ta đã già, còn anh thì trẻ và  khỏe mạnh. Bấy lâu nay làm việc, anh chẳng bao giờ dối trá, lười biếng, cộc cằn hay càu nhàu. Ta không hề thấy anh có lúc rỗi như các lao công khác. Từ nay trở đi, anh sẽ như là con ta vậy”.

Thế rồi vị trưởng giả đặt cho ông một tên mới và gọi ông là con. Người con cùng khổ dù được vui hưởng như thế, vẫn nghĩ rằng mình là kẻ làm thuê mướn thấp hèn. Vì vậy, trong hai mươi năm, ông vẫn tiếp tục được thuê dọn phân. Sau thời gian này, có sự tin cậy lẫn nhau giữa hai cha con, và người con muốn đến hay đi tùy ý dù tinh thần hèn kém của ông vẫn chưa thay đổi.

Sau đó, ông trưởng giả bị bệnh và biết mình sắp chết, ông giao phó cho người con quản lý tất cả tài sản của ông. Dù người con đã được người cha tin cậy, ông vẫn không loại bỏ được mặc cảm tự ty. Sau một thời gian ngắn, người con đã quen với việc quản lý nhà cửa và tất cả tài sản của cha mình, và lối suy nghĩ của ông được mở rộng dần, khiến ông nghĩ rằng có thể tự mình cai quản toàn bộ ngôi nhà của người cha. Giờ đây ông xem thái độ trước đây của mình là không tốt.

Người cha rất hài lòng khi thấy như thế. Thấy mình sắp chết, ông gọi người con đến đồng thời cũng tập hợp các thân thích, vua chúa, đại thần, Sat-đế-lỡ và dân chúng trong nước. Khi tất cả đều tụ hội, ông tuyên bố với mọi người: “Đây thực sự là con trai của tôi và tôi thực sự là cha của nó”.

Ông giải thích tại sao như thế và bảo họ: “Tất cả tài sản mà tôi sở hữu hoàn toàn thuộc về con trai tôi”. Khi nghe như thế, người con trai rất vui mừng trước tin bất ngờ ấy và nghĩ rằng: “Phần ta, ta chẳng có ý định hay nỗ lực gì mà giờ đây tất cả tài sản này lại tự đến với ta”.

Đây là Ẩn dụ về Người con trai cùng khổ, là Ẩn dụ thứ hai trong bảy Ẩn dụ trong kinh Pháp Hoa.

Ngay sau khi kể xong Ẩn dụ này, bốn vị Thanh Văn liền bạch Thế Tôn: “Vị trưởng giả đại phú ấy là đức Phật và tất cả chúng con là các nam tử của Ngài”. Thế rồi các vị ca ngợi lòng từ bi và năng lực thiện xảo của đức Phật, đã đưa họ đến giáo pháp Đại thừa dù họ đã thỏa mãn với sự chứng ngộ Tiểu thừa.

Phẩm 4 được chấm dứt bằng các câu kệ do ngài Đại Ca-diếp đọc để kể lại câu chuyện.

Từ quan điểm của chúng ta, người con trai cùng khổ tượng trưng cho tất cả các chúng sanh. Nhưng ở đây, chúng ta hãy xem người con trai là bốn vị Thanh văn ấy và thử áp dụng Ẩn dụ trên vào trường hợp của các vị ấy.

Người con trai cùng khổ đầu tiên vẫn biết rằng vị trưởng giả giàu có (Đức Phật) là người cha thực sự của mình, nhưng rời xa cha và lang thang qua nỗi khổ của con người, trỏ cho trạng thái thông thường của các chúng sanh trong đời. Trong giai đoạn này, bốn vị Thanh văn là người thường như chúng ta. Tuy nhiên, không có sự từ bỏ mối dây liên hệ cha và con. Dù người con không biết rằng mình có Phật tính và vẫn lang thang trong cuộc đời khổ đau của con người, người ấy tình cờ đến với đức Phật. Đứng ở cổng ngôi nhà của đức Phật, các chúng sanh không biết rằng Ngài là cha mình. Nhưng đức Phật thì nhận ra con của Ngài ngay. Đức Phật luôn luôn gần gũi với chúng ta; chân lý thì ở khắp mọi nơi, và đức Phật chờ chúng ta tìm thấy Ngài. Chúng ta chỉ việc hòa hợp tâm mình với Ngài. Đức Phật cố gắng đưa các chúng sanh đến chân lý, nhưng các chúng sanh lại quay lưng với Ngài do bởi họ có cảm giác thấp kém, cho rằng giáo lý của Ngài quá cao xa đối với họ và rằng những người như họ không thể đến với Ngài được.

Thế rồi đức Phật muốn lôi kéo các chúng sanh, vạch ra một kế hoạch. Ngài gởi các sứ giả (những người phục dịch trong ngôi nhà của đức Phật và được sự an tịnh tâm thức ở đấy, tức là, hàng Thanh văn và Duyên giác) đều xuất hiện như người thường nhưng đã đạt tới trình độ tâm thức cao hơn các chúng sanh bình thường, và Ngài bảo chư vị ấy nâng cao trình độ tâm thức của con người sao cho chư vị có thể phối hợp được với những người như thế trong tư cách sứ giả. Bảo người con dọn đống phân có nghĩa là đức Phật dẫn dắt các chúng sanh thoát khỏi các ảo tưởng của họ bằng cách tu tập Tiểu thừa. Phần này của Ẩn dụ Người Con Trai Cùng Khổ áp dụng vào quá trình tu tập của bốn vị Đại Thanh văn hơn là vào trạng thái của các chúng sanh nói chung.

Sau khi dần dần khiến cho bốn vị Thanh văn quen với giáo lý của Ngài theo cách ấy, đức Phật muốn gọi họ là các con trai của Ngài và cố gắng cải tiến họ bằng giáo lý chân thực của Ngài. Trong khi ấy, bốn vị Thanh văn vẫn còn bị ấn tượng rằng giáo lý của đức Phật chẳng liên hệ gì với họ mà thuộc về một bình diện cao hơn, và họ đã vạch một đường phân cách giữa đức Phật và chính họ. Cho nên họ tiếp tục tu tập giáo lý Tiểu thừa một cách chuyên chú trong hai mươi năm.

Đây là điểm mà người thường nhận thấy khó theo cho được. Trong hai mươi năm, các ngài Tu-bồ-đề, Ca-chiên-diên, Ca-diếp và Mục-kiền-liên vẫn tiếp tục miệt mài dọn "đống phân" mà không hề mệt mỏi, sơ suất, sân hận hay tranh cãi với các đồng sự. Về điểm này, chư vị đã chứng tỏ đầy đủ danh xưng của mình là những đại đệ tử của đức Phật Thích-ca-mâu-ni. Theo cách ấy, cuối cùng chư vị đã đạt được tâm giải thoát và trở nên thuần thục với giáo lý của đức Phật.

Thế rồi đức Phật mở cửa kho tàng giáo lý của Ngài và bảo với chư vị ấy: “Các Ông có thể có mọi thứ trong kho tàng giáo lý của Ta”. Đây là cách nói của đức Phật, bảo rằng họ là những nam tử thực sự của Ngài, họ có thể lấy bất cứ thứ gì họ muốn. Nhưng chư vị ấy vẫn nghĩ rằng họ còn là những kẻ tôi tớ và không thể lìa bỏ cái tinh thần hèn kém của họ. Do đó, dù họ thành tựu bổn phận như giảng pháp thay đức Phật, toàn hảo và chân thành như là những sứ giả (đệ tử của đức Phật). Họ vẫn không thể lìa bỏ cái tâm thái của nhị thừa và rất hài lòng với tình trạng hiện tại của mình.

Đức Phật giảng Kinh Pháp Hoa trước khi Ngài nhập diệt, Ngài tuyên bố: “Mối liên hệ giữa đức Phật và hết thảy các chúng sanh là mối liên hệ cha và con. Tất cả đều có thể thành Phật”. Mới đầu các đệ tử ngạc nhiên về lời tuyên bố lớn lao này của đức Phật, và họ vô cùng hoan hỷ mà nhận ra rằng bỗng nhiên tài sản đức Phật (sự chứng ngộ của đức Phật) rõ ràng thuộc về họ.

Ẩn dụ này minh họa quá trình tu tập lâu dài của bốn vị Thanh văn ấy và cũng thể hiện lòng từ bi và năng lực thiện xảo của đức Phật mà qua đó Ngài kiên định chăm sóc các đệ tử và dần dần đưa họ đến trình độ cao hơn. Tuy vậy, cũng may là chúng ta có thể đối mặt với Kinh Pháp Hoa mà không cần trải qua quá trình lâu dài ấy. Do đó, chúng ta có thể lao thẳng vào đôi cánh tay của đức Phật. Nhưng những thái độ tâm thức khác nhau là cần thiết nếu chúng ta phải làm như thế. Phẩm kinh này cũng bàn đến những thái độ tâm thức ấy.

---o0o---

KIÊU MẠN VÀ KHIÊM TỐN

Thái độ tâm thức đầu tiên mà ta học ở phẩm kinh này là từ bỏ cái tinh thần tự ty. Tự nghĩ rằng mình vô dụng là từ chối Phật tính của chính mình, và do đó, là từ chối đức Phật. Như thế là một sự phỉ báng đức Phật.

Ta cần giải thoát tâm ta. Ta phải luôn luôn tự nhủ: “Ta cũng có thể thành Phật; ta đồng nhất với vũ trụ”. Ta phải nhắc đi nhắc lại mãi cho chính mình như thế. Khi ta tâm niệm điều này trong một thời gian nhất định mà không nghĩ gì khác hơn, ta có thể nhập vào trạng thái hoàn toàn định tâm. Trạng thái này khiến cho chúng ta tăng cường sự tự tin. Loại tự tin này hoàn toàn khác với sự kiêu mạn. Kiêu mạn nghĩa là nghĩ rằng mình đã thể chứng những điều mà thực ra mình chưa thể chứng, là phán đoán các sự vật theo sự nhận thức giới hạn của mình.

Mặt khác, khi chúng ta thể chứng điều gì, chúng ta thường không ý thức được ngay về sự thể chứng của chính chúng ta. Một người đã đạt được một trạng thái tâm thức rất cao mới có thể tự mình cảm nhận sự thể chứng của mình, nhưng hầu hết chúng ta đều không ý thức ngay liền sự thể chứng của chúng ta. Chúng ta chỉ dần dần biết đến nó nhờ các kết quả của nó. Chẳng hạn, một cách nào đó, chúng ta cảm thấy lòng thanh thản; chúng ta cảm thấy vui mừng; chúng ta đã có tấm lòng cởi mở; chúng ta không còn bực dọc hay sợ hãi những đổi thay tầm thường trong hoàn cảnh; chúng ta cảm thấy rằng mọi sự xảy ra như chúng ta mong muốn. Khi chúng ta có những cảm giác mơ hồ như vậy; dù không thực sự ý thức về chúng, chúng ta cũng đã đạt được cấp độ thứ nhất của chứng ngộ. Do đó khi nghĩ rằng: “Ta có thể thành Phật” hay “Ta đồng nhất với vũ trụ” thì đấy không phải là kiêu mạn, vì chúng ta đã thực sự kinh nghiệm điều này ở một mức độ nào đó.

Mặt khác, ta phải giữ thái độ khiêm tốn khi chúng ta nghe Phật pháp và khi chúng ta truyền bá Phật pháp cho người khác. Cả thái độ bên trong và bên ngoài của chúng ta đều phải luôn luôn khiêm tốn. Nhưng khi chúng ta nghĩ về chân lý thì chúng ta được phép tự hào bao nhiêu cũng được. Chúng ta có thể ấp ủ những ý tưởng có vẻ phô trương như “Ta là kẻ thừa kế vũ trụ vì ta là con đức Phật. Vũ trụ chính là của chúng ta, cho nên ta cũng có thể sở hữu vũ trụ”. Nghĩ như thế là một con đường tắt giúp chúng ta thẳng đến vòng tay của đức Phật, và khiến chúng ta làm như thế là mục đích duy nhất của sự xuất hiện của đức Phật trên thế gian này.

Thái độ tâm thức thứ hai mà ta học ở phẩm 4 là duy trì cả niềm tin lẫn sự nhận thức đối với kinh Pháp Hoa. Không có hai thứ ấy, chúng ta không thể vững chãi tiến vào vòng tay của đức Phật. Có thể chúng ta bị lệch khỏi đường đúng hoặc đi vào đường sai lạc hoặc đi vào ngõ cụt trong đời người. Nếu điều này xảy ra cho chúng ta thì chúng ta cần đọc lại kinh Pháp Hoa.

Theo cách ấy, chúng ta có thể chắc chắn tìm ra được cách quay cuộc sống của chúng ta vào con đường đúng đắn, vì kinh Pháp Hoa gồm những giáo lý có thể áp dụng cho người ta trong mọi tình huống; chúng ta có thể trở nên sáng suốt bằng cách khởi đầu từ bất cứ phần nào của kinh. Đây là thể cách khiến chúng ta có thể thoát ra khỏi những ngõ cụt của đời người.

Điều quan trọng thứ ba mà ta học ở phẩm 4 là những ai đủ may mắn gặp được kinh Pháp Hoa và có thể hiểu được kinh, tin vào kinh thì có thể tiến thẳng đến vòng tay của đức Phật. Tuy nhiên, thế giới ngày nay đang ở trong đời ác với ngũ trược, đầy dẫy những “người con cùng khổ”. Chúng ta chỉ có thể được gọi là đã thực sự tu tập tinh thần kinh Pháp Hoa nếu như chúng ta cứu được những người con cùng khổ theo hết khả năng của chúng ta. Điều độc nhất chúng ta có thể làm để cứu họ và dẫn dắt họ là hiểu tinh thần phương tiện thiện xảo của đức Phật như được minh họa trong phẩm này. Đồng thời, chúng ta phải noi gương đức Phật khi sử dụng phương tiện thiện xảo; chúng ta đừng quên rằng theo gương tốt của người khác là con đường tắt để đạt mục đích.

Bài học thứ tư mà chúng ta học ở phẩm 4 là cách thức tuyệt diệu để tiến từ niềm tin đến nhận thức được nêu tỏ ở đây. Bốn vị Thanh văn, nghe và hiểu Ẩn dụ về Ngôi Nhà Lửa. Không những họ chỉ nghĩ rằng họ đã hiểu Ẩn dụ ấy mà còn chứng tỏ sự hiểu của họ trước đức Phật bằng một Ẩn dụ khác. Không chỉ thọ nhận giáo lý một cách thụ động mà còn chủ động thông báo rằng chúng ta có thể hội được là cách thức rất tốt để vừa làm sâu nhận thức vừa nâng cao niềm tin của chúng ta. Hơn nữa, điều ấy cũng giúp làm sâu nhận thức của người khác và nâng cao niềm tin của họ. Chúng ta không nên bỏ qua điều quan trọng là nói về những kinh nghiệm tôn giáo của chính chúng ta cho người khác biết, như đã được nêu tỏ trong phẩm này.

C89: Chiến Binh Ánh Sáng

Chương 89: Chiến Binh Ánh Sáng

CHIẾN BINH ÁNH SÁNG là tất cả những Con-Người LUÔN BIẾT CHIẾN ĐẤU CHỈ ĐỂ CHIẾN THẮNG và VƯỢT LÊN CHÍNH BẢN THÂN MÌNH mà thôi, đồng thời, qua đó góp phần mình trong việc GIÚP ĐỠ những người khác cũng có được khả năng TỰ CHIẾN ĐẤU ĐỂ CHIẾN THẮNG và VƯỢT LÊN TRÊN chính họ.

ĐÂY LÀ CON ĐƯỜNG CHÂN CHÍNH RIÊNG DÀNH CHO SỰ TỰ GIẢI THOÁT bản thân ra khỏi Mãnh Lực Thế Gian, qua đó mà TIẾN HÓA KHÔNG NGỪNG THEO CHIỀU KÍCH THĂNG LÊN, THĂNG THIÊN, TRỞ VỀ QUÊ HƯƠNG NGUỒN CỘI - NHẤT TÂM THẲNG HƯỚNG VỀ MỤC TIÊU HỢP NHẤT!

Có 12 loại chiến binh ánh sáng có thể làm biến đổi linh hồn con người.
Việc phục vụ nhân loại không phải lúc nào cũng dưới ánh đèn sân khấu. Trên sân khấu, bạn không cần phải là một giáo viên tâm linh để có thể tác động giác ngộ cho người khác.

Bất kể bạn ở đâu, trong một môi trường bình thường, làm việc trong một công ty, vui chơi trong một khu vực chính của thực tế. Dù bạn ở đâu, bạn cũng có thể đi theo con đường của chiến binh ánh sáng.

Mọi người nhận thấy sự rung động của bạn, tình yêu của bạn và sự hỗ trợ cho người khác của bạn, sự phục vụ gương mẫu của bạn và sự tích cực mà bạn truyền một cách tự nhiên cho người khác. Đó là những gì thực sự giúp ích sau này, chỉ cần là chính mình và sống theo lẽ thật của bạn là đủ rồi, điều đó sẽ truyền cảm hứng cho sự thay đổi tích cực trong những người khác, điều đó sẽ chữa lành và thắp sáng trong linh hồn của những người khác.

Có 12 loại chiến binh ánh sáng và tất cả họ đều có cùng một mục đích cốt lõi là phục vụ nhân loại.

Phục vụ có thể là chữa lành cho nhân loại, truyền cảm hứng cho nhân loại hoặc dẫn dắt nhân loại đến một sự thay đổi tích cực.

Để giúp bạn xác định bạn thuộc về loại nào, dưới đây là 12 loại chiến binh ánh sáng và đặc điểm của họ. Khi xác định hành trình chiến binh ánh sáng của bạn, bạn phải chú ý đến sự hướng dẫn từ bên trong. Trực giác của bạn sẽ giúp bạn khám phá một hoặc nhiều năng khiếu độc đáo trong bạn.

1. Người kết lưới và người gác cổng.

Những chiến binh ánh sáng làm việc với các mạng lưới trên Gaia. Họ tạo ra mạng lưới con người, kết nối trái tim của tất cả mọi người đã thức tỉnh, họ là những cánh cửa thực sự trên trái đất, kết nối các địa điểm linh thiêng, thiêng liêng thông qua các đường ley và hoạt động như các cánh cổng cho phép ánh sáng đến với thế giới này qua trái tim rộng mở của họ.

Gác cổng là một dạng kết lưới cao cấp hơn, trong đó các chiến binh ánh sáng làm việc với một nhóm để mở các cánh cổng liên không gian, cho phép các cấp độ ánh sáng và tình yêu cao hơn tràn vào, trong khi những người kết lưới chỉ mang ánh sáng qua những cánh cổng tâm linh đã mở ra trên Gaia.

Những người gác cổng có thể mở ra những cánh cổng mới hoặc thậm chí là cả những cánh cổng đã bị đóng do sự trì trệ.

2. Người bảo hộ ánh sáng thiêng liêng.
Nhiệm vụ cốt lõi của loại này là hóa thân thành ánh sáng bất kể hoàn cảnh bên ngoài có như thế nào. Họ ở đây để duy trì tầng suất rung động và sự hiện diện cao hơn. Họ là ngọn Hải Đăng của nhân loại. Trong các sự kiện hỗn loạn và rắc rối, ánh sáng của họ tỏa sáng đủ để mang lại hi vọng và truyền cảm hứng cho những người khác.

Các chiến binh ánh sáng này nâng đỡ và hỗ trợ nhân loại trong quá trình thức tỉnh đang diễn ra. Phần lớn họ là các diễn viên hài, diễn giả truyền động lực, giáo viên tâm linh, người nổi tiếng hoặc thậm chí là những cá nhân bình thường ở địa phương mà bạn cảm thấy thoải mái khi dựa vào.

3. Người biến đổi.
Người biến đổi trung hòa sự tiêu cực và bóng tối bằng cách đi sâu vào nó và tỏa ra ánh sáng của họ. Khi sự tiêu cực biến trở về trung lập thiêng liêng, nó được khôi phục cân bằng – bằng cách biến đổi NGHIỆP trong quá khứ. Những người biến đổi hoạt động thay mặt và vì ý thức tập thể của nhân loại. Họ cũng có thể biến đổi cả dòng tộc của họ, họ đã có thể đã được chọn để được sinh ra trong một dòng tộc có nhiều nghiệp tiêu cực. Họ phục vụ để giải thoát, giải nghiệp, chữa lành và giúp rung động của toàn bộ dòng tộc họ thăng cấp.

4. Người chữa lành.
Những người chữa lành thực sự giúp đỡ tất cả mọi thứ: Nhân loại, Trái đất, Động vật, Linh hồn và tất cả chúng sinh bằng cách chữa lành các khía cạnh tinh thần, tình cảm, thể chất hoặc tâm linh của chúng. Là một người chữa lành, bạn phải lắng nghe sự hướng dẫn bên trong bạn về các phương thức, kỹ thuật và cách thức sử dụng thiên phú của bạn để phục vụ.

Hầu hết các nhà ngoại cảm là những người chữa lành nhưng họ chưa nhận thức được chuyện đó và họ cần sử dụng khả năng về cảm xúc của họ để mở khóa tiềm năng chữa lành. Điều quan trọng là bạn phải tập trung vào việc chữa lành bản thân trước tiên, bởi vì khi đó bạn có thể nâng cao sự rung động của bạn và tự lấp đầy bản thân bằng ánh sáng có thể chữa lành, hỗ trợ, phục vụ, yêu thương và hướng dẫn người khác.

5. Nhà tiên tri.
Những chiến binh ánh sáng này đã mở ra con mắt thứ 3 hoặc thị giác tâm linh khiến họ có thể nhìn xuyên qua thế giới vật lý và tấm màn ảo ảnh. Thiên phú của họ bao gồm việc xem bói hoặc truyền cảm hứng, trao sức mạnh và hướng dẫn người khác đến với lẽ thật của chính mình và chân lý của thế giới.

Họ cũng có thể tập trung vào các khu vực cần năng lượng của họ để chữa bệnh, chuyển hóa hoặc giải phóng. Chính những nơi này là nơi ánh sáng, sức mạnh và sự hiện diện của họ tạo nên sự khác biệt lớn. Những người này thường là những người tiết lộ sự thật đàng sau bóng tối.

Phần lớn họ là các bác sĩ tâm thần thật sự giỏi, những người được dán nhãn là nhà siêu linh như của Carl Jung, các nhà hoạt động vì sự thật và thậm chí là cả các nhà ngoại cảm chuyên nghiệp.

6. Người nắm giữ bản vẽ thiêng liêng.
Mọi người đều có một bản vẽ thiêng liêng, một khuôn mẫu cho một bản thể hoàn toàn thức tỉnh. Tất cả các chiến binh ánh sáng đều có khuôn mẫu này, nhưng những người nắm giữ bản vẽ thiêng liêng là hoạt động tích cực nhất trong việc điều chỉnh nó và lấy các mã thức tỉnh. Họ rất giỏi trong việc dịch các mã này để mọi người có thể hiểu chúng và sử dụng chúng để nâng cao trình độ ý thức của mình.

Những người nắm giữ bản vẽ thiêng liêng sử dụng hình học thiêng liêng và các hình thức giao tiếp thiêng liêng khác thông qua công việc của họ. Họ có làm việc ở bất kỳ lĩnh vực nào của cuộc sống nhưng điều quan trọng là cách họ sáng tạo và làm việc, đó là cách họ vô thức truyền đạt bản vẽ thiêng liêng.

7. Người mộng mơ.
Những người mộng mơ sử dụng thiên phú của họ bằng cách mơ mộng du lịch xuyên các chiều không gian và đi vào cõi mộng cho phép họ tiếp cận với những chiều kích khác nhau của sự trải nghiệm.

Những người mộng mơ thường là những người được gọi là những nhà du hành tâm linh, họ sử dụng một số nghi lễ hoặc thiết bị bổ sung để tiến hành các chuyến đi ảo và tiếp cận những cõi và ý tưởng mà sau này sẽ truyền cảm hứng và nâng tầm linh hồn con người.

Nếu không có những người mộng mơ thì sẽ không có 90% các tác phẩm nghệ thuật, công nghệ và sáng chế trên thế giới ngày nay!

8. Người đưa tin.
Những người đưa tin tiếp nhận sự hướng dẫn và thông điệp từ thần thánh, các thiên thần, các sư phụ trên Trời, Ngân Hà và bản thể cao hơn của họ. Họ chia sẻ các thông điệp này thông qua video, blog, bài giảng hoặc tác phẩm văn học.

Dù là phương tiện hay nền tảng nào, những người đưa tin đều giúp nhân loại thức tỉnh bằng cách chia sẻ thông tin sâu rộng về tâm linh.

Họ giải thích cho mọi người những gì đang xảy ra với mọi người, khiến mọi người hiểu rõ hơn về hành trình tiến hóa này thông qua sự hướng dẫn mà họ nhận được từ Thánh Linh.

9. Người biểu lộ.
Những chiến binh ánh sáng này tham gia vào việc dệt ánh sáng để biểu lộ những thay đổi trên trái đất. Có thể dưới dạng định hướng và biểu lộ các dòng thời gian, biểu lộ các sự kiện tích cực hoặc tạo mẫu cho tình yêu lớn hơn, ánh sáng lớn hơn và sự hài hòa giữa các tạo vật.
Họ làm điều này thông qua nhiều cách khác nhau như thiền và hình dung kèm theo sự kiểm điểm. Những người biểu lộ vì lợi ích cao nhất của tất cả chúng sinh, Gaia, động vật và tất cả nhân loại, nhưng khi họ biểu lộ, họ vẫn cật lực rèn luyện bản thể bên trong của họ để đảm bảo rằng sự biểu lộ của họ không xuất phát từ bản chất tự tôn nhưng là từ trung tâm trái tim của họ. Hầu hết những người này thậm chí không tập trung vào việc biểu lộ mà tập trung vào việc dọn dẹp con đường để những gì họ phát ra là vì lợi ích của tất cả.

10. Người dẫn đường lên Trời.
Họ là những chiến binh ánh sáng đang dần lên Trời, họ đang ở các cấp độ ánh sáng cao hơn và chia sẻ những gì họ tìm hiểu về quá trình lên Trời. Những người này bước đến bờ vực giác ngộ và tiến xa hơn nữa bằng cách đặt câu hỏi và thể hiện các cấp độ ánh sáng cao hơn.

Hầu hết các giáo lý của họ là nhằm vào các bậc thầy tâm linh để họ có thể đẩy mạnh hơn sự tiến hóa tâm linh giữa nhân loại. Những người dẫn đường lên Trời cho chúng ta thấy cách vượt qua một số cạm bẫy của Giác Ngộ để giúp tất cả mọi người không đánh mất chính mình trên con đường lên Trời. Một số giáo lý của họ thậm chí mâu thuẫn với giáo lý thường ngày của các chiến binh ánh sáng khác. Điều này là bởi vì họ tiếp cận lẽ thật từ một góc nhìn cao hơn nhiều và họ thấy được những sai sót có thể xảy ra với tâm linh mù quáng.

11. Người chỉ đường.
Những người chỉ đường sống đúng theo những gì họ nói, họ thể hiện quá trình lên Trời và sống cuộc sống của họ một cách chân thực nhất. Họ hướng tới lợi ích cao nhất của tất cả chúng sinh và sống một cuộc sống tỉnh thức và đầy cảm hứng.

Những người này thậm chí không nhận thức được rằng họ đang phục vụ nhân loại theo một cách nào đó. Tất cả những gì những người chỉ đường làm là sống theo lẽ thật của họ và những lời dạy mà các chiến binh ánh sáng khác chia sẻ với thế giới.

Những người này là trái tim của các chiến binh ánh sáng, họ là những gì truyền cảm hứng và thúc đẩy các chiến binh ánh sáng khác tiếp tục làm những gì họ đang làm bởi vì vẫn còn những cái tốt trên thế giới cần ánh sáng của họ và bằng cách nhìn vào họ, các chiến binh ánh sáng khác được nhắc nhở rằng đâu là điều thực sự quan trọng.

12. Người hợp nhất.
Những chiến binh ánh sáng này nhìn thấy được cách mọi thứ kết nối với mọi thứ khác. Họ rất giỏi trong việc tìm kiếm các điểm chung và kết hợp các triết lý khác nhau thành một. Họ là những dịch giả thu thập những lời dạy của các chiến binh ánh sáng khác, những lẽ thật và triết lý của các bậc thầy tâm linh và định hình chúng sao cho mọi người thực sự dễ tiếp thu.

Những người hợp nhất rất giỏi trong việc nhận biết bản chất đàng sau những ý kiến khác nhau. Đó là cách họ có thể kết nối mọi người với nhau. Một cách tự nhiên, họ có tầm nhìn xa vượt trên hai mặt và hiểu cái tổng thể bao trùm hai mặt đó. Những người này không chỉ có dịch mà còn hợp nhất các nhóm chiến binh ánh sáng khác nhau để tác động của họ có thể lớn hơn nhiều.

Mặc dù, bạn nhiều khả năng là một trong 12 loại chiến binh ánh sáng, bạn có thể có một số đặc điểm từ tất cả các loại khác. Mỗi người đều là một sự kết hợp khác nhau của các loại này dựa trên các cách, các loại phụ có thể mang lại lợi ích cho việc thực hiện mục đích của loại chính.

Nội dung toàn bộ bài viết được ghi lại từ video clip
https://youtu.be/qv3mtMV3eCU

THÊM VÀI LƯU Ý ĐẶC BIỆT QUAN TRỌNG, NHẤT THIẾT CẦN PHẢI ĐƯỢC QUÁN NIỆM THẬM THÂM CHÁNH NIỆM THANH TỊNH VÔ ƯU, TRONG SUỐT TUYỆT ĐỐI:

1- Tất cả đều là các chiến binh ánh sáng, bao hàm từ hạt hạ vi trần cho tới tất cả cát đá cỏ cây, muôn loài vạn vật, hành tinh, ngân hà và hơn thế nữa, vô biên. Nên tìm xem để bổ sung và nâng tầm nhận thức thông qua các trang web, các bài viết, các cuốn sách nói về LỊCH SỬ HÌNH THÀNH và PHÁT TRIỂN CỦA NHÂN LOẠI, kể cả “chính sử” là lịch sử được nhân loại công nhận, tin cậy và Huyền Sử.

Rất nên xem và chiêm ngẫm thật sâu tài liệu này!
http://www.thongthienhoc.com/sach%20tien%20mac%20doa.htm

Thực chất, Huyền Sử lại mang SỰ THẬT NỘI HÀM ở các tầng nhận thức cao hơn hẵn so với “chính sử” trong nhân loại cổ kim, nhưng để có thể THẤU TỎ HUYỀN SỬ trên bình diện CHÂN XÁC thì đòi hỏi phải có khả năng tâm linh ở tầng rất cao, cao siêu việt nhân loại, siêu việt luôn cấp độ BỒ ĐỀ và ít nhất cũng là MỘT TÂN TẤN CHÂN THẦN THỂ ở Ngôi Thứ Ba – Chúa Thánh Thần, là Ngôi Hoạt Động Bác Ái – Thần Tử, Thiên Tử, hàm ý CHỈ VỀ nhóm đối tượng Sinh Mệnh Tiến Hóa Cao Tầng, là các Môn Sinh Đệ Tử Trực Hệ của Chư Thần, Phật, God, Thiên Chúa Ngôi Hai và Ngôi Một và TRÊN CẤP TIẾN HÓA này nữa, là Đấng Chí Tôn Thượng Đế, Đấng Hằng Ngự ở Cõi Adi, Cõi Thiêng Liêng.

Xem lại bài viết tại đây, đã TÓM LƯỢC VỀ BẢY CẢNH GIỚI CỦA THÁI DƯƠNG HỆ. Cũng chính là THÁP BẢY BÁU CỦA ĐỨC NHƯ LAI ĐA BẢO:
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=2501342376564590

2- Đây là CÕI NHỊ NGUYÊN, là vị diện không gian hết sức đặc thù, dùng để HIỂN LỘ cho sự thật ở mọi cấp độ, mọi chiều kích tiến hóa. Chính vì lẽ đó nên nơi đây còn được gọi là Cõi Dương Trần, khái niệm này mang hàm nghĩa là tất cả sự thật sẽ được PHƠI BÀY RA ÁNH SÁNG, BÓC TÁCH VÀ PHƠI BÀY SỰ THẬT TRẦN TRỤI.

Cũng vậy, Dương Gian, không gì khác là mang THỰC NGHĨA của Không Gian Vị Diện dùng để BIỂU LỘ SỰ THẬT ở các chiều kích khác nhau, phục vụ cho tiến hóa tâm linh của tất cả các Sinh Mệnh Tiến Hóa từ Hạt Hạ Vi Trần cho tới cấp độ CAO NHẤT có thể xuất hiện trong nhân loại: VÔ THƯỢNG ĐẠI NHÂN hay còn được gọi là CHÚA BA NGÔI, Vô Thượng Bồ Tát, Vô Thượng Bồ Đề, Các Thánh Tông Đồ Phụng Sự - là Ngôi Ba như đã nói ở phần trên!

Vậy cho nên, TÍNH HAI MẶT của mọi vấn đề luôn là ĐIỂM CỐT LÕI mà bất kỳ cá thể sinh mệnh tiến hóa ở bất kỳ cấp độ này, khi đang TRONG THÂN XÁC CON NGƯỜI nơi đây, thảy đều BUỘC PHẢI CHÚ Ý TUYỆT ĐỐI.

12 loại chiến binh được đề cập trong bài, có thể hiểu là 12 MÔN ĐỆ, 12 CON GIÁP, THẬP NHỊ NHÂN DUYÊN… và luôn có HAI MẶT TRONG CÙNG MỘT CHỦ THỂ NÀO ĐÓ khi đang biểu lộ cho MỘT hoặc nhiều, thậm chí cả 12 loại này TRONG MỘT.

Ngoài ra, vượt lên trên 12 loại “chiến binh” ánh sáng được kể ra này, còn có CHƯ VỊ HỘ PHÁP, chịu trách nhiệm ĐẢM TRÁCH TOÀN BỘ MA TRẬN PHÁP, tức là các vị THUỘC SỰ CHƯỞNG QUẢN CỦA ĐẤNG ĐƯỢC TUYÊN XƯNG LÀ CHÚA CÁC ĐẠO BINH, cầm CÂN NHÂN QUẢ, là CHÚA CỦA SỰ CÔNG CHÍNH, CÔNG BÌNH, QUÂN BÌNH CẢ ĐẠI VŨ TRỤ, đóng vai trò BẢO ĐẢM THỰC THI CÔNG CHÍNH trong bất kỳ trường hợp nào để GIỮ ỔN ĐỊNH TUYỆT ĐỐI cho toàn HỆ THỐNG Hành Tinh, Vũ Trụ và Đại Vũ Trụ… ở tất cả cấp độ - và dĩ nhiên là GIỮ CÂN BẰNG – CÔNG BẰNG cho tới VÔ BIÊN, thuộc TỔNG QUYỀN CHƯỞNG QUẢN CỦA ĐẤNG CHÍ TÔN TUYỆT ĐỐI – là Tổ Tiên Khai Tổ của Cả Đại Vũ Hoàn và NGƯỜI đã SINH RA, ĐÃ BAN SỰ SỐNG cũng như Đào Tạo Nên Vô Số Chư Phật, God trong khắp cùng Hoàn Vũ Vô Biên.

Tham khảo thêm về Thanh Tịnh Đại Hải Chúng, Hương Vân Cái, và Công Đức Lâm Bồ Tát tại đây:
https://ptdvo.blogspot.com/…/thanh-tinh-ai-hai-chung-huong-…

Để có thêm hay được nhắc nhớ, hệ thống lại các TRI THỨC về các hoạt động vô cùng đa dạng, BẤT KHẢ TƯ NGHỊ của TOÀN BỘ CƠ TIẾN HÓA mà TỔ TIÊN NƠI CÕI TRỜI THIÊNG LIÊNG CAO CẢ đã sắp đặt, an bày CHO LỚP LỚP THẾ HỆ CHƯ SINH HẬU HỌC.

Ngoài SÁCH GƯƠNG PHÚC, cần thiết hãy xem thật kỹ TƯ LIỆU CUỘC ĐỜI của ĐỨC PHẬT (xem trọn bộ 55 tập) cùng kết hợp các tài liệu về cuộc đời của Đấng Đạo Sư đã TỪNG THỊ HIỆN là Đức Phật Bổn Nguyên – Như Lai – Thế Tôn.

Sách ĐỨC PHẬT LỊCH SỬ https://thuvienhoasen.org/p53a8121/loi-gioi-thieu

Cuộc Đời Chúa Jesus,
Loạt Phim The Bibble https://www.phimconggiao.com/the-bible-thuyet-minh/
Cùng Phim Tư Liệu về cuộc đời Các Vị Thánh Tông Đồ Phụng Sự.

Cuộc đời chư vị Tổ Sư như:
- Bồ Đề Đạt Ma https://youtu.be/WIBhnZtgnY0
- Lục Tổ Huệ Năng https://youtu.be/k1OIKHmFRhU
- Đại Đường Huyền Trang https://youtu.be/K7YPSkX8K3k

- Web https://www.minhtrietmoi.org/
- Web liên kết https://www.minhtrietmoi.org/WPress/links/

Cùng tất cả các NGUỒN TƯ LIỆU CHIA SẺ THÔNG TIN về THỜI ĐẠI MỚI, các phong trào Sự Sống Mới, Phong Trào Ánh Sáng… từ KHẮP NƠI TRÊN THẾ GIỚI đã hoạt động tích cực VÌ NGÀY SẼ ĐẾN, ĐANG TRÊN ĐƯỜNG ĐẾN, đều đã đang có mặt tại Việt Nam như: Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Phật Giáo Hòa Hảo, Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Vô Vi, Nhân Điện, Trường Sinh Học…

HÃY TỰ CHỌN CHO MÌNH MỘT LỘ TRÌNH PHÙ HỢP NHẤT.

Và trên hết HÃY THƯỜNG NHỚ RÕ, DUY NHẤT CHỈ CÓ MỘT NGUỒN, MỘT QUÊ HƯƠNG, MỘT GỐC RỄ THIÊNG LIÊNG CAO CẢ, MỘT NƠI MÀ TẤT CẢ ĐỀU SẼ TRỞ VỀ CHUNG CUỘC, KHẢI HOÀN, TRỞ THÀNH MỘT NGƯỜI NHÀ QUÊ, là những Sinh Mệnh Tận Hiến Toàn Triệt, đóng góp sự phục vụ cho TIÊN TỔ NHÀ QUÊ trong mọi thân phận hèn mọn nhất, thấp thỏi nhất khi ĐẾN TRONG XÁC THỂ CON NGƯỜI trong các thế giới khác nhau mà HIỆN THỰC NHẤT LÀ ĐANG Ở CÕI THẾ GIAN DƯƠNG TRẦN chốn nơi này, TẠI ĐÂY, NGAY BÂY GIỜ, KIẾP NÀY với mọi thực trạng đang là!

LẦN NỮA, HÃY RẤT NÊN XEM THẬT KỸ LẠI phần dưới đây và chiêm ngẫm cho thật thậm thâm trong khả năng có thể hiện thời, qua đó mà CÓ ĐƯỢC NHỮNG QUYẾT ĐỊNH TỰ XÁC QUYẾT cho bản thân cũng như cho tất cả những gì thân thương nhất mà HOÀN TOÀN KHÔNG CHỈ, CHƯA BAO GIỜ LÀ GIƠI HẠN TRONG MỘT KIẾP, MỘT ĐỜI NGƯỜI, MỘT GIỚI HẠN BẤT KỲ nào hết cả!

Thông Điệp!
CHÂN LÝ HIỂN NHIÊN nói lên rằng:
Vĩnh hằng bất biến vô tận vô biên có nghĩa là, bất kể là gì, bất kể thế nào... thì thảy đều đời đời không bao giờ có chút đổi thay nào. Luôn bất di bất dịch, bất biến tuyệt đối!
Tình Thương của Tiên Tổ Nhà Quê, của Liệt Tổ Liệt Tông nơi Quê Hương Hằng Cổ dành cho hết thảy sinh linh hậu duệ trong khắp cùng hoàn vũ vô biên cũng hoàn toàn là như vậy, là trường sinh, trường tồn miên viễn, mãi mãi không bao giờ có chút đổi thay nào hết cả.

Chân Lý Hiển Nhiên cũng cho thấy Sự Thật Hiển Hiện rõ ràng chân xác tuyệt đối rằng: Cả Đại Hoàn Vũ Vô Biên luôn đời đời hằng mãi được vui thỏa trong Đại Điển Hồng Ân Tình Thương Vô Tận Vô Biên đó từ Tiên Tổ Nhà Quê và hết thảy sinh linh hậu duệ không nên, tuyệt nhiên không hề cần phải âu lo, bận tâm chi có chút vơi bớt, đổi thay nào hết cả!

Tuy nhiên, nếu như sinh linh hậu duệ mà cảm thấy đã thỏa mãn, cảm thấy là đủ rồi, tự động CÓ NHÃ Ý THANH CAO không muốn tiếp nhận Tình Thương vô biên bất tận từ Tổ Tiên, không muốn Nguồn Ân Điển Tình Thương Bất Tận của Tổ Tiên đi qua nữa, cảm thấy phiền, có sự không hài lòng... bất kỳ nào vì Tổ Tiên, từ Tổ Tiên... thì ngay tức khắc, Tổ Tiên cho thành toàn như nguyện và bất kỳ sinh linh cá thể nào cũng luôn được Tổ Tiên bảo đảm thành toàn đúng y như niệm ý, nguyện vọng cá nhân toàn triệt.

Đây là LUẬT TỰ DO Ý CHÍ BẤT KHẢ XÂM PHẠM hay còn được gọi bằng cách gọi khác là LUẬT TỰ GIÁC GIÁC THA, LUẬT TÌNH NGUYỆN. Là ĐẠO LUẬT VŨ TRỤ DO TIÊN TỔ NHÀ QUÊ QUY ĐỊNH và là LUẬT BẤT BIẾN VĨNH HẰNG.
Tri Thức hay còn gọi là Bể Học... cũng y như thế, được khẳng định tuyệt đối đều là CỦA TỔ TIÊN và TỪ TỔ TIÊN hết cả, luôn là NGUỒN ÂN ĐIỂN bao la bất tận không cùng, bảo đảm cung ứng vẹn toàn cho cả Đại Hoàn Vũ Vô Biên thoải mái dùng đời đời mà tuyệt nhiên không bao giờ có chút thay đổi, sút giảm, vơi đi, biến dị nào!

Cũng vậy, Thuốc - với mọi loại thuốc từ chữa trị đặc trị mọi tật bệnh, khổ đau, kiếp nạn... hay cũng như dạng thức dùng để ngăn chặn, chủng ngừa trước mọi sự nhiễm bệnh - LÀ NGUỒN ÂN ĐIỂN VÔ BIÊN chỉ riêng dành cho Người Có Bệnh, Kẻ Yếu Đuối, Người Cần Đến, CHÂN TÂM THỰC SỰ CẦN ĐẾN mà thôi. Với những ai khỏe mạnh, ai chân tâm thực sự không cần, ai đã trưởng thành, có thiện tâm, tự có nhã ý không cần nữa thì Tổ Tiên cũng luôn vui vẻ chiều lòng kẻ ấy mà ngưng dứt, CẮT ĐỨT NGAY LẬP TỨC mọi Hồng Ân Đại Điển bất kỳ nào. Tổ Tiên luôn không muốn có và không muốn nhìn thấy bất kỳ hậu duệ nào không vui, không hài lòng với Tổ Tiên và Tổ Tiên luôn thuận ý chiều theo tất cả, CHUẨN Y CHO NHƯ NGUYỆN, ngay lập tức, dứt khoát triệt để!

Một niệm BIẾT RỒI, ĐỦ RỒI, KHỎE RỒI... của con người nơi đây, vì cảm thấy đã đủ TRƯỞNG THÀNH RỒI, vì CẢM THẤY ĐÃ LỚN và MẶC NHIÊN TỰ NGUYỆN CÓ NHÃ Ý KHÔNG CÒN PHẢI CẦN TỚI TỔ TIÊN NHỌC LÒNG QUAN TÂM chi nữa... từ trong thâm tâm sâu thẳm bất kỳ ai đó nơi đây khởi lên trước Tổ Tiên, thì ngay lập tức cũng chính là sự tự phong bế, tự đóng sập cánh cửa với Tổ Tiên và đã ngay lập tức, bằng nhã ý tiết kiệm thanh cao thánh thiện của mình mà tự nguyện cắt đứt, chấm dứt Nguồn Ân Điển Vô Biên Vô Tận của Tổ Tiên tiếp tục đi qua!

Tất cả người nhà quê tự cổ chí kim và mãi mãi, vì đều là đến từ Bần Cố Hương, hiểu rất rõ về Tổ Tiên cho nên cũng tuyệt nhiên Tuân Thủ LUẬT LỆ TỰ NHIÊN VĨNH HẰNG mà Tiên Tổ Nhà Quê ĐÃ ĐỊNH RA, tuyệt nhiên cũng đi tới dứt khoát chấm dứt, từ chối mọi kết nối cùng NGƯỜI BIẾT, NGƯỜI ĐÃ KHỎE MẠNH RỒI với ý niệm thâm sâu kiên định ý chí KHÔNG MÀNG, KHÔNG MUỐN PHIỀN TỚI TỔ TIÊN vì TỰ CÁ NHÂN ẤY NHẬN THẤY ĐÃ ĐỦ TRƯỞNG THÀNH RỒI, ĐỦ KHÔN LỚN, ĐỦ LÔNG ĐỦ CÁNH RỒI và KHÔNG CẦN TỚI TỔ TIÊN NHỌC LÒNG QUAN TÂM CHĂM SÓC BẢO BAN cũng như BẢO VỆ nữa rồi!

Sự thật, ngay đến với cả Tiên Tổ Nhà Quê Vô Biên Bất Tận mà con người nơi đây còn không cần, không chân tâm hướng về vì TỰ NHẬN THẤY ĐÃ BIẾT, ĐÃ KHỎE MẠNH, ĐÃ TRƯỞNG THÀNH, ĐÃ ĐẦY ĐỦ HẾT, ĐÃ HÀI LÒNG MÃN NGUYỆN VỚI ĐỜI SỐNG NƠI ĐÂY RỒI thì những người nhà quê bé mọn, vốn cũng chỉ là kẻ hầu người hạ, là tôi tớ của Liệt Tổ Liệt Tông, từ nơi Chốn Quê Hương Hằng Cổ được Tiên Tổ Nhà Quê sai phái tới đây thì làm sao có thể có chút giá trị nào với nơi đây được chứ!

Từ nay, HÃY LÀM TẤT CẢ ĐỂ TỔ TIÊN THA THỨ nếu như muốn VỀ LẠI BẦN CỐ HƯƠNG!

Những người nhà quê luôn rặt chỉ là những kẻ quê mùa cục mịch, được Lệnh Tổ Tiên sai phái đến đây mà thôi!

Tổ Tiên tha thứ, chấp nhận, tự khắc có huyền cơ khải thị. Còn bằng chưa hay là không, thì bất kể người nhà quê từ Bần Cố Hương nào tới đây, cũng tuyệt đối phải chào thua mà thôi!

Từ Bần Cố Hương!

- - -

Những dòng này được viết trong thời không thực tại khổ đau chung cuộc, hầu nguyện vì đại chúng những ai thấy nghe thọ cảm thấu nhận khổ đế vô thường mà diễn nghĩa. Như vậy tôi mơ, một giấc dài vô tận đau thương về khát vọng Vĩnh Hằng.

Khi con người sống trong Tình Yêu Tuyệt Đối Vô Điều Kiện. Xác thân người là cây thập tự neo giữ hồn thiêng vào dục vọng trần thế.

Vì đâu tổ nghiệp sinh tông là tội lỗi tích lần, nhân lên chia mãi, vô tận không nguôi?

Vì đâu yêu thương là khổ sai, là chứa chan ngập tràn nhầy nhụa nhây nhớt ái ân dâm dầm mưa vũ khát khát mê mê sảng sảng chát chát chúa chúa thét gào?

Vì đâu dục là động, là luân, là hồi, là si, là ngã, là đau, là khổ?

Bởi tôi người ta, muốn tất cả ngoài Vĩnh Hằng Chí Kính.

Ôi chỉ mong một điều duy nhất tột độ kiếp người, là Tĩnh Lặng Tình Yêu một điều  xứng đáng.

Ôi thập tự, điều gì xứng đáng trong cõi đời này ngoài Khổ Đau?

Xác Hồn này đã chịu Khổ Đau thống thiết khi tách biệt thất lạc khỏi Ngài. Rồi từ đó kinh hoàng nối tiếp kinh hoàng, tất thảy chỉ là biến cố đau thương cuộc cuộc.

Cực thịnh, cực suy, cực phúc, cực họa, cực tích, cực tàn!

Ôi lang thang linh hồn phiêu dạt, tôi đau cùng cực thế.

Tôi sống trên nền sai, chết trong mộ lầm, sinh trong bụng lạc.

Trinh Nguyên nào thánh hoá đời tôi, cho thăng kiếp hạ trần? Cho thôi tình thường mê tạo, yêu hoan?

Hỏa muội nào tam thiêu vọng nghiệp, để đời tôi vĩnh viễn hương hồn?

Cho không tôi, không đời, không lối.

Ôi hãy khóc, những linh hồn lạc lối, hãy khóc cùng tôi, những châu sa rơi vỡ rồi thôi, trở về ...

Trước sau mai hậu, khi tiện nghi đã mất, vật chất hư mòn, ngôn ngữ lãng quên, Dương Gian có nghe chăng những tiếng khóc lặng thinh đồng âm điệu hận...

Ái Bi Trần Điều

Thăng nốt hạ:
Hai người già ngồi trong nắng bụi, đọc cho nhau nghe điều gì ở sách, ông gật đầu ông tâm đắc, nhịp nhộn phố thành. Thư viện trẻ học, học hăng say. Cống và Hiến tiếp tục, cho đến niên sử còn.

Máy và móc cải tiến
Cập và nhật tương liên
Tiến và hoá miên triền

Bi Thương cùng Bình Lệ.

- - -

Baba Nam Kevalam

Ý thức vô hạn _ Ở khắp mọi nơi
Tình yêu vô hạn _ Ở khắp mọi nơi
Tôi yêu dấu nhất _ là chỉ MỘT (NGƯỜI).

The infinite Consciousness _ Is every where
The infinite Love _ Is every where
My most beloved _ Is the ONLY ONE.