Thursday, March 24, 2022

To be or not to be in the world!

 Là hay Không là, trong thế giới! 

Đây là lời cảm thán về tấn bi kịch cuộc đời, phát đi từ lòng Tham vô thỉ. 

Tham điều gì cao thượng, liệu có phải cũng là một cái tham, khiến người ta không thoát khỏi "luân hồi" những ước vọng xa xưa...


Thế Gian này có hay không là Trời, Phật, Thiên Chúa? 

Sự Thiêng Liêng trong mỗi người, mỗi vật, mỗi điều trên Thế Gian này đâu phải hoàn toàn là giả ngụy. Thiêng Liêng dẫu vậy lại luôn có kẻ thù. Những dục vọng và say mê của đời sống thường nhật luôn "không đội trời chung" với cái Thiêng Liêng khiêm nhượng trong mỗi con người. Bởi muốn mở rộng ra mãi mãi linh hồn của tạo vật mà Thiêng Liêng ẩn mình không nói. 

Những sự kiện quan trọng luôn diễn ra để con người phân biệt rõ ràng, giữa Thực và Hư, giữa Sai và Đúng, giữa Thiện và Ác, giữa Thiêng Liêng và Vô Thường. Thiêng Liêng là điều không bao giờ mất, là Vĩnh Hằng Bất Diệt còn mãi dẫu thế giới đi đến tận cùng. Cuộc đời này như những phép thử của vô hạn những biến số, biến động và giao tranh. Ai giữ mình trung dung giữa đạo thiền dòng chảy, sẽ thấy đời là một giai nhân bốn mùa diễm lệ. Đời là người tình, người vợ, con thơ. Để rồi, vì Đời mà ta sinh, ta diệt.

Đáp án cho bài toán vô thường, luôn là nhiều lời giải. 

Nhưng lời giải nhanh nhất, ngắn nhất, chính là KHÔNG! 

Nếu như ... KHÔNG là điểm cân bằng, trung đạo, thì mọi thứ đều có thể bắt đầu lại, kể cả những tuyệt vọng, cùng đường nơi vực thẳm đau thương.


Dẫu sao, Thế Giới này vẫn là Hy Vọng Tột Cùng của Đấng Thiêng Liêng Vô Hạn Tâm Hồn. Người ta tin vào một Đấng Sẽ Đến, đại diện cho cõi Tinh Tinh Thần Thiêng Liêng ấy, để thay máu Con Người toàn bộ. Ngài sẽ đứng mũi chịu sào, là "Chúa các đạo binh" không vũ lực, đem hòa bình an vui đến nhân loại. Chỉ có Ngài mới giải quyết được Thế Gian vô cùng nhiều chuyện, hết thuốc chữa này! Ngài sẽ làm mới mọi việc để cứu rỗi ... 


Tôi chỉ nghĩ: Khổ cho Đấng Thần Linh làm Người!

Phục Vụ Thế Gian

 Mọi phán xét từ bên ngoài đều dẫn đến những hệ lụy nghiêm trọng trong sự hiểu biết toàn diện về tất cả. Vì lý do này, tính cá nhân được chân thực tồn tại để những góc nhìn, phương thức tiếp cận được xem xét một cách sâu sắc trong con mắt Vô Hạn. Tư Hữu chính là một hệ quả của cõi Vật Chất, và nó được trung hòa với cõi Tinh Thần bằng cách chuyển động quân bình giữa Có và Không - Sống và Chết. Khi một cá nhân nhận thấy được Tư Hữu vốn là Tạm Thời, cá nhân ấy hẳn đã qua nhiều lần Sinh Diệt. Khi nhận thức này trở nên trọn vẹn, người ta thường muốn "cho đi" hay "sẻ chia" bất kỳ điều gì mình có, cho những ai đang cần. Đây là kết quả tự nhiên không thể tránh của quá trình phát triển. Những Bậc Giác Ngộ khi xưa cũng như ngày nay, đều đi đến một điểm sẻ chia điều mà có thể gọi tắt là "Tình Thương Yêu" như thế. Chỉ khi yêu, người ta mới cho nhau tất cả! 

Cũng có khi vì ghét bỏ, hận thù mà con người cho nhau những điều gây đau khổ, ví như chiến tranh. Đây là một để tài chiếm trọn bao giấy mực của sử sách. Nếu như ai ai cũng bình tâm suy nghĩ về những mâu thuẫn xảy ra trong đời. Ai cũng nghĩ cho những gì người kia cảm nhận, thì sự hiểu biết nào đưa con người ta tới bãi chiến trường?


Sự hiểu biết về "CHỦ QUYỀN DÂN TỘC" - "LÒNG YÊU NƯỚC" !

Hãy khoan nói về sự việc chiến tranh, cái vốn là một trò chơi dưới bàn tay tàn bạo, dựa trên những sinh tử của một đời. 

Trước hết, niềm tự hào về những gì ta là, ta có, cái nghịch lý thay lại luôn thay đổi biến động không ngừng. Người ta tự hào về hoàn cảnh gia đình, nơi sinh ra lớn lên, hay thậm chí chỉ là về những điều bình dị như "lũy tre làng", "bờ đê xanh", "bóng cau với con thuyền", "một dòng sông" nào đó. Bởi vì tất cả đều đẹp, tất cả đều đáng quý, đáng tôn trọng tự hào! Dĩ nhiên là không ai không yêu tiếng mẹ đẻ, yêu văn hóa phong tục quê hương. Dân tộc nào mà không tự hào về lịch sử đã qua của riêng họ? Ai muốn lãng quên cái hào hùng hay bi tráng của thời gian khó xa xưa? Vậy nên con người ta được dạy từ khi sinh ra là phải ghi nhớ về LÒNG ÁI QUỐC. Nếu có ai đó ghét quốc gia mình đang sống quá, thì cũng không thể nào quay lưng với những gì cha ông đã dày công để lại. Niềm tự hào đưa người ta đi xa hơn, tới độ dám hy sinh cả tính mạng để "bảo vệ" những điều được cho là xuất phát từ lòng yêu nước. Khi nhận ra sự thật rằng, những hy sinh ấy là vô nghĩa, liệu những chiến sỹ kia có oán than, tiếc hận một thời?


Vì sao lại vô nghĩa?! Bảo vệ những thứ thuộc về chủ quyền dân tộc, để chúng không bao giờ mất đi, để tiếng nói ngôn lời của cha ông không đi vào quên lãng! Tại sao nói vô nghĩa?! Ôi thiêng liêng hằng sống, có oán than nào trách nổi Vô Tình?!

Sự vô nghĩa trong việc chiến đấu chống lại những xâm phạm về "chủ quyền" xưa nay không ít. Bởi vì, thực ra điều đã gọi là chủ quyền, thực sự thuộc về một ai đó, hay một dân tộc nào đó, thì vốn đã nằm sâu trong huyết mạch, không thể bị phai mờ. Tiếng nói, dẫu có lãng quên, tất cả những hình thức sinh hoạt dù có thay đổi, ngoại hình dù có pha trộn, làm sao có thể thay đổi điều mà người ta sinh ra đã là. Chính là cái bản chất thực sự của linh hồn, cách suy nghĩ được cấu thành từ tổng quan dòng chảy xã hội. Như thế, có gì là mất đi, có gì là bất di bất dịch, trong cái tư duy không ngừng cải biến, giao hòa. 


Nói về lịch sử của Việt Nam, 2000 năm phong kiến Hán thuộc. Thời kỳ xưa, Tần Thủy Hoàng sau khi thống nhất Trung Hoa đã gửi binh lính đi khai hoang mở đất phương Nam. Vùng kinh tế mới là "Giao Chỉ" đã được nhắm tới bởi địa hình tiềm năng của nó. Khi ấy nhiều vùng núi thuộc tỉnh Vân Nam Trung Quốc vẫn là một địa phận thuộc Giao Chỉ, ngày nay tiếng nói của họ cũng có âm vực giống với người miền bắc Việt Nam. Khi qua vùng núi non hiểm trở và đến vùng đồng bằng, thì binh lính Hán gặp gỡ Việt Tộc trong những cuộc chiến dai dẳng. Nhớ khi Tần Thủy Hoàng cho quân lính đi đến xứ rừng thiêng nước độc, ông đã gặp phải sự phản đối trong quân đội. Ông bèn dùng Mỹ Nhân Kế, chọn ra những cung phi sinh đẹp, tập hợp những giai nhân xuất sắc trong khắp nơi và gửi họ theo cùng binh lính đi phương Nam. Kế này quả nhiên diệu dụng, binh lính không phàn nàn thêm tiếng nào và hăm hở lên đường. Số những người Hán nam và nữ đó tới Giao Chỉ rồi ở lại hoàn toàn, để "đồng hóa" với người dân trong nước. Đây là một bước đi rất nhẫn nại của Tần Đế khi xưa. Tâm cơ và Tâm trí của người đời xưa như thế nào, thì người đời nay mới thực sự thấy rõ.


Phục vụ Thế Gian luôn là nhu cầu và nguyện vọng của tất thảy mọi người. 

"Thương người như thể thương thân", nào ai muốn giết chóc gây họa cho người, nếu không vì bắt buộc?! Người ta hoàn toàn có trí khôn và sức lực để làm những điều to lớn, vĩ đại. Nhưng lại quá ngu ngốc dại khờ đến nỗi đi giết nhau trên chiến trường tàn khốc, vì những điều vô nghĩa?! 

Năm 1914, Thế chiến thứ nhất diễn ra, trong đêm giáng sinh năm đó, trên bãi chiến trường, binh lính Đức và Anh đã làm hòa trong giây lát, cùng hát lên bài "Silent Night", chia sẻ với nhau những món đồ riêng, chơi bóng đá ... Câu chuyện cảm động có thật và đã được dựng lại thành phim, thay lời nói lên ước mơ hòa bình của con người bao đời.

Câu hỏi đặt ra là: Bởi nỗi sợ hãi sâu sa nào? Mà những người lính trẻ khi đó, dù biết rằng cuộc chiến ấy là vô nghĩa, vẫn không ngừng ra trận? Tại sao không có một người dám đứng lên, họp tất cả những người lính còn lại, để đi tới tóm cổ mấy lão chỉ huy đầu sạn, thay vì bắn giết nhau vô nghĩa. Tại sao bao nhiêu người trai khỏe với trang vũ khí đẩy đủ, lại sợ hãi và răm rắp nghe lời những kẻ máu lạnh già nua? Abe nói: Nếu bạn trả lời được câu hỏi đó, bạn có thể giải quyết mọi vấn đề còn lại trên đời này. Không thể trả lời, phải chăng vì tình hình khi đó, nó là như thế. Khi Abe bằng tuổi đó, ông còn chưa "biết đọc", là thanh niên ngốc chẳng biết gì trên đời ngoài ăn với ngủ, nhìn thấy súng đạn máu me, ai chẳng sợ ?!


Giáo dục đưa con người ta vào những tham lòng ẩn khuất. Dạy trẻ thơ về sự hào hùng của chiến tranh. Giáo viên nào phải chịu danh "phản động" khi đưa ra những sự thật về đời? Tất cả bởi sự sợ hãi mất đi quyền lực vị kỷ của một tầng lớp cai trị nào. Thế gian sẽ về đâu, khi điêu linh khóc hận về lời gian dối?


Sản Phẩm Cộng Đồng

 Chủ nghĩa cộng sản xưa nay vẫn mang tiếng xấu bởi sự thất bại trong viêc đưa mô hình xã hội sống lý tưởng vào thực tế. Điều gì khiến người ta sẵn sàng sẻ chia tất cả những thành quả lao động khó nhọc của bản thân cho những người khác, bất kể họ là ai? 

Trên thực tế, mô hình sống này có lẽ xuất phát từ thời kỳ nguyên thủy, khi người ta buộc phải hợp tác và chia sẻ công cụ để xây dựng một xã hội sơ khai từ những điều cơ bản. Sau quá trình phát triển lâu dài, con người ngày càng tích lũy gặt hái được nhiều sản phẩm và có sự phân chia khác nhau giữa người này với người kia trong một cộng đồng. Người làm nhiều, người làm ít, người chăm chỉ, người biếng lười, người lao động chân tay, người lao động trí óc, người giỏi quản lý, người thích tiêu dùng. Sự phân chia ngày càng đa dạng trên mọi lĩnh vực của đời sống. Điều này dẫn đến sự thay đổi trong cách mà con người suy nghĩ và hành động. Tư Bản (Tư Sản) được hình thành như một kết quả tự nhiên.

Tính Tư Hữu (sở hữu cá nhân) vốn là đặc trưng cơ bản để nhận dạng và quản lý bất kể điều gì theo cách tốt nhất. Đặc tính và tác dụng của cái tôi (ego) là vô cùng huyền nhiệm, nó vốn là những phân mảnh phong phú mà đồng dạng của Một Điều Vô Hạn, mà con người thường gọi là Thượng Đế - Ông Trời! Tính Tư Hữu mang lại trách nhiệm cũng như ràng buộc đối với những gì mà một cá nhân "tạm" sở hữu, trong một thế giới thường được coi là "cõi tạm" bởi những nhà thần học, nhà tu hành, giới đạo sĩ, giới tinh thần. Còn đối với thế giới tự nhiên, động vật cũng có tư hữu, điển hình là việc "phân chia lãnh thổ". Trong xã hội nhân loại, từng cá nhân (individual) đều có nhu cầu cơ bản là được tôn trọng sự "riêng tư" (privacy) bởi những lý do bất khả xâm phạm trong tín ngưỡng - niềm tin của riêng mình. Đặc tính "của - sở hữu cách" (possession) này không hề là điều bất thường, phi lý trong bất kỳ ai. Bởi chăng chính Thiên Chúa trong Cơ Đốc Giáo còn muốn con người chỉ yêu một mình Ngài? Không ai có thể hiểu một người bằng chính người đó. 

Khi Tư Bản trở nên quá độ, người ta hướng tới một điều tốt đẹp hơn, điều đã ẩn dấu từ lúc khởi đầu. Sự phân chia tầng lớp giàu nghèo, những bất công trong đời sống, những tham vọng tột cùng đã khiến con người đi ngày một xa khỏi đích đến Vĩnh Diệu, dẫu ai ai cũng cố gắng mơ ước, hướng tới điều mình cho là "tốt đẹp" hơn, chí ít là từ trong vô thức. Nhận ra được sự thật đó là một chuyện, làm sao để thay đổi là một câu hỏi khác. Kể từ khi học thuyết Cộng Sản (Communism) "ra đời", sự tranh cãi ngày một tăng giữa tầng lớp dân chúng cũng như tầng lớp lãnh đạo. Ở Mexico vào giữa thế kỷ 19, chính quyền đã thử nghiệm hình thức "Hợp Tác Xã" ở một địa phương nhỏ. Họ chia đều cho 20 hộ gia đình tự quản lý chăm sóc những mẫu đất để canh tác và chăn nuôi, đến cuối mỗi năm sản lượng thu được lại chia đều cho 20 hộ lớn nhỏ tùy theo nhu cầu. Vấn đề nảy sinh là, trong 20 hộ đó, có một hộ làm rất tốt. Người chủ ấy rất chăm chỉ và số sản phẩm tạo ra so với những hộ còn lại hơn gấp nhiều lần. Những hộ kia ban đầu rất vui vẻ, cũng tự nhủ năm sau gia đình mình sẽ cố gắng hơn để không thua kém. Nhưng mỗi năm sự việc vẫn lặp lại, người chủ hộ chăm chỉ thì ngày một phát triển, còn những hộ không chăm chỉ thì chẳng có hoa màu hay thu hoạch gì khả quan. Họ trở nên ganh ghét và tiêu cực, tìm cách nói xấu người kia, viện đủ lý do để gây sự chia rẽ lẫn nhau. Người chủ nọ rất buồn lòng và cố gắng tìm cách làm gương thay đổi. Anh làm rào chăn thả gia súc cho hàng xóm để lấy phân bón, làm ao thả cá lấy nước cho gia súc uống, đào giếng cho sinh hoạt chung của cả làng,... Làm rất nhiều việc tốt song vẫn không khắc phục được tình trạng "cha chung không ai khóc". Những hộ gia đình kia ngày càng ỷ lại và thường đùn đẩy mọi việc cho vài người có trách nhiệm nhất. Số còn lại chỉ giúp sức khi đến mùa thu hoạch. Anh chủ chăm chỉ đâm ra chán nản vô vọng. Anh nói với chính quyền rằng hình thức cộng sản này là không thể chấp nhận được, khi những người hàng xóm lười biếng ích kỷ chỉ sống dựa trên thành quả của người khác mà không đồng hành xây dựng. Chính quyền đưa ra nhiều luật mới và yêu cầu các hộ phải thay đổi. Luật được ban hành và các hình thức "phạt" cũng ra tăng, nhưng sự thực về bản chất không thay đổi. Người làm nhiều cũng như người làm ít, đều trở nên vô cùng ngao ngán. Người làm ít bất mãn vì việc bị phạt, và người làm nhiều mệt mỏi vì việc vô tâm của người kia. Đến một ngày, người chăm chỉ đi đến quyết định Thu Mua. Sau quá trình lao động nhiều năm gia đình anh đã để ra được kha khá tiền tiết kiệm, anh đi đến cơ quan quản lý và làm việc với lãnh đạo, xin mua lại những mẫu đất của các hộ kia. Đồng thời anh cũng thương lượng với các hộ hàng xóm, đưa cho họ số tiền hợp lý với từng hộ, để họ tùy ý lựa chọn dọn đi chỗ khác hay ở lại. Không lâu sau anh đã mua được cả một vùng rộng, và trở thành người chủ đất lớn. Những người ở lại làm thuê cho anh. Vì làm thuê nên họ có trách nhiệm hơn vì anh rất nghiêm khắc, nếu làm thiếu sản phẩm sẽ bị trừ lương. Câu chuyện khép lại đem theo toàn bộ mục đích ban đầu của chính quyền. 

Sự thất bại trong việc "Hợp Tác Xã" (Cộng Sản) nằm ở điểm mấu chốt là Ý Thức Con Người. Bởi con người có bản năng tập trung vào những điều được coi là Tư Hữu. Lợi ích cá nhân thường được đặt trước tất cả. Nếu điều gì đó không "thuộc về" bản thân mình thì tại sao người ta lại phải quá quan tâm, nỗ lực hết sức vì? Từ đó "Chủ Nghĩa Cộng Sản" trở thành một điều lý tưởng hóa viễn vông mà những người có quan tâm tới nó, mặc định là bất khả thi, chỉ tồn tại ở một thế giới tốt đẹp xa xôi nào đó. 

Rồi khi Cộng Sản rơi vào tay của những nhà cầm quyền độc tài, câu chuyện sẽ không hề đơn giản. Nhân chi sơ tính bổn thiện, nhưng khi lợi ích và quyền lực đến trước mắt, mấy ai có thể khước từ, mấy ai có thể làm tốt, thậm chí nhiều khi phải thốt lên rằng "Làm người tốt sao mà khó quá!" bởi hệ thống chính sự rắc rối và đan xen trùng trùng điệp điệp những yếu tố phụ thuộc, còn gọi là Nhân Duyên. 

Trong thời đương đại, chính phủ các quốc gia trên thế giới đang hợp tác hướng tới một TRẬT TỰ MỚI - Trật Tự Thế Giới Mới theo hình thức CỘNG SẢN. Trở lại câu chuyện và lời hỏi như trên, liệu rằng một thế giới tốt đẹp sẽ xuất hiện, khi người ta hoàn toàn vô kỷ? Liệu rằng chính quyền sẽ thực sự "làm tốt" điều mà họ hướng tới? Liệu những vấn đề được coi là phức tạp đan xen kia, sẽ đi đến một lời giải chính xác?


Thuyết âm mưu nói rằng:

Chính phủ một thế giới sẽ nắm quyền trong toàn bộ sinh hoạt đời sống của nhân loại.

Số nhân loại còn lại (sau khi đã chết rất nhiều) sẽ không sở hữu bất kỳ thứ gì. 

Tín ngưỡng của nhân loại mới sẽ là MỘT TÍN NGƯỠNG - KHÔNG TÔN GIÁO. (New Age). 

...

Những điều này, xét theo khía cạnh lý tưởng mà nói, thì quả thật là tốt đẹp. Nhưng có thực sự như thế không, khi những tiêu chuẩn đạo đức mới sẽ làm thay đổi hoàn toàn chuẩn mực xã hội cũ? Vô số những nguy cơ và thách thức, cơ hội và hoại diệt cứ như thế song hành. 

Nếu biết trước được tương lai, hay lần tìm về quá khứ, ta bỗng thấy Đời phải chăng là một cơn say bởi chất men Vô Thường, trong Lễ Hội Đời luôn luôn rạo rực, có thể nào dửng dưng vô tình ...