Chương 76: Ngoại truyện về Huyền Trang
Thực ra cuộc nói chuyện của cha mẹ Trần Huy chỉ là tưởng tượng của cậu bé như một cách khuây khỏa. Lịch sử ghi về thân thế của Huyền Trang không rõ chính xác hay chăng, nhưng người ta tin rằng Huyền Trang mồ côi từ nhỏ. 5 tuổi mẹ mất, 10 tuổi cha qua đời. Huyền Trang và anh được họ hàng nuôi. Cả hai rủ nhau xuất gia đi tu để đỡ tốn cơm áo gia đình. Người anh đã được nhận còn Huyền Trang mới 13 tuổi, chưa đủ tuổi nên phải đợi. Chưa được xuất gia chính thức nhưng cũng được chiếu cố ở lại chùa làm chú tiểu.
Một thời gian sau chùa lại có đợt tuyển chọn thêm tăng nhân chính thức. Huyền Trang không được đưa vào danh sách tuyển chọn nhưng cứ đứng lấp ló ngoài cửa lắng nghe cả buổi dài.
...
Cuối đời nhà Tùy, đầu đời Đường, trong nước loạn lạc, đói kém, chết chóc và bất ổn nhiều vùng. Đô thành là một ổ đạo tặc, miền Hồ Nam thành cái hang mãnh thú, đường phố Lạc Dương đầy thây người. Huyền Trang bàn và anh qua Tứ Xuyên, ngụ ở chùa Không Túc trong 3 năm. Mấy năm sau, nội loạn đã chấm dứt, vua nhà Đường lên ngôi. Huyền Trang về Trường An, đất Phật đầu tiên ở Trung Hoa. Ở Trường An, Huyền Trang ráng đọc hết những kinh điển, tìm những Hòa thượng có danh tiếng để học đạo, nhưng ông nhận thấy rằng họ cũng thờ đức Thích Ca Mâu Ni mà giáo thuyết của họ khác nhau xa quá, có khi phản nhau nữa. Có bao nhiêu tông phái là có bấy nhiêu chủ trương, không biết đâu là đạo chính truyền.
Bản tính ham học, Huyền Trang lại đi học đạo ở khắp miền Bắc tại các vùng Xuyên Đông (đông đô tỉnh Tứ Xuyên), qua Hồ Bắc, Hà Nam, Sơn Đông, Hà Bắc. Càng tìm hiểu, ông càng nảy ra nhiều nghi vấn, đã không tin được các vị Hòa thượng mà đối chiếu ngay trong những bản dịch kinh Phật ông cũng thấy nhiều chỗ lờ mờ mâu thuẫn. Vậy muốn hiểu rõ đạo đến cùng thì chỉ còn một cách là đến nơi phát tích của đạo Phật ở Ấn Độ, để học tiếng Phạn rồi nghiên cứu tại chỗ những kinh điển cổ nhất. Ý muốn "Tây Du" phát sinh từ đó.
Huyền Trang cùng vài vị tăng nữa dâng biểu lên nhà vua xin phép qua Ấn Độ du học. Truyện Tây Du Ký chép rằng vua nhà Đường sai Tam Tạng đi thỉnh kinh, lại nhận làm ngự đệ, lấy họ Đường, có lẽ để nịnh triều đình mà quy công cho nhà vua. Sự thật thì khác hẳn; vua không những không cho phép đi mà còn cấm. Vì nước mới được bình trị, vương quyền chưa được vững, mà sự ngoại giao với các dân tộc ở phía Tây, tại Trung bộ Á Châu chưa được tốt đẹp.
Hai năm sau khi chờ đợi thời cơ, Huyền Trang lên đường vào năm 629 (28 tuổi). Nhân vì thiên tai Trường An bị mưa đá mất mùa, triều đình xuống chiếu cho phép dân ở kinh đô được đi nơi khác làm ăn. ông theo nhóm người di cư, tiến về phương Tây, mở đầu cuộc du hành vạn lý. 28 tuổi ra đi, đến năm 44 tuổi trở về.
- - -
Anh trai Huyền Trang nói:
Lúc 8 tuổi Huy thích nghi lễ, rất nghiêm cẩn, có lễ độ, không thích nhảy nhót. Lúc cha đem Hiếu kinh giảng cho nghe, đến đoạn ông Tăng Tử khi nghe giảng bèn đứng dậy nghe thầy giảng kinh. Thấy ông Tăng Tử như vậy, Huy đang ngồi nghe cha giảng cũng đứng dậy sửa áo. Cha ngạc nhiên hỏi tại sao đang ngồi nghe như vậy mà đứng dậy là nghĩa làm sao ? Ngài thưa: Tăng Tử nghe thầy giảng mà còn đứng nghiêm trang thay huống chi con nghe cha dạy mà con không đứng dậy là vô lễ.
Bẩm tính Huyền Trang nghiêm cẩn, ôn hòa, nên rất được nhiều người mến trọng. "Nước da hơi sạm, đôi mắt sáng. Vẻ mặt uy nghiêm, nét mặt tươi sáng rực rỡ. Giọng nói trong trẻo, rõ ràng, ngôn ngữ cao nhã, hoa mỹ, du dương, ai nghe cũng mê..." Nhìn ông, người ta nhận ngay thấy sự dung hòa của đạo Phật và đạo Khổng - lòng từ bi, đại độ của đạo Phật, đức lễ độ, sáng suốt của đạo Khổng. Ông vừa thương người, vừa cương quyết, trang nghiêm như đại giang, mà lại bình tĩnh, rực rỡ như bông sen nổi trên mặt nước".
Tánh tình rất nghiêm cẩn mà lại hòa nhã, khiêm tốn là điều rất hiếm. Thường thường người thông minh thì hay kiêu ngạo, kiêu căng khó khiêm tốn, nhu hòa. Người thông minh thì hay cãi. Nhưng ở Huyền Trang không có chuyện đó. Ấy là đức tính của một con người toàn diện, đạo đức, thông minh, cần cù, nghiêm cẩn, nhu hòa, nhẫn nhục ....
Sunday, September 17, 2023
C76: Ngoại truyện về Huyền Trang
Saturday, September 16, 2023
C75: Những Lời Tiên Tri (1)
Chương 75: Những Lời Tiên Tri (1)
Tiên tri là lời nói báo trước một điều gì chưa xảy đến vào lúc nói, nhưng đã xảy đến ngay trong trường tâm - ý - niệm của một hay nhiều người, tính từ thời điểm phát ra lời nói ấy rồi. Vậy tiên tri vốn là một chấp niệm, ám thị, chấp trước với mãnh lực lớn lao. Tùy thuộc vào niềm tin - tín chấp mãnh liệt đó, mà điều được tiên tri sẽ trở thành sự thực.
Ví như: Dân tộc nọ tin rằng sẽ có một Đấng Thiên Chúa làm Người, cứu thế gian bất công và ô trược này, đại diện cho Công Lý và Uy Quyền thưởng thiện phạt ác ... Tín chấp đó có từ thủa các nhà tiên tri giảng đạo chân chính bị hành hình cắt đôi người (tiên tri Ê Sai). Thế là khi có điều kiện thích hợp cho niềm tin nở hoa kết quả, Đấng được gọi là Con Thiên Chúa - Chúa Con ra đời và mang danh "Thiên Chúa ở cùng chúng ta" (Yeshua).
Ở nơi khác có lời về ngài Cầu Danh Bồ Tát - tiền thân của Bồ Tát Di Lặc. Không biết là lời xuất phát từ ai, với hàm ý nói kháy hay nói thật, là hư cấu hay kinh cú điển tích. Bao biến tấu âm sắc vùng miền cũng thêm vào vô số những chấp niệm, tín tâm muôn thủa. Ví như người phụ nữ trẻ, thì được gọi là thiếu nữ - người xưa thích nhấn mạnh vào sự ngây thơ, trong sáng, trinh bạch nên nói thành "trinh nữ". Khi phiên dịch ra tiếng nước ngoài, phiên qua dịch lại, chuẩn xác đến "sợi tóc chẻ làm đôi", thì trinh nữ là phụ nữ còn trinh, chưa chồng. Kinh thánh truyền đời đã ghi vậy là đúng vậy không có gì sai hết. Nguyên tắc nghề nghiệp chữ nghĩa . Bút sa gà chết, có phải là người cẩn thận tỉ mỉ lắm mới theo được. Chứ đâu phải ẩu thả bừa phứa mà nên đâu. Phiên âm, dịch sách không phải là đùa. Dịch giả có tâm thì yếu tố chính xác với nguyên bản lại càng là ưu tiên hàng đầu.
Đa phần tín đồ ngoan đạo khắp nơi trên thế giới từ đó đều phải hiểu theo nghĩa đen: Đức mẹ sinh ra Chúa Con là trinh nữ - đồng trinh chưa chồng mà sinh con, là bởi thụ thai "vô nhiễm", nhờ Đức Thánh Linh Thần Kỳ! Sự thật chứ không phải chuyện bịa. Vì Tinh Thần - Đấng Sáng Tạo - Thiên Chúa thì quyền năng vô song, muốn gì mà chẳng được, tạo ra cả thế giới vũ hoàn này còn được nữa là chuyện kia...
Việc phiên dịch đúng nghĩa - sát nghĩa với gốc, nhiều khi cũng là rào cản ngàn năm như thế. Để rồi hồng trần nơi nào đó có những "Ngọc Trinh" cũng được tôn thờ.
- - -
Chuyện về những lời tiên tri rất nhiều. Trong số đó có chuyện như sau:
Mẹ của Trần Huy vốn là người ham thích môn tử vi bói toán. Cậu bé ra đời đúng lúc ông thầy bói tới chơi nhà. Ông thầy bấm ngày giờ, xem nhật nguyệt trăng sao, năm vận năm hạn đủ cả... rồi phán như đinh đóng cột, sau này đứa bé sẽ làm nên nghiệp lớn, làm rạng rỡ tổ tông, trở thành một nhân vật xuất chúng vĩ đại. Thế là mẹ thuyết phục cha đặt tên cho bé là Huy trong nghĩa Huy Hoàng - Ánh Quang Huy, mong sao lời tiên báo sẽ trở thành sự thật. Sau lại nghĩ: Huy thôi chưa đủ, phải là Vĩ mới hay hơn nữa.
Cha thì không tin mấy trò bói toán tử vi tướng số. Là một trí thức phi thời mẫn cán, ông đặc biệt không muốn cổ xúy sự mê tín đang thịnh hành thời bấy giờ. Song vì chiều lòng vợ, ông cũng ừ à cho êm chuyện. Dù sao cái tên Huy cũng mang hàm ý tốt đẹp. Đến khi bà vợ một mực muốn đổi tên con thành Vĩ thì ông không hài lòng. Đã quen gọi suốt bấy lâu rồi, ông không quen nên vẫn gọi là Huy mãi. Cha thì gọi là Huy, mẹ thì khăng khăng gọi là Vĩ. Chỉ vì cái tên đến nỗi có lần chén bay đũa liệng. Về sau bà mẹ biết ý, chỉ gọi là Vĩ khi nào không có mặt cha mà thôi.
Một hôm, cha mẹ nói chuyện lúc đứa trẻ ra ngoài chơi:
Mẹ: Ông xem thằng Vĩ... à không Huy nhà mình chẳng có vẻ gì xuất chúng cả. Tôi sợ cứ kỳ vọng vào nó quá rồi lại phải thất vọng. Tôi thấy nó chẳng ra dáng gì cả. Con trai con đứa gì mà cứ đi nhẹ nói khẽ như đàn bà ấy. Chưa kể nó có vẻ bị trầm cảm tự kỷ. Chẳng thấy sôi nổi vui vẻ với chúng bạn, cũng ít khi ra ngoài chơi. Ông dạy nó thế nào mà thành ra thế? Hay là ông nghiêm khắc quá với con?!
Cha: Mẹ nó cứ nhiễu sự. Tôi đang đọc sách, bà không thấy à?
Mẹ: Tôi thấy rồi, ông thì chỉ suốt ngày sách sách sách, mà rốt cục có nên cơ đồ gì đâu?! (Nguýt dài)
Cha: (Đặt sách xuống thở dài và cau mày) Vừa nãy bà nói gì?
Mẹ: Tôi nói! Thằng Huy lớn rồi mà chẳng có khí chất nam tử hán đại trượng phu gì cả! Rồi sau này cũng chỉ được như cha nó thôi. Con hơn cha là nhà có phúc mà ... nhà ta không biết bao giờ mới phúc lộc để nở mày nở mặt đây ...
Cha: Nó mới mười mấy tuổi đầu mà...
Mẹ: Bằng tuổi nó, con nhà người ta đã ra dáng ra giàng rồi. Con nhà mình thì ăn không nên đọi nói không lên lời. Hỏi mười câu chưa nói một câu. Lơ nga lơ ngơ, chậm chậm chạp chạp như thế. Hàng ngày ông dạy nó đọc sách, tôi thấy có khi là nước đổ đầu vịt thôi.
Cha: Mẹ nó chẳng hiểu gì cả. "Đại trí nhược ngu, quân tử kiệm lời". "Quân tử thận ngôn ngữ hĩ, vô tiên kỷ nhi hậu nhân, trạch ngôn xuất chi, lệnh khẩu như nhĩ"(Cười lớn). Trang Tử sống đời ẩn dật, ông ấy cũng rất kiệm lời.
Lưu Hướng thời Tây Hán nói: “Quân tử thận ngôn ngữ hĩ, vô tiên kỷ nhi hậu nhân, trạch ngôn xuất chi, lệnh khẩu như nhĩ”. Ý nói rằng bậc quân tử cần phải chú ý thận trọng lời nói, ngôn từ, đừng chỉ biết nghĩ bản thân trước mà nghĩ người khác sau, lời nói xuất ngôn cần phải có lựa chọn. Có câu: “Một lời nói hoạch định giang sơn“, lời đã nói ra cũng như nước đổ khỏi cốc, muốn lấy lại là điều không thể.
Lão Tử nói: Quân tử đức dày nhưng dung mạo có vẻ khờ khạo. Bậc quân tử có đức lớn, trí huệ lớn, nhưng bề ngoài lại có vẻ ngốc nghếch. Biết kiệm lời và khiêm tốn, người như vậy thường sở hữu trí huệ uyên thâm.
Mẹ: Lại trích dẫn! Thôi tôi kệ con mọt sách nhà ông... Lát nữa nó về, ông bảo nó luyện võ để phát triển sức vóc đi. Lớp học võ trong vùng mới có thầy giỏi về dạy, người ta đua nhau đến rồi. Tôi tính gửi cả mấy đứa con nhà mình qua đó...
Cha: Rồi rồi ... võ thì võ. Văn võ song toàn!
Mẹ: Tứ chi nhiều khi quan trọng hơn đầu óc thật. Ông mà khỏe thì sửa lại cái cánh cửa bị mọt kia lâu rồi...
Cha: (Cau mày) Tôi không thay không phải là vì yếu, mà vì tiết kiệm. Mọt nhưng đã sơn sửa nhiều lần rồi, vẫn dùng tốt thì tại sao phải thay mới? Bà không nghe câu "Cần kiệm chi phù" bao giờ à?
Mẹ: ... Nó về đến cổng rồi! Thôi tôi đi xuống bếp nấu cơm đây.
Người đời không biết câu chuyện trên, chỉ biết về Trần Huy khi lời tiên tri đã trở thành sự thật. Trần Huy sau này là Đường Huyền Trang - Đường Tam Tạng. Lịch sử có nhiều ghi chép về nhân vật vĩ đại này. Liên quan đến ông, cũng có một lời tiên tri nữa trở thành sự thật. Chuyện được thêm thắt với mục đích dẫn dắt những thông điệp với nhiều hàm ý. Dựa trên sự thật lịch sử về cuộc Tây Du Thỉnh Kinh của ngài Huyền Trang.
Chuyện rằng: Khi Huyền Trang khổ cực gian nan độc hành sang Ấn Độ, đi qua rất nhiều làng mạc, gặp rất nhiều người, nhiều cảnh, ngủ nhờ nghỉ đậu, xin ăn từng bữa dọc đường. Cướp bóc trấn lột, đau yếu bệnh mỏi, không thiếu lần muốn bỏ cuộc quay về. Đi đến đâu cũng phải lặp lại một lời: "Bần Tăng từ Đông Thổ Đại Đường đi Tây Phương thỉnh kinh ... " đến nỗi ngủ mơ nói mớ cũng cùng một câu đó.
Lần ấy suýt chết vì thổ tả. Ăn phải thứ gì mà mặt xanh mày tái, cả ngày trời gắng gượng lắm mới tới được một thôn làng phía xa. May thay có người tiếp tế cứu bần. Vừa thều thào ca lại hết câu "... đi Tây Phương thỉnh kinh" thì quỵ xuống. Người trong nhà là một ông lão và một cô con gái. Cô gái này vừa gặp đã yêu nhà sư ngay từ cái nhìn đầu tiên.
Qua thời gian được họ chăm sóc và chữa trị hết lòng, Huyền Trang khỏe và quyết định ở lại một thời gian để giúp việc và học hỏi nhiều điều. Chuyện không có gì đáng kể nếu không có một sự cố xảy ra như thế này:
Một đêm nọ kẻ xấu xông vào nhà ông lão và đòi ông lão giao Huyền Trang cho bọn chúng xử lý. Một là chết, hai là quay về. Không được tiếp tục đi qua địa bàn của họ. Ông lão nhất quyết không đồng ý và chống trả đến cùng, ông lão bị chúng đánh tơi bời nhưng vẫn lao vào bảo vệ Huyền Trang. Bao nhiêu của cải trong nhà vốn chẳng đáng là bao đều bị lục tục xới nát. Đến khi chúng nhìn tới cô con gái thì tràn đầy dã tâm và dục vọng. Trong lúc giằng co nước sôi lửa bỏng như thế, Huyền Trang quả quyết xin được đi theo chúng bất kể thế nào. Còn ông lão thì thoi thóp một góc mà vẫn bật dậy nói: "Các vị xin hãy tha cho người này. Hãy đem con gái tôi đi!"
Huyền Trang khóc không nên lời, nước mắt lưng tròng nhìn cô gái, trái tim quặn thắt và thầm niệm Phật, Bồ Tát xin hiển linh cứu nguy ngay lúc bấy giờ. Không ngờ cô gái gật đầu và bình thản đi theo chúng. Trước khi đi còn ngoảnh lại nhìn Huyền Trang và mỉm cười một vẻ không lời nào tả siết.
Sự việc sau đó: Huyền Trang lên đường tiếp tục hành trình. Ông lão hứa sẽ bỏ thân này già yếu để lấy thân khác mà hỗ trợ Huyền Trang hoằng dương Phật Pháp. Huyền Trang sẽ đem Kinh Phật từ quê Phật trở về Đại Đường, vậy hẹn gặp Huyền Trang ở Đại Đường Đông Thổ. Khi ấy ông lão đã già lắm rồi, không thể đợi ngày Huyền Trang quay lại đây thăm nữa...
Còn về cô con gái của ông lão, một thiếu nữ rất lanh lợi và dịu dàng. Bằng cách nào đó mấy ngày sau cô trở về và bọn người kia không tới nữa cho đến khi Huyền Trang lên đường bình an vô sự. Không biết chuyện gì đã xảy ra với cô gái. Và Huyền Trang cũng không dám hỏi nửa lời, ánh mắt chỉ toàn áy náy day dứt đến đau lòng. Cô gái liên tục nói mọi chuyện ổn cả rồi song trái tim trĩu nẵng đến nỗi về sau người ta có Cảm Ứng Thiên mà viết nên lời ca và khúc nhạc: "Tình Nhi Nữ".
Nếu bạn đọc đặt mình vào hoàn cảnh và địa vị của Huyền Trang, nhập vai Huyền Trai trong câu chuyện trên, ắt sẽ cảm nhận vô số cung bậc của tình cảm con người.
Không biết lời tiên tri - lời hẹn của ông lão có thành sự thật? Hay chỉ là một ngẫu nhiên trùng hợp. 15 năm sau khi Huyền Trang trở về Đại Đường Đông Thổ có gặp một cậu bé tên là Khuy Cơ. Vừa gặp đã như tri âm tri kỷ. Linh cảm thiêng liêng ập tới. Suốt đêm Huyền Trang không cầm được nước mắt và lập tức xin vua ban chiếu chỉ xuất gia cho cậu bé nọ. Không dám chắc đó là ông lão khi xưa đầu thai chuyển kiếp, nhưng một nhân tài không thể không giúp sức cho đại cuộc.
Hơn nửa nếu không muốn nói là toàn bộ số kinh sách Huyền Trang mang về là lời lẽ Khuy Cơ dịch hoặc chỉnh dịch. Người đời sau ít quan tâm đến cái tên Khuy Cơ mà chỉ biết về Huyền Trang. Bởi vì mục đích của Khuy Cơ đã hoàn thành, lời tiên tri cũng đã ứng nghiệm, Khuy Cơ qua đời khi tuổi chưa mãn già. Bù lại một đời tâm nguyện Bồ Đề.