Thursday, August 11, 2022

TẬP 6: SỰ SANH HÓA CÁC GIỐNG DÂN TRÊN DÃY ÐỊA CẦU

TẬP 6: SỰ SANH HÓA CÁC GIỐNG DÂN TRÊN DÃY ÐỊA CẦU
Bạch Liên



ÐỊNH NGHĨA CHỮ 'HOME' DỊCH LÀ CON NGƯỜI

Tôi tưởng trước khi học hỏi các giống dân chúng ta nên biết trong Ðạo Ðức định nghĩa chữ `HOME' dịch ra Ià 'CON NGƯỜI' như thế nào.

Theo Huyền Bí Học, 'HOME' – 'NGƯỜI' Ià một Thực thể trong đó Tinh Thần hết sức cao siêu phối hợp với vật chất hết sức thấp thỏi nhờ cái Trí Iàm trung gian và do đó một vị Thượng Ðế hữu hình hiện ra, Ngài sẽ tiến lên từ chiến thắng nầy tới chiến thắng nọ. Một tương Iai rực rỡ vô tận vô biên đương chờ đợi Ngài.

Con Người có thể lấy cả triệu hình hài khác nhau chứ không phải có chỉ một hình hài như chúng ta bây giờ đây. Bởi định nghĩa chữ `HOME' như thế cho nên có người đọc sách Huyền Bí Học thấy nói: Thiên Thần phải qua trạng thái HOME thì lấy làm lạ, tưởng rằng Thiên Thần phải đầu thai Iàm người. Nhưng sự thật không phải như thế đâu.

Câu đó có nghĩa Ià Thiên Thần phải lấy một thân hình, cũng như chúng ta Ià Chơn Thần phải lấy một thân hình gọi là Thể Xác vậy. Thân hình của các vị Thiên Thần không giống như Thể xác của chúng ta và Thiên Thần là Thiên Thần còn Con Người Ià Con Người, hai loài khác nhau rất xa; hai đường tiến hóa tuy không giống nhau song cũng đồng một mục đích chung Ià: Dầu Con Người hay là Thiên Thần, cả hai đều tiến lên tới địa vị Thượng Ðế.


BA PHỔ HỆ

Vì mấy lẽ trên đây nên muốn thật hiểu Con Người thì phải biết ba Phổ Hệ:

1) PHỔ HỆ TINH THẦN: Ấy là những Chơn Thần (Monads).

2) PHỔ HỆ TRÍ TUỆ: Ấy là những vị Thiên Tôn gọi là Manasaputra (Ma na sa bu tra) giúp Con Người mở mang trí tuệ. Manasaputra có nghĩa Ià: Con của Trí Tuệ. Các Ngài Ià Ðức Ngọc Ðế, ba vị Ðộc Giác Phật và các vị Ðại Thánh ở bầu Kim Tinh xuống. (Xin xem đoạn: Quần Tiên Hội và Sự cai trị Thế gian).

3) PHỔ HỆ VẬT CHẤT: Ấy là những vị Thiên Tôn thành chánh quả hồi còn ở Dãy Nguyệt Tinh gọi là Barishad Pitris (Ba rít sa Bi trích). Pitris có nghĩa Ià Tổ Tiên. (Xin xem đoạn: Nhơn vật Dãy Nguyệt Tinh).

Bây giờ xin đề cập đến Bảy Giống dân Chánh.
 
BẢY GIỐNG DÂN CHÁNH

Vấn – Ngày nay trên Ðịa cầu chúng ta thấy những người Da đen, Da đỏ, Da Vàng, Da trắng. Còn những giống dân nào khác nữa chăng?

Ðáp– Huyền Bí Học dạy rằng: Trên Ðịa cầu có bảy Giống dân chính (Race Mère). Mỗi Giống dân chính sanh ra bảy Giống dân phụ (Sous Race) hay là bảy Nhánh. Mỗi Giống dân phụ sanh ra bảy Chi nhỏ nữa. Ðây Ià chưa kể những giống lai Nhánh nầy với Nhánh kia.

Những người Da đen thuộc Giống dân thứ Ba là Giống Lê-mu-ri-den (Lémuriens).

Những người Da đỏ, Da vàng thuộc Giống dân thứ Tư Ià Giống Ắt-Iăn (AtIantes).

Còn những người Da trắng bây giờ thuộc về Nhánh thứ Tư và Nhánh thứ Năm của Giống dân thứ Năm Ià Giống A-ri-den (Aryen).

Vấn – Còn Giống dân thứ Nhất, thứ Nhì, thứ Sáu và thứ Bảy ở đâu?

Ðáp – Giống dân thứ Nhất, thứ Nhì đã tàn Iâu rồi. Giống dân thứ Sáu, trăm năm nữa mới bắt đầu sanh ra ở tại Ca-li-phot-ni (Californie) bên Mỹ quốc. Còn Giống dân thứ Bảy không biết bao lâu nữa mới sanh ra.

BẢY CHÂU THẾ GIỚI

Luật Trời định rằng khi mỗi Giống dân Chánh mới sanh ra thì có một Châu Thế giới nổi Iên đặng chứa đựng nó.
Vì thế có Bảy Châu Thế giới.
Châu thứ Nhất chứa đựng Giống dân thứ Nhất.
Châu thứ Nhì chứa đựng Giống dân thứ Nhì.
Châu thứ Ba chứa đựng Giống dân thứ Ba.
Cứ tiếp tục như thế cho tới Châu thứ Bảy.

Mặt Ðịa cầu đã bị tang thương biến đổi nhiều lần rồi. Hễ Châu nầy trầm xuống biển thì Châu khác nổi lên thay thế nó. Mỗi biến cố xảy ra đều do một nguyên nhân sâu xa mà người đời khó đoán đúng được.

1.1 GIỐNG DÂN THỨ NHỨT

Vấn – Giống dân thứ Nhất có giống như con người bây giờ không? Họ có giác quan không? Cách sanh sản thế nào?

Ðáp - Không. Họ không có xương thịt như bây giờ.

THÂN HÌNH: Thân hình họ làm bằng chất dĩ thái đặc lại từa tựa như nguyên sanh chất (Protiste). Nói cho đúng, ấy là những cái phách do những vị Siêu phàm Parishads Pitris ở Nguyệt tinh sanh ra trong lúc tham thiền.
Người ta gọi họ là Giống Tự Sanh (Auto-Générés), họ là những Bóng (Ombres – Les Chhlâyas). Họ đi, đứng, bay nhảy đều được, song chưa có tâm thức như chúng ta đây.
GIÁC QUAN: Họ chỉ có một quan hoạt động mà thôi: Ấy là Thính giác ứng đáp với Lửa.
CÁCH SANH SẢN: Không có nam nữ. Khi sanh sản thì có hai cách:

1) Hoặc thân mình nứt ra hai phần bằng nhau, sau một phần lớn một phần nhỏ. Cho nên con cháu vóc vạc không bằng ông bà, cha mẹ.
2) Hoặc thân mình mọc những mầm, mỗi mầm rớt ra thành một người.

NHỮNG NHÁNH NHÓC: Vẫn có bảy Nhánh song không thể phân biệt nhánh nầy với Nhánh kia.

1.2  CHÂU THỨ NHỨT

Vấn – Châu thứ Nhất ở đâu?

Ðáp – Một khoảnh đất đầu tiên nổi lên ở giữa biển cả sóng bủa ba đào, hơi nóng còn bay lên ngui ngút. Ấy Ià chót núi Tu Di (Pie du Mont Méru) cái mũi của Bắc cực. Bắc cực đây không phải là Bắc cực theo nghĩa địa lý của ta bây giờ. Ðó Ià Bắc cực Tinh thần ở Bắc Á châu nhưng không biết đúng Ià chỗ nào vì điều nầy không có tiết lộ ra.

Chung quanh núi Tu Di nổi lên bảy Mũi Ðất hay là bảy Hải Giác rồi cả thảy dính liền với nhau và làm ra Châu thứ nhất, gọi Ià Châu Ðịa linh Bất Diệt (Terre Sacrée ImpérissabIe) để chứa đựng Giống dân thứ Nhất.

Thánh kinh gọi Châu thứ Nhất là Shvetadvipa (Île Blanche), Bồng Lai đảo, phần đất của các vị Thiên Thần, người ta cũng gọi Châu nầy Ià Pushkara (Bút Ca ra) nhưng thật sự Pushkara là tên của Châu thứ Bảy.


2.1 GIỐNG DÂN THỨ NHÌ

Vấn - Giống dân thứ Nhì ra sao?

Ðáp - THÂN HÌNH: Ðúng ngày giờ thì các Tiểu Thần, mình gọi Ià Ngũ hành Iấy chất đặc đắp ngoài thân mình của Giống dân thứ Nhất không khác nào bao một lớp vảy. Xác thân Giống dân thứ Nhất bây giờ ở vào phía trong và thành ra cái phách của Giống dân thứ Nhì.
Thân hình của Giống dân thứ Nhì có tùng có tụi, giống nửa người nửa thú, da vàng màu hoàng kim.

GIÁC QUAN: Họ dùng được hai quan: Thính giác và Xúc giác, ứng đáp với Hỏa và Phong.
CÁCH SANH SẢN: Có hai cách sanh sản:

Cách thứ nhất: Cũng nứt thân mình ra làm hai hoặc mọc những mầm như Giống dân thứ Nhất. Chưa có nam nữ.
Cách thứ nhì: Thân mình càng ngày càng trở nên cứng vì lớp vỏ ở ngoài càng ngày càng đặc. Không còn nứt thân mình ra Iàm hai được nữa.
Thân hình họ tiết ra một chất nhớt như Giọt Mồ Hôi màu trắng đục rồi nổi lên thành một cục, càng ngày càng lớn càng cứng và có hình dạng. Mỗi cục rớt ra thành một người.

Người ta gọi họ là Giống dân do Mồ Hôi sanh ra (Nés de la sueur). Họ bán Nam, bán Nữ nhưng hai bộ phận sanh dục mới tượng chớ chưa thành hình rõ ràng. Có lẽ bây giờ người ta gọi họ là Bộ Nấp.

Những Nhánh nhóc: Cũng không thể phân biệt nhánh này với Nhánh kia.

2.2 CHÂU THỨ NHÌ

Châu thứ Nhì nổi Iên đặng chứa đựng Giống dân thứ Nhì.

Nó hình móng ngựa, choán lấy phía Bắc Á châu bây giờ, nối liền cù lao Groenland và Kamtchatka. Nó gồm cù lao Spitzberg, một phần Na Uy, Thụy Ðiển và Anh Cát Lợi (Anh quốc).
Biển Baffin xưa kia Ià đất liền. Phía Nam Ià mênh mông đại hải. Khí hậu nhiệt đới, kỳ hoa dị thảo, đồng bái xanh tươi chạy đến tận chơn trời. Người ta gọi Châu thứ Nhì là Cực Lạc Thanh Châu (Continent hyberboréen) hay là Plaska.

Vấn - Nếu khí hậu miền nhiệt đới thì tại sao bây giờ Bắc cực lạnh lẽo?

Ðáp - Ấy tại Giống dân thứ Ba sanh ra được ít lâu thì cốt trái đất nghiêng như ngày nay, khiến cho Bắc cực trở nên lạnh lẽo.
Sau đây Ià một bằng chứng cụ thể về khí hậu của Bắc cực, trích trong Tạp chí THỜI NAY, số 93 ngày 01-8-1963.


HÃY PHÁ BỎ NHỮNG THÀNH KIẾN SAI LẦM

“. . . Cũng về thời tiết, phần đông dân chúng đều nghĩ rằng Bắc cực là một vùng lạnh lẽo nhất và tuyết rơi quanh năm, thành kiến nầy có lẽ dựa vào sự kiện một quốc gia càng xa xích đạo chừng nào thì càng lạnh chừng nấy. Nhưng thật ra Bắc cực là một miền khô ráo, không lạnh lắm và ít có tuyết rơi, số tuyết rơi ở Virginie nhiều hơn ở Bắc cực, và Montana (Huê kỳ) lạnh hơn miền Bắc cực 6 độ, cũng như ở Reykjavik, một thành phố cạnh Bắc băng dương nhiệt độ cao hơn Nữu ước (New York).

Bắc cực không phải là một vùng quanh năm u tối. Vì quanh năm có trăng và ánh trăng phản chiếu trên những tảng đá có thể giúp những nhà thám hiểm đọc sách dễ dàng, cũng không phải là một vùng vắng vẻ không sanh vật, vào mùa hè có khi nóng đến 35 độ, không kém gì Sài gòn và từng đàn bò, nai sống được nhờ ở những cánh đồng mênh mông đầy hoa cỏ. Các quốc gia như Anh, Pháp, Mỹ, Nhật, Nga đều có đặt nhiều căn cứ khảo cứu khoa học và quân sự, các nhà bác học đã trồng được trái su, khoai tây và cả hoa hồng, hoa lan và theo họ, ở dưới nước có nhiều cá và các giống vật khác ở miền nhiệt đới”.

Bao nhiêu đây cũng đủ để chứng minh rằng Huyền bí học không hề nói sai, tuy nhiên có những điều mà người ta còn nghi ngờ là chỉ vì tại người ta chưa tìm tới đó thôi.


3.1 GIỐNG DÂN THỨ BA

Giống dân thứ Ba là Giống dân Lémurien (Lê mu ri den).

THÂN HÌNH: Nói một cách tổng quát, Giống dân Lémurien thân hình cao lớn, vạm vỡ, trán trợt, hàm rộng, sức mạnh phi thường. Họ thường chiến đấu và hạ những con thú khổng lồ hồi đời tối thượng cổ gọi là:
- Ptérodactyle (Dực Thủ Long)
- Mégalosaure (Giống Ban Long)
- Ichtyosaure (Ngư Long) vân vân . . .

GIÁC QUAN: Họ dùng được ba giác quan: Thính giác, Xúc giác và Thị giác ứng đáp với Hỏa, Phong và Thủy.
Cơ quan thị giác của họ không phải là hai con mắt như mình. Ban sơ họ chỉ có một con mắt ở chính giữa trán. Ðời sau gọi họ là Xi lốp (Cyclopes) và con mắt ở chính giữa trán là con mắt thứ ba. Sau hai con mắt mới lần lần mọc ra hai bên, còn con mắt ở chính giữa càng ngày càng thụt vô trong và bây giờ thành ra là hạch óc (Tùng quả tuyến – Glande pinéale).

Tuy nhiên, tới khi Nhánh thứ Bảy sanh ra, họ mới bắt đầu tập xử dụng hai con mắt. Trước đó họ chỉ xem với con mắt chính giữa mà thôi.
TIẾNG NÓI : Hai Nhánh đầu, Nhánh thứ Nhất và Nhánh thứ Nhì chỉ biết hét la khi vui mừng, buồn bực, đau đớn hay yêu thương. Qua Nhánh thứ Ba, tiếng nói mới thành ra độc âm.

CÁCH SANH SẢN: Có hai cách: Noãn sanh và Thai sanh. Chia làm ba giai đoạn:

NOÃN SANH

GIAI ÐOẠN THỨ NHẤT

1/- Nhánh thứ Nhất : Cũng do những giọt mồ hôi sanh ra. Mới khởi sự thấy bán nam bán nữ.
2/- Nhánh thứ Nhì : Những giọt mồ hôi này trở nên cứng lần và giống như cái trứng. Con người thành hình trong trứng. Trứng bể, con người ra ngoài thì thấy bán nam bán nữ rõ rệt.

GIAI ÐOẠN THỨ NHÌ

3/- Qua Nhánh thứ Ba cũng gọi là Giống dân phụ thứ Ba. Con người cũng vẫn ở trong trứng sanh ra, song cái vỏ của cái trứng càng ngày càng mỏng. Cái trứng bể, con người ra ngoài, thân hình nở nang đầy đủ và giống như con gà con, đi được, chạy được. Thật sự bán nam bán nữ.

4/- Tới Nhánh thứ Tư, khi cái trứng nở, con người ra ngoài thì thấy hai bộ phận sanh dục chênh lệch, một cái lớn, một cái nhỏ; rồi lần lần về sau khi đứa nhỏ sanh ra thì thấy trai hay gái rõ rệt. Từ ngày phân chia nam nữ cho tới nay đã được 16 triệu rưỡi năm rồi. Ðến lúc Nhánh thứ Tư gần tàn, khi hài nhi ra khỏi trứng rồi thì yếu đuối, không còn đi đứng được nữa. Sau khi phân chia nam nữ mới có sự giao hợp như ngày nay.

GIAI ÐOẠN THỨ BA

THAI SANH: Tới Nhánh thứ Năm, trứng ở trong Iòng người mẹ. Qua Nhánh thứ Sáu và Nhánh thứ Bảy thì sự sanh sản giống như ngày nay mới trở thành đại đồng.

CON CHÁU GIỐNG DÂN THỨ BA

Vấn - Con cháu Giống dân thứ Ba còn nhiều không?

Ðáp - Cũng còn nhiều. Trước nhất là dân chúng ở Phi châu, kế đó Ià những thổ dân ở Ức châu, cù lao Tasmanie, những người papou, những người Hottentot và những người Ấn da đen (Dravidiens). Những người Mỹ đen, người Mã lai là con cháu của Giống dân thứ Ba lai với con cháu của Giống dân thứ Tư Ià Giống dân Ắt Lăn (Atlantes) .

SỰ VĂN MINH CỦA GIỐNG DÂN THỨ BA

Dưới sự điều khiển và cai trị của các Thánh Quân, những vị vua thiêng liêng; những người Lémurien cất những Ðạo viện hùng vĩ, xây những thành trì rộng lớn mà vài cái còn để di tích lại cho tới ngày nay như Ðạo viện Karnak ở Ai Cập, những thành trì ở Madagascar.

3.2 CHÂU THỨ BA

Dãy Hi mã lạp sơn từ dưới biển trồi lên. Phía Nam đất nối liền từ chân núi đến cù Iao Tích Ian; phía Ðông từ Sumatra (Nam Dương quần đảo) và Ức châu cho tới cù lao Tasmanie và cù lao Pâques; phía Tây nó chạy dài tới Madagascar và một phần Phi châu bây giờ.
Phần đất nầy nối với Thụy Ðiển, Tây Bá Lợi Á và Kamtchatka. Cả thảy làm ra Châu thứ Ba gọi là Châu Lê-mu-ri (Lémurie) hay Ià ShaImoIi để chứa đựng Giống dân thứ Ba.

NHỮNG BIẾN CỐ QUAN TRỌNG

Tại Châu thứ Ba có nhiều biến cố quan trọng xảy ra, mà có bốn cái quan trọng hơn hết như sau đây:

1) Sự phân chia Nam Nữ trong Nhánh thứ Tư, chúng ta đã biết rồi.

2) Cốt trái đất nghiêng. Cũng trong thời kỳ mà Nhánh thứ Tư sanh ra, cột trái đất nghiêng, khí hậu thay đổi. Khi xưa Bắc cực là miền nhiệt đới bỗng trở thành một vùng lạnh lẽo. Con cháu của Giống dân thứ Nhì và một phần của Giống dân thứ Ba đều chết hết.

3) Ðức Ngọc Ðế, ba vị Ðộc Giác Phật và những vị Ðại Thánh từ Kim Tinh qua Ðịa Cầu đặng điều khiển sự tiến hóa của nhơn Ioại. (Xin xem đoạn nói về Quần Tiên Hội và sự Cai trị thế gian).

4) Tội lỗi của những kẻ chưa có cái trí hay Ià sự sanh sản ra loài dã nhơn, tổ tiên loài khỉ.

Khi Giống dân thứ Ba sanh ra được ít Iâu thì Tiên Thánh cho ba nhóm người đi đầu thai đặng lập ra ba bộ lạc khác nhau:

a)- Nhóm A, trên hai triệu người, hào quang của họ màu đỏ vỏ cam.
b)- Nhóm B, gần ba triệu người, hào quang của họ màu vàng đỏ.
c)- Nhóm C, trên ba triệu người, hào quang của họ màu hồng.
Tất cả là chín triệu người.

Khi Tiên Thánh chỉ cho họ thấy những thân hình để dành cho họ và bảo họ nhập vô thì Nhóm A từ khước liền, còn hai Nhóm kia, Nhóm B và Nhóm C, vâng lời lập tức chớ không cãi. Vì Vậy, trong bộ Giáo Lý Bí Truyền (La Doctrine Secrète) có câu nầy: “Một phần ba từ khước, hai phần ba vâng lời”. Một phần ba người nầy là những người của Nhóm A, người ta gọi họ là A-su-ra (Asuras). Tàu dịch là A Tu La. Còn hai phần ba là những người của Nhóm B và Nhóm C. Trong số nầy có 105 người ở Kim Tinh xuống.

Vấn - Tại sao Nhóm A lại ngỗ nghịch như thế?

Ðáp - Ấy tại họ có tánh kiêu căng và ích kỷ. Cũng nên nói họ không thích việc ái dục. Họ chê những thân hình đó xấu xí quá, không xứng đáng với trình độ tiến hóa của họ. Thật Vậy, những người đầu tiên của Giống dân thứ Ba không đẹp đẽ chút nào cả. Cái đầu nhọn hoắc, cái trán là một cục thịt dồi, có một con mắt mà lại ở gần chỗ nhọn. Nhưng Tiên Thánh muốn cho ba Nhóm nầy lập thành công đức, bởi vì khi họ nhập vô những thân hình đó rồi, thì nhờ sự tiến hóa và những sự kinh nghiệm của họ, hồi họ còn ở Dãy Mặt Trăng, họ sẽ biến đổi những thân hình nầy càng ngày càng trở nên tốt đẹp hơn trước.

Vấn - Khi xưa, họ ở Dãy Mặt Trăng sao?

Ðáp - Phải. Hồi ở Dãy Mặt Trăng, Nhóm A Ià những loài thú giống như khỉ bây giờ. Họ rất kiêu căng, ích kỷ và muốn cầm đầu đồng loại. Họ được đầu thai Iàm người tại Bầu D là Mặt Trăng hiện thời, trong Cuộc Tuần Hườn thứ Sáu. Qua Cuộc Tuần Hườn thứ Bảy, họ trở lại bầu thứ Nhất là Bầu A. Tới lúc Phán Xét Cuối Cùng của Bầu Hành Tinh nầy thì họ bị loại ra, không được đi đầu thai nữa. Họ phải chờ Dãy Trái Ðất sanh ra rồi đúng ngày giờ, Tiên Thánh cho họ đi đầu thai tại Ðịa Cầu chúng ta đặng họ tiếp tục sự tiến hóa của họ.

Vấn - Còn Nhóm người B và Nhóm người C?

Ðáp - Hai Nhóm nầy được đi đầu thai một Iượt với Nhóm người A. Họ qua Bầu Hành Tinh thứ Nhì là Bầu B, nhưng Nhóm B bị bỏ lại sau cuộc Phán Xét Cuối Cùng của Bầu nầy. Còn Nhóm C được đầu thai qua Bầu thứ Ba là Bầu C. Nhưng sau cuộc Phán Xét Cuối Cùng của Bầu nầy, họ bị bỏ lại. Ba Nhóm nầy bị loại ra vì họ theo không kịp chúng bạn.


HẬU QUẢ CỦA SỰ BẤT TUÂN MẠNG LỊNH

Vấn - Sự bất tuân mạng lịnh có sanh ra hậu quả nào không?

Ðáp - Nó sanh ra những hậu quả rất trầm trọng, xin kể ra hai cái đại khái thôi.

Một là: Những thân hình được giao phó cho Nhóm người A màu đỏ vỏ cam, bị bỏ trống. Những người mới thoát kiếp thú, họ nửa người nửa thú, còn thấp thỏi nhất bèn nhập vào những thân hình đó, không khác nào chuyện ngày nay, hễ thấy nhà bỏ trống thì người ta vô ở. Kinh Thánh gọi họ Ià “Những đầu hẹp” (Têtes étroites).

Họ chưa có trí khôn, trong số này có những người thấy khỉ cái thì tưởng Ià đồng loại với họ nên lấy làm vợ. Cái hậu quả hết sức tai hại là sự kết hợp nầy sanh ra một loài nửa người nửa thú, mình mẩy đầy Iông Iá đỏ Iòm, nhưng CÂM. Ấy là loài Dã nhơn thuở xưa và cũng Ià tổ tiên của loài khỉ người bây giờ (Singes anthropoides) có thể gọi là Nhân Hầu Viên. Qua Cuộc Tuần Hườn thứ Năm họ được đi đầu thai làm người. Ðây Ià một hình phạt hết sức gớm ghê của thiên nhiên. Huyền bí học gọi Ià: “Tội lỗi của những kẻ chưa có cái trí”.

Hai là: Nhóm người màu đỏ vỏ cam bị Trời phạt rất nặng nề. Họ phải đầu thai vào giống dân hết sức dã man, còn thấp hơn giống mà họ khinh khi thuở trước. Tuy nhiên họ vẫn tiến mau và chẳng bao lâu họ trở nên giỏi giắn và khôn quỉ như xưa. Nhiều người trong bọn họ qua đường Bàng Môn Tà Ðạo. Có vài người tài phép cao cường; họ chống đối với phe của Tiên Thánh. Người ta gọi họ là Hắc Diện Ðại Vương, ở Châu thứ Tư Ià Châu Ắt Lăn Tích (AtIantide).


KHỈ KHÔNG PHẢI LÀ TỔ TIÊN CỦA LOÀI NGƯỜI

Vấn - Nếu vậy thì khỉ không phải là tổ tiên của Ioài người như khoa học đã nói?

Ðáp - Ấy tại khoa học chưa tìm tới. Tôi tin rằng một ngày kia, người ta sẽ biết rằng con người sanh ra khỉ chớ không phải khỉ sanh ra con người. Nhiều nhà trí thức ra công dạy dỗ những con dã nhơn, mong rằng chúng sẽ khôn ngoan như con người. Song hoài công vô ích, tới một mức độ nào đó, Ioài khỉ không tiến tới được nữa.

Vấn - Tại sao Vậy?

Ðáp - Ấy là tại loài thú chỉ có cái trí mới tượng. Nó chưa có Thượng Trí như con người. Con thú bắt chước con người làm những điều tầm thường, chớ làm sao hiểu nổi những vần đề khó khăn, phức tạp được. Khoa học tin rằng con người khôn ngoan, giỏi giang là nhờ cái óc của xác thịt chớ không phải nhờ sự học hỏi sâu xa của Linh Hồn. Sự nhận xét của khoa học rất đúng bởi cái óc của người thông minh thì mảnh mai, lại có nhiều lằn xếp hơn cái óc của người thường, ít suy nghĩ. Nhưng khoa học không biết rằng: chính là những tư tưởng tạo thành những lằn xếp của cái óc chớ cái óc không sanh ra tư tưởng được.

BỐN TRƯỜNG HỢP DƯỚI ÐÂY CHỨNG MINH RẰNG:
KHÔNG PHẢI CÁI ÓC SANH RA TƯ TƯỞNG. DẦU CÁI ÓC ÐAU, HƯ, HAY BỊNH, HOẶC BỊ CẮT ÐỨT MỘT PHẦN, CON NGƯỜI CŨNG VẪN BIẾT SUY NGHĨ VẬY.

Ai ai cũng biết khoa học quả quyết rằng cái óc sanh ra tư tưởng, nếu cái óc đau, hư hay bịnh, hoặc bị cắt đứt một phần, con người không còn biết suy nghĩ nữa, người ta sẽ điên khùng, hoặc tàn tật suốt đời hay chết. Nhưng bốn trường hợp dưới đây chứng minh rằng lời quả quyết đó không đúng sự thật.

1/- TRƯỜNG HỢP THỨ NHỨT: CÁI ÓC NÁT BẤY.

Ông DE VESME tường thuật trong Niên Giám của Tâm Linh Học, Tháng Giêng, năm 1917 (Annales des Sciences Psychiques – Janvier 1917) hai chuyện dưới đây:

Ông Edmond Perrier có trình cho Hàn lâm viện Khoa học, sự nhận xét của Bác sĩ Dr.R. Robinson về trường hợp của một người sống trên một năm với một cái óc nát nhừ và thành một ung nhọt đầy máu mủ. Anh nầy không đau đớn chi cả và tinh thần cũng không rối loạn chút nào. Vì sao anh nầy không điên? không chết liền? không đau đầu, khi cái óc sưng Iên mà anh vẫn còn tưởng nghĩ được như một người lành mạnh vậy? Không ai giải nổi cả.

2/- TRƯỜNG HỢP THỨ NHÌ: MỘT PHẦN CÁI ÓC NÁT BẤY.

Tháng 7 năm 1914, Hội Giải phẫu có xem tờ phúc trình của Bác sĩ HaIIopeau về việc người ta giải phẫu, tại Dưỡng đường Necker, một cô gái té từ một toa xe điện xuống đất. Người ta thấy một phần cái óc của cô nát bấy. Người ta rửa ráy, hút mủ máu rồi may lại, cô gái lành mạnh và hoạt động như thường.

3/- TRƯỜNG HỢP THỨ BA: CÁI ÓC BỊ CẮT ÐỨT MỘT PHẦN

Bác sĩ Dr. A. Guépin ở Pa-ri có gởi đến Hàn lâm viện Khoa học trong phiên họp nhóm tại Pa-ri, ngày 24-3-1917, một bài tường trình về trường hợp của 10 người bị cắt đứt một phần cái óc mà vẫn sống và lành mạnh.

Ông nói: Người thứ nhất mà tôi giải phẫu là một người lính tên Louis R. hiện giờ anh ta Iàm vườn, ở gần Pa-ri. Mặc dầu anh mất một phần lớn bán não bên trái, anh vẫn mở mang trí thức như người thường. Rồi ông kể thêm chín trường hợp khác cũng tương tự như chuyện ông mới kể ra. Ông bèn kết luận như vầy:

Một là: Việc cắt bỏ một phần cái óc có thể được và tương đối rất dễ, nó cứu được một vài người bị thương, mặc dầu các sách giáo khoa cắt đứt một phần cái óc, nếu không làm cho bịnh nhơn bỏ mình thì cũng Iàm cho y tàn tật suốt đời không phương cứu chữa.

Hai là: Có khi bịnh nhơn bị giải phẫu mà không biết mình đã mất một phần cái óc ở phía nào.

Các báo ở Pa-ri đều có đăng tin phiên nhóm nầy của Hàn lâm viện Khoa học ngày 24-3-1917.

4/- TRƯỜNG HỢP THỨ TƯ

Trong bài diễn văn của Bác sĩ Augustin Iturricha, Hội trưởng Hội Nhân Loại Học tại Sucre (Bolivie – Nam Mỹ), đọc trong phiên nhóm của Hội nầy, ngày 7 tháng 8 năm 1916, có thuật ba chuyện sau đây, xảy ra tại Bịnh viện của Bác sĩ NicoIas Oritiz, do Bác sĩ Domingo Gusman gởi đến ông.

Chuyện thứ nhất: CÁI ÓC LÌA KHỎI DIÊN TỦY (Bulbe).

Một đứa nhỏ lối 12 hay 14 tuổi chết trong Iúc nó khôn ngoan như người thường, nó sử dụng đầy đủ năng Iực trí thức của nó. Chừng người ta mổ tử thi của nó ra thì thấy cái óc của nó lìa khỏi Diên tủy (Bulbe rachidien), giống in như một người bị chặt đầu vậy. Người ta rất ngạc nhiên mà thấy màng óc của nó bị sung huyết, một ung nhọt choán trọn tiểu não và luôn một phần của cái óc và xương sọ. Người ta tự hỏi: tại sao đứa nhỏ nầy hồi còn sống lại suy nghĩ được như người thường vậy?

Chuyện thứ nhì: CÁI ÓC BỊ UNG NHỌT

Một người dân bổn xứ, 45 tuổi, xương màng tang và xương đính (os parriétaI) bên trái bể ra, cái óc bị lủng. Hai mươi ngày sau bịnh nhơn đau đầu, hôn mê trong 36 giờ rồi tắt hơi. Mổ tử thi ra thì người ta thấy một ung nhọt lớn, choán gần hết bán não bên trái. Người ta rất thắc mắc, không biết vì lẽ nào, bịnh nhơn còn biết suy nghĩ trong khi cái óc không còn hoạt động được như Iúc bình thường?

Chuyện thứ ba: CÁI ÓC BỊ UNG NHỌT

Một người nông phu còn trẻ, mới có 18 tuổi, bị ba mụt ung nhọt, mỗi cái lớn bằng trái quít, choán ở phía sau của hai bên bán não và một phần của tiểu não; ba mụt đều ăn Iuồn với nhau. Mặc dầu như vậy, anh cũng tưởng, cũng nghĩ như mấy người khác. Anh xin phép nghỉ vài ngày để lo công việc lặt vật của anh. Chừng anh trở vô bịnh viện thì anh chết. (Trích trong quyển nhỏ Luân Hồi – La Réincarnation của A. Micha).
Ðây Ià những bằng chứng cụ thể của các vị Bác sĩ đưa ra, không thể nào nghi ngờ là những chuyện bày đặt. Tuy nhiên, chúng đã xảy ra trên nửa thế kỷ rồi. Từ đó đến bây giờ, năm chục năm đã trôi qua, khoa học tiến tới rất nhiều, chắc chắn đã có nhiều trường hợp tương tợ, báo chí ở khắp nơi đã nói tới, song tại chúng ta chưa hay biết đó thôi. Dầu sao, chúng ta cũng có những lý lẽ vững chắc để tin rằng: Không phải cái óc sanh ra tư tưởng và con người thác rồi không tiêu mất, như bấy lâu nay khoa học đã đinh ninh như vậy.

Tôi xin nói thêm rằng: có một việc hiển nhiên, chứng minh là không phải con người nhờ cái óc mà trở nên thông minh và khoa học cũng không giải thích nổi Ià trường hợp của những vị Thần đồng xưa và nay. Mấy vị nầy có cái óc còn nhỏ lắm, đã không học hỏi mà lại hiểu biết, đó mới là chuyện phi thường. Tôi không kể tên những vị Thần đồng thuở xưa, bởi vì e có người bảo: chuyện đã xảy ra cả trăm năm trước làm sao mà tin là có thật đươc.

Tôi xin nhắc lại một chuyện thôi, mà tôi đã kể ra trong quyển Luân Hồi Nhân quả. Ấy là chuyện Thần đồng Ðại Hàn: Kim Ung Young, sanh ngày 07-3-63, trong thế kỷ 20 nầy, Iúc ta còn đang sống đây. Mới có ba tuổi mà cậu nói được tiếng Anh, tiếng Ðức, biết vẽ những bức tranh, biết Iàm thơ, phú và những bài toán cao học vi tích phân. Những trẻ đồng tuổi với cậu có bằng cậu không? Tại sao vậy? Nếu nói: Có học mới giỏi, thì xin hỏi: Cậu học với ai và hồi nào? Ở trong bụng mẹ phải không? Cái óc của cậu bao lớn mà cậu thông minh như vậy? Nếu không phải là sự hiểu biết mà cậu mang theo từ kiếp trước thì làm sao cắt nghĩa được trường hợp của cậu bây giờ. Khoa học không tin Con người là Linh Hồn, không tin có Luân Hồi và Nhân Quả thì phải làm thinh, chớ không đưa ra những lý lẽ nào vững chắc được.

Chuyện Kim Ung Young ở Hán Thành đã 10 năm rồi, hơi cũ, bây giờ xin nói chuyện mới là Ông Thánh Sống ở Ấn Ðộ. Nhật báo TRẮNG ÐEN ra ngày Thứ Hai 13-8-1973 với tít lớn ở chương đầu:

THÁNH SỐNG ẤN ÐỘ 15 TUỔI, CÓ 6 TRIỆU TÍN ÐỒ. HAI TUỔI RƯỠI BIẾT THUYẾT PHÁP. SÁU TUỔI KHÔNG HỌC MÀ GIẢNG ÐẠO TIẾNG ANH. TIÊN TRI: THẾ GIỚI HÒA BÌNH 1000 NĂM LIÊN TIẾP KỂ TỪ THÁNG 11-1973. Tên vị Thánh dài 48 nét: BALYOGESHNAR PARAM HANS SATGURUDEV SHRI SANT JI MAHARAJ.
Có hình Thánh.

Số kế tiếp: Tuần báo Pháp Paris Match viết: Ðấng Toàn Năng vừa Xuất thế để báo hiệu Hòa Bình Thế Giới. Có hình xe hoa. Hình người Âu châu lộng kiếng thờ Thánh Sống.

Con quỉ chiến tranh bị nhốt hay không xin để tương Iai trả lời. Tôi không bao giờ tin điều đó. Thiết tưởng từ xưa tới nay, câu: `Thiên Thời bất như Ðịa lợi, Ðịa Lợi bất như Nhơn Hòa' Iuôn Iuôn vẫn đúng.

Muốn cho Nhơn Hòa, mỗi người trong Nhơn Ioại phải tự cải thiện nếp sống của mình, phải diệt tánh ích kỷ, chia rẽ và Io giúp đỡ những kẻ yếu đuối, tật nguyền, cô thế, nghèo khổ, tức là mở rộng lòng Từ Bi Bác Ái. Không vậy thì ở thời đại nào cũng còn những sự loạn lạc, bốc lột, hiếp đáp, xâu xé Iẫn nhau. Như thế thì làm sao nói việc Hòa Bình được bây giờ.

Ở đây tôi xin nói về thuyết Luân Hồi mà thôi. Kim Ung Young là một Thần đồng về đường đời. Còn Thánh Sống Maharaj là một vị Thần đồng về đường Ðạo. Những vị Thần đồng đem theo trong kiếp nầy những sự hiểu biết của mình ở kiếp trước, còn người thường thì không được cái hân hạnh nầy. Vì lẽ nào? Không biết làm sao cắt nghĩa cho đúng với Chơn Iý. Ta chỉ kết luận rằng: Nếu chuyện Thần đồng quả có thật thì chuyện Luân Hồi cũng quả là sự thật vậy.


CHÂU LÊ-MU-RI (Lémurie) TRẦM XUỐNG BIỂN

Ðúng ngày giờ thì Châu thứ Ba bị những trận địa chấn và những núi lửa phun làm cho nứt ra từng mảnh, rồi ba phần tư trầm xuống biển. Ngày nay những di tích của Châu thứ Ba còn để lại là: Ức Châu, Tân Tây Lan, cù lao Tasmanie, (nói tóm lại là cù lao của Ðại Dương Châu) và cù Iao Madagascar.

Hiện giờ nhiều nhà khảo cổ, nhiều nhà bác học đều lấy làm lạ, không hiểu tại sao những loài thú vật và những loài thảo mộc ở tại cù lao Madagascar là một dòng một giống với những loài thú vật và những loài thảo mộc sanh sản tại Ức Châu, Tân Tây Lan. Những cù lao nầy ở giữa mênh mông đại hải và cách xa nhau muôn dặm trùng dương, cả ngàn năm trước, sự giao thông giữa những xứ nầy thật rất cực kỳ khó khăn. Không có giả thuyết nào đứng vững cả. Chớ người ta đâu có ngờ chúng nó là những thành phần của Châu thứ Ba, ngày nay đương nằm dưới đáy biển Thái Bình Dương, rồi trong tương Iai nó sẽ lần lần nổi Iên như cũ.


4.1 GIỐNG DÂN THỨ TƯ

THÂN HÌNH: Giống dân thứ Tư Ià giống Ắt Lăn (AtIantes) sanh ra đã tám triệu năm rồi. Họ là Tổ tiên giống da vàng và da đỏ bây giờ. Giống thứ Tư nầy mới thật là giống Con Người, bởi vì từ giống dân thứ Tư sắp sau, con người mới có thân hình như bây giờ. Hình dạng nầy càng ngày càng tiến hóa và càng tốt đẹp hơn trước.

GIÁC QUAN: Con người mở thêm một giác quan nữa là Vị giác. Họ có bốn giác quan hoạt động: Thính giác, Xúc giác, Thị giác và Vị giác. Ðây có nghĩa Ià họ có đủ ngũ quan, nhưng chỉ có bốn giác quan hoạt động mà thôi.

TIẾNG NÓI: Trước hết tiếng nói líu lo, sau theo thời gian biến đổi rồi lần lần thành ra tiếng nói như bây giờ. Phận sự của Giống dân thứ Tư Ià mở mang Tình cảm.

BẢY NHÁNH CỦA GIỐNG DÂN THỨ TƯ

1)- Nhánh thứ Nhất là giống Rmoahal
2)- Nhánh thứ Nhì là giống Tlavatlis
3)- Nhánh thứ Ba là giống Toltec
4)- Nhánh thứ Tư Ià giống Touraniens
5)- Nhánh thứ Năm Ià giống Sémites
6)- Nhánh thứ Sáu là giống Akkadiens
7)- Nhánh thứ Bảy là giống Mongol (Mông cổ).

Vấn - Xin cho biết chi tiết về bảy Nhánh nầy?

Ðáp - Cho những chi tiết thì dài dòng lắm, tôi xin nói sơ Iược mà thôi:

1)- NHÁNH THỨ NHỨT:

Giống Rmoahal là giống Du mục, sắc da màu măng cục. Di cư dưới quyền điều khiển của các vị Thánh Ðế về phía Nam. Họ đánh đuổi những người Lémuriens còn sống ở Phi Châu và những vùng đất đai của Châu Ắt-Lăn-Tích mới nổi lên. Họ sống một đời yên tịnh và rất văn minh. Con mắt ở chính giữa còn dùng được, nhưng hai con mắt ở hai bên lần lần thay thế nó. Họ còn thấy được cõi Trung Giới và cảm biết ảnh hưởng của cõi nầy.

2)- NHÁNH THỨ NHÌ

Giống Tlavatlis da màu vàng. Nhờ các vị Thánh Ðế dạy dỗ cho nên họ rất văn minh và hưởng được an lạc thái bình.
Khu vực của họ ở, ngày nay đã xuống nằm dưới đáy biển Ðại Tây Dương. Khi Châu Ắt-Lăn-Tích (Atlantide) bị những trận địa chấn chia ra làm bảy cù lao lớn, mỗi cù lao bằng một đại lục thì phần đông con cháu của Nhánh thứ Nhất và nhánh thứ Nhì đều chết hết. Những người của Nhánh thứ Nhất còn sống sót đi Iạc về phía Bắc và lần lần trở thành dã man. Thân hình họ cũng càng ngày càng thấp lần. Những người của Nhánh thứ Nhì còn sống sót lại đi về phía Ðông và phía Nam. Họ kết hôn với những cháu chít của giống Lémurien và sanh ra Tổ tiên của những người Ấn da đen (Dravidien) ngày nay.

3)- NHÁNH THỨ BA

Giống ToItec đẹp hơn hết trong bảy Nhánh. Thân hình vạm vỡ, cân đối cao 8 thước, sắc da thay đổi từ màu nâu tới màu đỏ. Da thịt của họ cứng rắn cho đến đỗi một thanh sắt của ta dùng bây giờ, liệng mạnh vào mình họ thì thanh sắt sẽ gãy. Dao búa của chúng ta dùng bây giờ chém vào mình họ thì không khác nào chém vào một tảng đá. Thật là không thể tưởng tượng nổi điều nầy. Những vết thương của họ mang sau lúc chiến đấu khép miệng mau lẹ và lành cấp kỳ.

Vị giác của họ mới mở cho nên cá ươn, thịt thúi, tỏi, những thực vật có mùi nực nồng, những vật lỏng nóng hổi làm phỏng da chúng ta đối với họ mới có mùi vị. Khứu giác của họ chưa hoạt động, vì vậy họ có thể ở giữa chỗ tanh hôi, dơ dáy, mà không lấy làm khó chịu mặc dù những người thuộc về các hạng cao cấp hết sức sạch sẽ. Nhờ Tiên Thánh và các vị Cao đồ dạy dỗ, họ tiến đến một trình độ văn minh rất cao và có vài điều mà tới ngày nay Giống da trắng chưa bì kịp.


VÀI LỜI VỀ SỰ VĂN MINH CỦA GIỐNG DÂN TOLTEC.

NÓI CHUNG LÀ SỰ VĂN MINH CỦA CHÂU ẮT-LĂN-TÍCH (ATLANTIDE)

Thuở xưa, Châu Ăt-Lăn-Tích cũng có ba thứ Trường: Tiểu học, Trung học và Ðại học như ngày nay.

Người ta dạy những khoa như: Lý Hóa, Toán Học, Y Học, Thiên Văn, Canh Nông và cách dùng Từ điển để trị bịnh. Người ta cho ánh sáng Mặt Trời dọi qua những tấm kính màu đặng giúp cho cây cối và thú vật phát triển mau lẹ. Rất tiếc là ngày nay chúng ta không biết đó Ià những màu nào. Các khoa: Kiến Trúc, Ðiêu Khắc, Hội Họa, Âm Nhạc đều được trau giồi rèn luyện.

Nhưng mục đích chính của sự giáo dục là mở mang những quyền năng, những phép thần thông và học hỏi những lực bí ẩn thiên nhiên. Người ta dùng khoa luyện kim chế ra vô số vàng bạc đặng làm những đồ dùng trong nhà và Ðạo viện.

NHỮNG PHI THUYỀN Ở CHÂU ẮT-LĂN-TÍCH

Người ta biết làm những máy bay giống hình chiếc tàu nên gọi là Tàu bay, Phi thuyền. Ban sơ Phi thuyền Ià của riêng của tư nhân, rất đắt tiền và chỉ chở được có hai người mà thôi. Về sau người ta mới chế ra những Phi thuyền lớn hơn chở được 6 người, 8 người, rồi lần lần tới từ 50 đến 100 người. Vật liệu dùng làm Phi thuyền là Cây hay là Kim Khí.

Nếu Ià cây thì người ta nhúng những tấm ván rất mỏng vào một chất làm cho cây trở nên cứng và dẽo như da thuộc. Phía ngoài phi thuyền thì Iáng bóng và ban đêm chiếu sáng như sơn một lớp lân tinh. Người ta phủ kín Phi thuyền, không vậy thì rất nguy hiểm cho những hành khách bất cẩn ngồi trên Boong (Pont) khi phi thuyền bay mau.

Ðộng lực không phải là dầu xăng như bây giờ. Người ta dùng một thứ lực như của dĩ thái ở trong mình con người gọi là Vrill thuộc về quyền năng của cái phách làm cho Phi thuyền tung mây Iướt gió. Về sau người ta dùng một thứ lực khác để điều khiển máy móc cho đỡ tốn sức người. Lực nầy giống như Iực mà ông KEELY đã tìm ra. Những máy móc đều khác nhau tùy theo thứ Phi thuyền. Phi thuyền dùng để chuyên chở hành khách mà cũng dùng để chở bom chứa hơi độc và hỏa tiễn đặng tấn công kẻ nghịch. Nhiều trận không chiến dữ dội đã xảy ra.

Còn một điều lạ lùng nữa là thuở đó, theo ý định của Ðức Bàn Cổ thì Sư tử là thú vật nhà ăn cỏ như trâu bò và hiền Iành. Nó để giúp con người trong nhiều công việc chuyên chở nhọc nhằn. Nhưng tại con người không biết cách nuôi dưỡng và săn sóc nó mà ngày nay nó thành ra thú rừng, ăn thịt và hung tợn.

Ðây Ià những điểm chính mà thôi. Còn không biết bao nhiêu chuyện khác như những chi tiết về Kim Môn Thành (Cité aux Portes d'Or) dù viết cả chục quyển sách cũng chưa đủ. Còn nhiều việc phi thường, trừ ra những người học Ðạo thì đời nay không bao giờ tin được. Tỷ như: Niệm một câu Chơn ngôn thì Con người liền hóa ra Thú vật và những Thú vật biết nói do các Ðạo sĩ dùng thần thông luyện tập, vân vân . . .


4)- NHÁNH THỨ TƯ

Giống Touraniens rất hung bạo và hiếu chiến; sử sách Ấn Ðộ gọi họ là những người khổng lồ Rakshasa và thường nhắc những sự gây hấn của họ với người da trắng đầu tiên là những người Aryen mới đến ở Ấn Ðộ.

5)- NHÁNH THỨ NĂM

Ấy là Giống Sémites. Họ nghịch ngợm, ưa chiến đấu.

Khi xưa, Ðức Bàn Cổ của Giống dân thứ Năm Ià Ðức Vaivasvata có chọn lựa vài gia đình thuộc về một Chi của Nhánh nầy đặng lập ra Giống dân Chánh thứ Năm. Nhưng sau một thời gian thí nghiệm, Ngài thấy họ không đủ những đức tánh mà Ngài mong muốn. Họ không được mềm mỏng. Ngài mới bỏ họ đi rồi chọn những gia đình khác. Họ là Tổ tiên của những người Do Thái bây giờ.

6)- NHÁNH THỨ SÁU

Giống Akkadiens phiêu Iưu qua miền duyên hải của biển Ðịa Trung Hải và sanh ra những người gọi là Pélesges, Etrusques, Carthaginois và Scythes.

7)- NHÁNH THỨ BẢY

Người Mông Cổ vốn dòng dõi của Nhánh thứ Tư, giống Touraniens. Họ sanh ra người Trung Hoa ở nội địa, người Tây Tạng, người Hung Gia Lợi (Hongrois), người Ết-ki-mô (Esquimaux) và những người Mã Lai (Malais).
Những người Trung Hoa ở miền duyên hải không phải thuộc về rặt giống Mông Cổ. Những người da đỏ ở Mỹ Châu có máu Mông Cổ trong mình. Người Nhật vốn là một nhánh nhỏ của giống Mông Cổ.


 4.2 CHÂU THỨ TƯ

Châu thứ Tư Ià Châu Ắt-Lăn-Tích (Atlantide) nổi Iên đặng chứa Giống dân thứ Tư. Tên Thánh của nó là Cu-Sa (Kusha).

Châu thứ Tư rất rộng lớn. Nó gồm Bắc Âu Châu, kể cả Trung Hoa, Nhựt Bổn chạy ngang qua Bắc Thái Bình Dương cho tới phía Tây Mỹ Châu hiện giờ. Phía Nam của nó là Ấn Ðộ, Tích Lan, Miến Ðiện, bán đảo Mã Lai. Phía Tây Ià Ba Tư, xứ Á Rập, Syrie, Abyssinie, Iưu vực Ðịa Trung Hải, Nam Ý Ðại Lợi và Tây Ban Nha. Từ Ecosse và Irlande, nó choán hết Ðại Tây Dương với một phần lớn Bắc Mỹ và Nam Mỹ ngày nay.

NHỮNG BIẾN CỐ Ở CHÂU ẮT-LĂN-TÍCH

Vấn - Những biến cố ở Châu Ắt-Lăn-Tích có nhiều hay không?

Ðáp - Nhiều, nhưng tôi xin kể hai chuyện gần đây thôi.

BIẾN CỐ THỨ NHỨT:

Khi Nhánh thứ Tư là giống Toltec sanh ra thì những Ðạo sĩ theo phái Bàng Môn Tà Đạo luyện tập được những phép tắc cao cường. Họ bắt dân lành làm tôi mọi cho họ; họ dùng những phép tà không cho những người nầy mở vài năng khiếu theo Luật tiến hóa đã định. Trọn 50.000 năm như vậy, họ không ăn năn chừa cải. Họ chống lại với Tiên Thánh. Trên Thiên Ðình thấy rằng: Không nên để kéo dài tình trạng đó nữa, bèn ra lịnh tẩy uế quả Ðịa cầu.

Năm 75.025 trước Chúa Giáng Sanh, một đêm kia, một trận Ðại Hồng Thủy nhấn chìm châu Ắt-Lăn-Tích xuống đáy biển với 64 triệu sanh linh và một nền văn minh rực rỡ mà cách tổ chức khéo Iéo cho đến đỗi ngày nay chúng ta chưa sánh kịp. Những người Iương thiện được lịnh di cư qua những nơi khác trước rồi. Họ thoát khỏi tai nạn.

BIẾN CỐ THỨ NHÌ:

Sau trận Ðại Hồng Thủy nầy, Châu Ắt-Lăn-Tích để lại một di tích là cù lao Poseidon. Nhưng cù Iao nầy, năm 9.654 trước Chúa Giáng Sanh, cũng nối gót cù lao Daitya, anh nó, xuống nằm dưới đáy biển. Chỗ mà Châu Ắt-Lăn-Tích choán xưa kia, bây giờ là biển Ðại Tây Dương, ầm ầm sóng bủa. Nhưng tới một ngày kia, đúng ngày giờ thì Châu Ắt-Lăn-Tích sẽ nổi lên lại.


5.1 GIỐNG DÂN THỨ NĂM

Giống dân thứ Năm Ià giống A-ri-den (Aryen), Tổ tiên của giống da trắng bây giờ. Nó có sứ mạng mở mang trí thức.

Giác quan thứ Năm Ià Khứu giác đã hoạt động và phát triển. Giống dân thứ Năm sanh ra đã một triệu năm rồi.

CÁC NHÁNH CỦA GIỐNG DÂN THỨ NĂM

Mới có sáu Nhánh ra đời.

1)- Nhánh thứ Nhất là Nhánh Aryen.
2)- Nhánh thứ Nhì là Nhánh Aryo-Sémitique. (hoặc Arabe).
3)- Nhánh thứ Ba là Nhánh Iranien.
4)- Nhánh thứ Tư Ià Nhánh CeItique.
5)- Nhánh thứ Năm Ià Nhánh Teuton.
6)- Nhánh thứ Sáu là Nhánh mới sanh ra, chưa có tên.

1)- NHÁNH THỨ NHỨT: NHÁNH ARYEN

Nhánh Aryen lập một Ðế quốc hùng cường ở phía Nam bờ biển Qua Bích, ngày nay là sa mạc Gô-Bi.
Sau họ vượt qua Hi mã lạp sơn, tràn xuống phía Bắc Aryavarta, hiện giờ là xứ Ấn Ðộ, rồi trụ luôn tại đó. Họ nhờ 10 vị Ðại Hiền (Rishis) dạy dỗ. Theo tài liệu Manousmrita thì các Ngài là: Maharichi, Atri, Pulaha (Kavi), Angiras-Kratu-Kardama, Prachctas (Dasha), Vashisb-Ktha, Brigu, Narada. Nhưng theo vài quyển khác thì các Ngài có tên khác, không rõ vì lẽ nào.

Tại sao thuở xưa có bốn giai cấp ở Ấn Ðộ? Nhánh Aryen nhờ các vị Thánh quân dắt dẫn. Họ phải chiến đấu quyết liệt với hai giống dân đang chiếm xứ Ấn Ðộ, ấy là:

1/- Những người Titans, chắt chít của Giống dân thứ Ba, Giống Lémurien.
2/- Những người Daityas và những người khổng lồ Rokshasas, chắt chít của Giống Touraniens thuộc về Giống dân thứ Tư, giống Atlantes.

Ðọc chuyện nầy rồi mới biết tại sao Ðức Bàn Cổ Vaivasvata chia dân chúng Ấn ra bốn hạng hay là bốn giai cấp.

1)- Giai cấp thứ nhất: Những người Bà la môn (Brahmanes) thuộc về Giống dân thứ Năm da trắng.
2)- Giai cấp thứ nhì: Những người Sát đế ly (Kshattryas) thuộc về Giống dân thứ Tư, da vàng và da đỏ.
3)- Giai cấp thứ ba: Những người Tỹ xá (Vaisyas) thuộc về Giống dân thứ Tư cũng da vàng và da đỏ.
4)- Giai cấp thứ tư: Những người Thủ đà Ia (ChandaIa) hay Ià Xu tra (Sudra) thuộc về Giống dân thứ Ba, da đen.

Ðức Bàn Cổ cấm những người của Giống dân thứ Năm kết hôn với những người của Giống dân thứ Ba và thứ Tư. Vì biết rằng những giống lai sanh ra không còn rặc máu huyết của Giống dân thứ Năm nữa.

Trong mọi việc, nếu tri ra được nguyên nhân thì biết được sự thật. Chính là những người Aryen từ Trung bộ Á châu đem đến Ấn Ðộ tiếng Senzar là tiếng của các Thiên thần; ấy là tiếng dùng trong các Thánh đường mà các vị Ðiểm đạo đều biết.

2)- NHÁNH THỨ NHÌ: NHÁNH ARYO-SÉMITIQUE.

Ðức Bà Annie Besant gọi Nhánh thứ Nhì là Aruo-Sémitique hay là Chaldéenne, còn Ðức Leadbeater gọi là Nhánh Ả Rập (Arabe).
Họ di cư qua miền Trung bộ Á châu ở ít lâu tại A-phú hản (Afganistan) rồi theo dòng sông Oxus, vượt qua Euphrate đặng tới xứ Á Rập (Arabe) và Syrie.

Trong Iúc đi dọc đường họ kết hôn với dân cư của các bộ lạc Touraniens và Akkadiens và dòng lai sau nầy dựng Iên hai Ðế quốc hùng cường Ià Ðế quốc Assyrien và Babylonien. Những người phéniciens, những người Ai cập sau chót và những người cổ Hi Lạp vẫn có trong mình máu của Nhánh thứ Nhì pha với máu của Nhánh thứ Bảy của Giống dân Ắt-Lăn. Ðức Bà Blavatsky nói rằng: “Bảy triều đại đã kể ra trong văn khố Ai Cập và Chaldéenne thuộc về Giống dân thứ Năm." Vài Nhánh khác của Giống dân nầy lai với Nhánh Mông Cổ sanh ra người Trung Hoa ở miền duyên hải và dòng Vương đế cai trị nước Tàu thuở xưa.

3)- NHÁNH THỨ BA: NHÁNH IRANIEN

Nhánh Iranien do Ðức Zoroastre thứ Nhất cầm đầu, di cư qua hướng Bắc và hướng Ðông theo dấu Nhánh thứ Nhì nhưng dừng lại A Phú Hản (Afganistan) và Ba Tư (Perse). Ðức Zoroastre ở tại Ba Tư. Có những người Iranien di cư qua xứ Ả Rập (Arabe) rồi từ đó đến Ai Cập sống chung với những người Ắt-Lăn còn ở tại đó.

Nhánh thứ Nhì và Nhánh thứ Ba gặp những người của Giống dân thứ Tư thờ phượng Mặt Trời. Những Mục sư của họ gọi là Mages và tự xưng Ià những người Bồng Lai (Shamballa) hay là Bồng Ðảo ở Sa mạc Qua Bích (Désert de Gobi) đến giáo hóa họ. Những Huấn sư của Nhánh thứ Nhì dạy họ cách thờ phượng những Ðấng Cao Cả điều khiển những tinh cầu gọi là các vị Tinh Quân (Anges-EtoiIes). Ðạo của họ giữ là Sabéisme. Những vị Mages ở Chaldéenne có biệt tài về hai khoa Chiêm tinh và Thiên văn. Các Ngài xem sao mà điều khiển vận mạng nước nhà. Nói cho đúng Chiêm tinh là xem vị trí các ngôi sao trên trời, khỏi cần phải làm toán. Thuở xưa gọi Ià xem càn tượng. Khoa nầy ngày nay không còn nghe nói tới nữa bởi vì nếu học trò không đủ đức hạnh và tài năng thì ông thầy làm sao dạy được. Về sau tại Ba Tư, người ta lạm dụng việc thờ phượng các Tinh Quân, sự thờ phượng nầy bị cấm hẳn. Ðức Zoroastre mới dạy dân chúng thờ lửa vì lửa tượng trưng Thượng Ðế. Những vị Mages ở Ba Tư Io mở mang khoa Hóa học hơn khoa Thiên văn vì nó rất hữu ích cho nông nghiệp mà giống dân Iranien lại chuyên về nghề nông.

Nhờ sự tìm kiếm của các vị Mages ở Ba Tư (Persian) cho nên khoa Luyện kim (Alchimie) phát triển mau lẹ và mạnh mẽ, sau truyền qua Ai Cập.

4)- NHÁNH THỨ TƯ: NHÁNH CELTIQUE

Nhánh CeItique do Ðức Orphée dắt dẫn, Nhánh nầy di cư về hướng Tây và đi xa hơn Nhánh trước. Họ là tổ tiên của những người pháp, Ý, Bỉ, Irlandais, Écossais, những người Ai Cập mới, và những người Thụy Sĩ.

Nói một cách tổng quát, người của Nhánh thứ Tư thì da trắng, đầu tròn, mắt xanh hay nâu, vóc giạc không cao lớn lắm, có trí tưởng tượng mau lẹ, thích sự hoạt động, ưa thi thơ, nhiệt liệt trung thành với chủ, rất gan dạ, song khi thất bại thì mau ngã lòng rủn chí. Người ta trách họ thiếu óc thật tế, nhưng họ kính trọng Chơn lý một cách tương đối.

5)- NHÁNH THỨ NĂM: NHÁNH TEUTON

Nhánh thứ Năm Ià Nhánh Teuton. Những người Nhật Nhĩ Man xưa. Họ sanh đồng thời với Nhánh thứ Tư và Ià tổ tiên của những người Slavis, Anh, Nga, Croates, Serbes, Bosniaques, Letters, Lithuaniens, Ðức, Goths, Na Uy, Thụy Ðiển và Mỹ. Phần đông đương Iàm bá chủ khắp hoàn cầu.

6)- NHÁNH THỨ SÁU: . . . . . . .

Chưa có tên họ, đã sanh ra ở Mỹ Châu, Ức Châu, Tân Tây Lan và nhiều nơi khác song chưa đủ số để thành lập một quốc gia.

7)- NHÁNH THỨ BẢY:

Nhánh thứ Bảy sanh ra tại Mỹ Châu.

Ngày nay trên Ðịa cầu, con cháu Giống dân thứ Ba và con cháu Giống dân thứ Tư còn rất nhiều và chưa tàn.
Mỗi giống dân đều có một sự văn minh riêng biệt, hạp với tánh tình và phong tục. Nói tóm lại là hạp với trình độ tiến hóa của họ.


5.2  CHÂU THỨ NĂM

Châu thứ Năm Ià Krauncha, tức Ià Âu châu ngày nay. Nhưng còn Á châu, Phi châu, Mỹ châu và Ức châu như chúng ta ta đã biết. Hiện giờ Giống dân thứ Năm đã di cư qua Mỹ châu, Ức châu và Tân Tây Lan.


6.1 GIỐNG DÂN THỨ SÁU SẼ SANH RA TRONG VÒNG 600 – 700 NĂM NỮA.

MẦM GIỐNG HAY TỔ TIÊN CỦA GIỐNG DÂN THỨ SÁU

Ðức Bàn Cổ của Giống dân thứ Sáu Ià Ðức MORYA, hiện giờ Ià Ðức Ðế Quân chưởng quản Cung thứ Nhất. Còn Ðức Bồ Tát của Giống dân nầy Ià Ðức KOUTHOUMI, hiện giờ Ià Ðức Ðế Quân chưởng quản Cung thứ Nhì.

Ngài chọn lựa những hội viên Thông Thiên Học hết sức chơn thành và hết sức tận tâm trong công việc của Ngài. Ngài cho họ đầu thai vào Nhánh thứ Sáu. Khi đúng ngày giờ rồi thì Ngài dẫn họ về ở tại một sở đất lớn của Ngài đã mua và đã chọn lựa trước tại miền Nam Tiểu bang Californie (Basse Californie) ở ven bờ biển Thái Bình Dương (Huê Kỳ) tạo ra một đô thị giống như Hoa viên. Nơi đây khí hậu hết sức tốt lành, phong cảnh u nhàn, kỳ hoa dị thảo, đồi núi xanh tươi không khác nào Bồng Lai tại thế. Trong khi ở bên ngoài mùa đông rét mướt, cây Iá xơ rơ thì trong nầy cỏ hoa đua nở, khí trời ấm áp như tiết xuân. Ấy là một khu riêng biệt, ngăn cách với thế tục bên ngoài về đường Tinh thần, mặc dầu vẫn tiếp rước các du khách một cách niềm nở, vui vẻ.

NHỮNG VỊ PHỤ TÁ CỦA ÐỨC BÀN CỔ:

Những vị Phụ tá của Ðức Bàn Cổ là những vị Ðệ tử của Ngài thuở xưa.

Mấy vị Ðệ tử phải đầu thai đi đầu thai lại liền liền không ngớt, không có một ngày nghỉ ngơi ở cõi Thiên Ðường như người thế. Bởi vì Ðức Bàn Cổ lo sửa đổi từ cái Trí, cái Vía cho tới Xác thân, mỗi thế hệ một đôi chút, Iàm sao cho Giống dân thứ Sáu phải đúng in như kiểu mẫu của Ðức Thượng Ðế đã đưa ra. Tuy Io Iắng ngày đêm, nhưng không một Ðệ tử nào có một mảy tư tưởng tật đố, cũng không bao giờ nghĩ đến tư Iợi, mà vẫn đem hết tâm trí lo cho nòi giống, từ thế kỷ nầy qua thế kỷ kia. Thật là không phải một cái gánh nhẹ nhàng, nhưng bù Iại vị Ðệ tử tiến tới một cách mau lẹ phi thường. Chẳng những anh được cái vinh diệu dự vào công cuộc lớn lao Iàm cho nhơn Ioại tiến hóa mà anh được cái đặc ân vô giá là làm việc từ kiếp nầy qua kiếp kia dưới quyền điều khiển trực tiếp của các Chơn sư mà anh Iuôn Iuôn tôn kính và mến thương đặng tạo ra Giống dân Chánh thứ Sáu.

Tưởng cũng nên biết rằng các Hội viên Thông Thiên Học, dầu cho tài giỏi đến đâu và tiến hóa về những phương diện khác cao tới bực nào mà còn tánh tình ương ngạnh, tự phụ rằng mình hiểu hơn Tiên Thánh, thì không hề được chọn lựa đặng gia nhập vào đám Ðệ tử Trung kiên nầy.

HÌNH VÓC

Bực trung 1m 80 bề cao. Vạm vỡ, cân đối, rất thích thể dục. Dáng điệu khoan thai, đẹp đẽ cho đến Iúc già nua cũng vẫn còn phong độ. Da trắng, mắt xanh hay là nâu sậm, giống như người Tây Ban Nha hay Ià người Ý bây giờ.

NHÀ CỬA

Chỉ có một kiểu mẫu và đặc điểm Ià không có vách, không có góc như nhà cửa chúng ta bây giờ. Nhà ở, trường học, cơ xưởng, đền thờ toàn là những cột chống chỏi một cái mái mà thôi. Những cột nầy phần nhiều thì cao như những cột mấy đền thờ ở Ai Cập thuở xưa, nhưng nhẹ hơn và đẹp hơn. Tuy nhiên, có cách bố trí khéo những lá cửa để ngăn những khoảng giữa những cột, khi cần thiết. Nhưng mà thường thường thì để trống. Ít ai dùng tới lá cửa. Còn nóc thì tròn có mũi nhọn như cái mão hát bội của các tướng (dômes), mỗi nóc đều có cửa sổ. Có nóc giống như nóc nhà thờ Saint Pierre de Rome, mặc dầu nhỏ hơn; có cái thấp và rộng in như nóc nhà thờ San-Gionanni Tremeti ở Palerme; có cái thì giống búp sen. Thường thì những nóc nhà nầy làm bằng chất trong suốt có màu sắc khác nhau.

Trong nhà không có đèn, ban đêm ánh sáng từ trên nóc chiếu xuống. Cũng không có ghế, người ta ngồi trên những gối dựa. Ba phần tư trong nhà thì trống rỗng. Một phần tư còn Iại thì chia ra những phòng ngủ và phòng giấy, có những vách ngăn song cao bằng phân nửa những cột mà thôi. Có những nhà thờ lớn, những dinh thự đồ sộ để dùng Iàm thư viện, những bảo tàng viện và những phòng hội họp.

Ban đêm, tất cả những đường sá và hoa viên đều sáng rỡ như ban ngày. Ánh sáng nầy dịu hơn ánh sáng Mặt trăng.

Y PHỤC

Y phục có màu sắc rất đẹp và rất tiện lợi. Không dùng nỉ, không dùng Iông chiên mà chỉ dùng chỉ vải. Chỉ nầy nhúng vào một chất hóa học làm cho nó trở nên láng, đẹp và chắc. Người ta mỗi ngày mỗi giặt quần áo mà nó vẫn lâu rách, lâu mục. Không ai mang giày, mang dép, mà cũng ít người đội nón.

THỰC PHẦM

Tập đoàn dùng rất nhiều trái cây và nhất là một chất không biết gọi tên chi, nó từa tựa như món ăn tên `bIanc manger' của người pháp. Thuở đó có nhiều thứ trái rất ngon và rất bổ dưỡng vì nhờ trồng theo phương pháp khoa học.

Người ta phải tưới cây vì ở đó không có mưa. Không có ai uống sữa bò, ăn bơ hay phó mát, nghĩa Ià Ioại ra ngoài những sản phẩm có tính cách thú vật, mà chỉ dùng một thứ sữa thảo mộc do một loại cây tiết ra và gọi Ià Cây Bò Cái (L'arbre Vache).

Nước uống lấy ở suối, nhưng không đủ nên phải dùng máy lọc nước biển rồi thêm một chất hóa học vô Iàm cho nước đó trở nên ngon ngọt và đả khát. Thế nên nước vẫn dư dùng. Không ai hút thuốc, uống rượu hay Ià ăn kẹo bánh.

MÁY MÓC

Có những máy móc lạ kỳ, nhưng mà nhơn viên học cách xử dụng rất mau lẹ. Công việc làm ít nặng nhọc. Bực trung làm việc mỗi ngày ba giờ. Nhưng khi tới ngày lễ lớn thì người ta làm việc tới năm giờ mỗi ngày.

Không có dùng lửa hay than củi như bây giờ, không có lò, không có khói và rất ít bụi bặm. Ở ngoài đời thiên hạ rất tiến hóa, không còn dùng hơi nước nữa mà dùng điện lực và một thứ lực mới mà khi xưa ông KeeIey gọi Ià `WriII' Iấy trong nguyên tử. Lực nầy xin gọi là “nguyên tử lực” chớ không biết phải đặt tên chi cho dễ hiểu. Khắp hoàn cầu người ta phân phát lực nầy cho dân chúng xài mà khỏi phải trả tiền, mỗi nhà đều có thể dùng nó được. Chỉ vận một cái vòi như vòi nước thì nó tuôn ra. Nó dùng vào các việc cần thiết như nấu nướng, sưởi ấm, thắp đèn, chạy máy v.v. .

Muốn có lửa và sức nóng thì người ta chỉ dùng một cái máy nhỏ có thể bỏ túi được, không cần có diêm quẹt và đồ bổi. Người ta cũng có thể sanh ra tức tốc một nhiệt Iượng mấy ngàn độ trên một diện tích nhỏ bằng mũi kim. Thật là phi thường, không ai tưởng tượng nổi.

THƯ VIỆN

Mỗi nhà đều có một bộ Bách Khoa hết sức đầy đủ, hết sức rành rẽ. Nó chứa đựng toát yếu của tất cả những sự hiểu biết trong thời đại đó.
Nếu cần dùng những tài liệu đầy đủ hơn thì phải đến Thư Viện ở trong Ðạo viện của Khu vực.
Còn tại Thư Viện Trung Ương thì đủ các sách thuở xưa, giống như British Museum tại Londres hiện giờ. Những sách xuất bản thuở đó có giải nhiều về Luân Hồi và Nhân Quả.

KHU VỰC KHOA HỌC

Khu vực Khoa học gồm nhiều Phân khu và giống như một Ðại học đường bây giờ. Phương pháp áp dụng vào nhiều ngành học vấn khác hẳn phương pháp của chúng ta dùng ngày nay.

a)- Người ta dùng Thần nhãn để khảo cứu loài cầm thú và thảo mộc chớ không bao giờ giết chúng hay là mổ xẻ chúng nó Iúc còn đang sống, bởi vì Giáo sư và Sanh viên đều có Thần nhãn.

b)- Về khoa `Ðịa lý hình thể', người ta vẽ bản đồ Ðịa cầu rất lớn rồi dùng những màu sắc để tô điểm cho phân biệt tánh chất của các thứ đất ở khắp mọi nơi, không những ở trên Mặt đất mà còn xuống dưới sâu nữa. Người ta ghi rành rẽ những chỗ có các thứ khoáng chất và những vật hóa thạch (fossiles).

c)- Khu Nhân Chủng Học có hình dạng những giống dân đã sanh ra trên Ðịa cầu nầy từ trước đến giờ. Những hình nầy tầm thước đúng với vóc vạc của giống dân hồi còn sanh tiền. Mỗi người đều được giải thích tỉ mỉ với những đồ biểu về sự khác nhau giữa những thể siêu việt.
Cũng có hình của các giống dân tộc ở những Hành tinh khác thuộc về Dãy Ðịa Cầu của chúng ta, như Hỏa Tinh, Thủy Tinh, do những vị Ðắc đạo chỉ dẫn cách làm. Tất cả đều sắp đặt có thứ tự lớp lang theo ý muốn của Ðức Bàn Cổ đặng chỉ cho Tập đoàn thấy sự phát triển của các giống dân và các chi nhánh. Có một khu dạy về cơ thể con người và thú vật trong ba thời đại: quá khứ, hiện tại và vị lai với tất cả chi tiết.

d)- Một khu khác chuyên lo về những thế giới khác của Thái Dương Hệ.

e)- Ðặc biệt hơn hết là không có khu Y học, bởi vì các chứng bịnh đã bị tiêu trừ, không một ai mắc phải bịnh hoạn nào cả.
Nhưng khắp trong lãnh thổ đều có những phòng giải phẫu để chữa cho những người rủi ro bị thương tích. Nhưng việc nầy ít có khi xảy ra lắm.
Có một Bảo Tàng Viện, trong đó nêu ra đủ tất cả những nghệ thuật và những nghề nghiệp đã có từ hồi quả Ðịa Cầu mới sanh ra. Có đủ kiểu mẫu của những máy móc do con người đã phát minh, nhất là những máy móc có từ đời Ắt Lăn Tích (AtIantide) mà người ta không biết và đã quên phứt rồi cùng là những máy móc người ta mới sáng chế trong khoảng 700 năm từ cuối thế kỷ XX (20) cho tới thế kỷ XXVIII (28).


QUYỀN NĂNG Ý CHÍ

Tập đoàn đều biết quyền năng ý chí và nhờ nó mà Iàm được nhiều việc.

Ai ai cũng chuyển di tư tưởng được, nghĩa Ià gởi tư tưởng đi ra ngoài và thâu nhận những tư tưởng ở ngoài vô.
Nhưng về điểm nầy, trẻ em lại giỏi hơn người lớn, đó Ià một điều lạ đối với người thường. Ðối với mấy trẻ nhỏ, chuyển di tư tưởng là một trò chơi không mệt nhọc và rất dễ dàng. Nhưng Iớn lên khi có vợ chồng thì phần nhiều mất quyền năng nầy, cũng có người giữ được nhưng chuyển di một cách khó khăn. Thế nên, khi muốn truyền tin tức cho ai thì họ luôn luôn nhờ mấy trẻ nhỏ. Vì lẽ nào các nhà Huyền Bí Học đều biết, nhưng không tiện nói ra.

THỂ DỤC

Các Nhơn viên đều lo lắng đến sức khỏe của mình và sự phát triển thân thể. Vì thế, thể thao đóng một vai trò quan trọng. Người ta lập nhiều thao trường cho phái nam và phái nữ. Họ thích chơi một môn giống quần vợt bây giờ vậy.

CON CÁI CỦA ÐỨC BÀN CỔ

Ðức Bàn Cổ có mười hai người con. Mỗi người sanh ra dưới một ảnh hưởng đặc biệt, nhà chiêm tinh nói rằng: dưới ảnh hưởng của một Cung Hoàng đạo (Zodiaque). Những trẻ sanh ra đều khỏe mạnh, vô bịnh tật. Không có việc hài nhi thác yểu. 150 năm sau, con cháu của Ðức Bàn Cổ lên tới 100.000 người rồi.

Tôi xin nói thêm rằng trong thế hệ đầu tiên (première génération) thì những người Tập đoàn được phép kết hôn với những người ngoài. Bắt đầu từ thế hệ thứ hai sắp sau thì việc đó bị cấm hẳn. Những người trong Tập đoàn kết hôn với nhau như thế thì dòng máu của Giống dân thứ Sáu không có pha trộn với dòng máu của Giống dân thứ Năm còn Iại.

HỘI ÐỒNG QUẢN TRỊ

Ðức Bàn Cổ có một Hội Ðồng Quản Trị gồm mười hai vị Cao đồ của Ngài, vài vị đã lên tới bực Chơn sư. Các Chơn sư cai quản nhiều Khu vực Hành chánh và lo cho Tập đoàn được phát triển và hưởng nhiều hạnh phúc. Nhơn viên Ban Quản Trị toàn là những người phái Nam. Quyền hành của Ðức Bàn Cổ vẫn tuyệt đối. Không có Tòa án bởi vì không có ai phạm tội. Ai ai cũng biết bổn phận mình phải làm cái chi. Hình phạt ghê gớm là đuổi ra khỏi Tập đoàn, mà có ai khờ dại cho đến đỗi để phạm lỗi nặng nề đặng bị trục xuất ra ngoài bây giờ?

SỰ GIÁO DỤC TRẺ CON

Sự giáo dục trẻ con chiếm phần tối quan trọng trong công việc của Tập đoàn. Tất cả những cái chi hữu ích như: màu sắc, âm thinh, ánh sáng, mùi hương, hình dạng, điện đều đem ra ứng dụng. Chương trình chỉ thật là hữu ích. Người ta không dạy trẻ con cái chi mà phải nhờ tới Bách Khoa Từ Ðiển mới hiểu được. Sự giáo dục thâu hẹp lại bằng một sự hiểu biết cần thiết và có giá trị.

Người ta biết rằng có thể dùng ánh sáng và màu sắc kích thích những phần quan trọng trong cái óc làm cho một số tế bào tăng gia, con người mau trở nên thông minh. Có những vị Thiên Thần và các vị Tiểu Thần phụ tá, tham gia vào công việc giáo dục trẻ em. Tất cả những vị Giáo sư đều có Thần nhãn.

TIẾNG NÓI VÀ CHỮ VIẾT

Tiếng nói là Anh ngữ cải tiến rất nhiều. Còn chữ viết thì giống như chữ viết tắt bây giờ vậy.

TÔN GIÁO VÀ NHỮNG ÐỀN THỜ

Không có những Tôn giáo như ngày nay mà chỉ có một Tôn giáo tức Ià Ðạo dưới những hình thức riêng biệt.
Có bốn loại Ðền thờ màu sắc khác nhau:

1)- Ðền thờ màu đỏ sậm (Cramoisi)
2)- Ðền thờ màu xanh (Bleu)
3)- Ðền thờ màu vàng (Jaune)
4)- Ðền thờ màu lục (Vert)

1/- ÐỀN THỜ MÀU ÐỎ SẬM HAY LÀ ÐỀN THỜ CỦA LÒNG YÊU THƯƠNG

Ta biết rằng tánh tình của con người hiện ra bằng màu sắc trong cái Vía. Tình yêu thương hiện ra bằng màu đỏ sậm trong hào quang của con người. Phần đông những Ðền thờ làm bằng một thứ đá màu xám dợt, mặt bóng láng giống như cẩm thạch và màu sắc của cách trang trí ở ngoài tỏ cho người ta biết bên trong cuộc hành lễ thuộc về loại nào. Những Ðền thờ của Iòng yêu thương thì cất bằng đá Iáng mướt, màu hường lợt, vô cùng đẹp đẽ và hiên ngang đứng giữa những rừng cây xanh. Những đường kiến trúc thì tô màu đỏ sậm, rất ngoạn mục. Màu sắc nầy kích thích lòng Từ Bi Bác Ái của con người và làm cho nó tiếp xúc với lòng Từ Bi Bác Ái của Ðức Thượng Ðế. Âm thanh lại thêm sức cho màu sắc.

2/- ÐỀN THỜ MÀU XANH HAY LÀ ÐỀN THỜCỦA LÒNG SÙNG TÍN

Màu xanh trong hào quang là biểu hiệu của lòng Sùng Ðạo. Không khí sùng đạo bao trùm đền thờ màu xanh. Bước vào đây thì người ta cảm thấy phấn khởi lòng mộ Ðạo.

Người ta dùng âm nhạc làm cho Hồn của con người liên lạc trực tiếp với Ðức Thái Dương Thượng Ðế. Mỗi tín đồ đều dùng một thứ nhạc khí rất kỳ lạ, không giống nhạc khí của chúng ta dùng bây giờ. Không phải một vĩ cầm (violon) mà lại in như một thứ Hạc cầm (Harpe) tròn quây, có những dây bằng kim khí chói sáng.

Hạc cầm là của riêng của mỗi tín đồ. Của ai nấy dùng, không ai dùng của người khác được, bởi vì mỗi nhạc khí đều được truyền từ điện, hạp với chủ nó. Tín đồ dùng Hạc cầm để truyền sự rung động ra ngoài, rồi những rung động ở ngoài sẽ theo Hạc cầm mà vô mình.

Âm nhạc có ảnh hưởng đến thể Bồ Ðề, (cũng gọi là Kim Thân – Corps Bouddhique) hoặc ảnh hưởng đến cái Vía tùy theo trình độ tiến hóa của tín đồ.

3/- ÐỀN THỜ MÀU VÀNG HAY LÀ ÐỀN THỜ CỦA TRÍ TUỆ

Ðền thờ màu vàng dành để cho sự mở mang trí thức. Thần lực tại đây rất mạnh. Vừa bước vô Ðền thờ thì người ta cảm thấy trí hóa mở mang, trở nên sáng suốt và hiểu được dễ dàng những vấn đề trước kia rất khó khăn, mà cũng nhận định được giá trị của sự vật nữa.

Tín đồ không dùng khí cụ mà tập thấy trước mắt hình dạng của một vật, nghĩa Ià Iàm ra hình tư tưởng và thấy hình đó. Ban đầu thì những vật cụ thể, sau là những vấn đề trừu tượng.

4/- ÐỀN THỜ MÀU LỤC HAY LÀ ÐỀN THỜ CỦA SỰ HÀNH ÐỘNG

Màu lục có nhiều nghĩa. Phải là nhà Huyền Bí Học lão luyện mới định được ý nghĩa của màu nầy sau khi mở Thần nhãn hay Thiên nhãn xem xét kỹ Iưỡng. Thường thường màu lục có nghĩa Ià: Thích Nghi, Thích Ứng.

Những nhơn viên của Ðền thờ nầy làm việc trên cõi Thượng Giới và đường lối đặc biệt của mấy vị ấy là biến đổi tư tưởng ra sự hành động. Họ cho rằng: con người không thể hiểu một tư tưởng nếu không đem tư tưởng đó ra thực hành liền hay là khi có dịp đưa đến.

Tưởng cũng nên biết rằng: màu đỏ sậm và màu xanh có nhiều điểm tương đồng. Màu vàng và màu lục kết hợp với nhau được và có nhiều chỗ tương tợ. Chúng ta có thể nói rằng: Ðền thờ màu đỏ sậm và màu xanh, tượng trưng cho Bhakti Yoga, tức là Yoga của sự Sùng Tín. Đền thờ màu vàng, tượng trưng cho Jnana Yoga, tức là Yoga của sự Hiểu Biết. Còn Ðền thờ màu lục, tượng trưng cho Karma Yoga, tức là Yoga của sự Hành Ðộng.

Tín đồ dùng sức mạnh của ý chí và sự tưởng tượng đặng có nhiều kết quả trong lúc hành lễ và tập luyện.


HAI CUỘC HÀNH LỄ

Trong bốn Ðền thờ nầy, những vị đứng ra hành lễ là những vị Thiên Thần và ở dưới quyền điều khiển của Ðức Bồ Tát. Mấy vị nầy ở Iuôn trong Ðền thờ với nhơn viên của Tập đoàn, chớ không phải như thuở xưa hiện ra trong giây lát rồi biến đi. Các vị nầy Iàm trung gian, đem tư tưởng của các tín đồ dâng cho Ðức Thái Dương Thượng Ðế, nhờ Thượng cấp là các vị Ðại Thiên Thần chuyển lên. Rồi ân huệ của Ðức Thái Dương Thượng Ðế ban xuống cho tín đồ xuyên qua mấy vị nầy. Nhờ như thế tín đồ tiến rất mau.

Có hai cuộc hành lễ: Một cuộc hành lễ để cho người lớn, một cuộc hành lễ để cho trẻ em. Mấy vị Thiên Thần Io đào tạo cho bọn nhỏ nầy đặng ngày sau thế cho các Ngài làm những vị Mục sư. Trong bốn Ðền thờ, người ta dùng bốn thứ hương trầm khác nhau.


SỰ SANH VÀ SỰ TỬ

Người thường trước khi nghe nói tới cái chết thì rùng mình, mọc ốc. Ðó Ià dĩ nhiên bởi vì xác thịt muốn sống mãi như Trời Ðất. Nhưng đối với những người trong tập đoàn thì ai nấy đều biết rằng sự chết là sự thay đổi y phục chớ mình vẫn sống mãi. Họ không còn sợ hãi như trước kia nữa.

Khi người ta thấy xác thân già yếu rồi và không còn giúp ích được nữa thì anh định bỏ nó. Anh chọn một cặp vợ chồng nào đó, tánh tình hạp với anh, anh hỏi họ có bằng lòng nhận anh làm con không. Nếu họ chịu thì anh trao cho họ một cái bùa của anh mang trong mình thường ngày và vài món đồ riêng. Cái bùa nầy là một món đồ trang sức thuộc về loại đặc biệt thích ứng với Chơn Nhơn và tùy theo Cung Hoàng đạo của y.
Nói một cách tổng quát Ià người xin Iàm con thường ở lại trong nhà của cha mẹ vị lai của anh, trước khi anh bỏ xác.

Cách bỏ xác như thế nầy: Anh không thiết sống nữa, sanh lực giảm lần lần rồi đứt luôn. Anh xuất Hồn ra khỏi xác và nhập vô lòng người mẹ. Người ta không chôn xác chết mà cũng không thiêu. Người ta bỏ xác vô một cái thùng lớn đựng một chất hóa học, có lẽ là một thứ cường toan. Người ta đậy nắp lại rồi truyền vào một thứ lực mạnh hơn điện nữa. Có những tiếng nổ lốp bốp liên tục, rồi vài phút sau xương thịt đều tiêu tan. Người ta giở nắp ra thì thấy còn lại một nắm tro màu xám. Không có việc thờ phượng nắm tro tàn nầy như bây giờ đâu, bởi vì người ta không quí trọng nó. Người ta đã hiểu biết thân xác nầy không phải Ià con người.

Khi đứa trẻ mới sanh ra thì thân bằng, cố hữu của nó lại chúc mừng. Sự hiện diện của họ là có ý muốn giúp cho nó nhớ lại kiếp trước và nhất là nhờ cái bùa của nó đã trao cho cha mẹ nó, cho nên thường thường tới 12 tuổi thì đứa nhỏ nhớ lại tất cả những điều của nó đã học hỏi và đã biết trong kiếp trước.

Nhờ những điều kiện vệ sinh thuở đó nên người ta đã 80 tuổi mà thấy chưa già và nhiều người sống trên 100 tuổi.


SỐ NAM VÀ NỮ CÂN PHÂN VỚI NHAU

Mỗi gia đình có từ 10 đến 12 đứa con, thường thường thì số con trai và con gái bằng nhau. Ðàn bà hay đẻ sanh đôi, không đau đớn, không có sự khó khăn trắc trở như bây giờ. Hai ba năm mới đẻ một lần. Không có đứa con nào sanh ra có tật nguyền hay là chết yểu cả, bởi vì những Linh Hồn ở trong Tập đoàn đều trả hết một phần lớn quả xấu của mình rồi, họ được phép tự do chọn lựa cha mẹ vị lai của mình.

Thường thường kiếp nầy làm con trai thì kiếp sau Iàm con gái, đó Ià vì Iợi ích chung cho Tập đoàn mà thôi. Họ diệt tánh ích kỷ và dục tình đã Iâu Iắm rồi. Ðối với họ sự giao hợp chỉ là một phương tiện để tạo ra xác thân mà thôi. Ðiều nầy chúng ta chớ lấy làm lạ, bởi vì trong các kiếp trước họ là những phần tử ưu tú trong Hội Thông Thiên Học và đã được Ðức Bàn Cổ chọn lựa.

Nên biết rằng: đó Ià một đặc ân lớn lao và hiếm có trong đời của họ. Họ phải tỏ ra xứng đáng với lòng tin cậy của Ðức Bàn Cổ. Thế nên họ chỉ lo phụng sự. Không hề khi nào có một mảy tư tưởng cưỡng lại lịnh của Ngài đã ban ra. Họ rất vui mừng mà thực hành ý muốn của Ngài đặng đem Iại hạnh phúc cho Tập đoàn. Họ trình cho Ngài những sáng kiến của họ, những cái hay đều được Ngài chấp nhận và cho thi hành liền.

Chúng ta có thể nói đó Ià Tinh Thần của Tập đoàn.


SỰ SỐNG TRONG TẬP ÐOÀN

Tập đoàn tự túc: làm ruộng, Iàm vườn, trồng trọt, cho đến việc nấu nướng cũng toàn là máy móc, công việc rất nhẹ nhàng.

Ðường sá rộng lớn, Iót đá hoa Iáng bóng, để cho xe chạy, hai bên lề có trồng cỏ non và xẻ đường để cho người đi bộ. Không có bụi bặm cho nên không có phu quét đường. Muốn di chuyển người ta dùng một thứ xe chạy bằng nguyên tử lực ‘vriII' rất mau và rất êm vì bánh xe làm bằng một chất dẻo hơn cao su.

Trong trường, giáo sư dạy học sinh cách dùng Tâm Thức tại cõi Trung giới, cho nên hầu hết đều biết Xuất Vía. Vì thế, ở ngoài đời người ta thường dùng máy bay mà nhơn viên trong Tập đoàn thì không thích việc đi mây về gió như thế đó.

Mấy vị quản lý trong Tập đoàn đều biết phương pháp chế ra vàng ròng, và làm ra nhiều thứ châu báu và kim cương. Họ dùng những vàng ngọc nầy để trả tiền những đồ mua ở ngoài đời như những sách xưa, những đồ mỹ thuật và những máy móc mới phát minh v.v. . .

Ðức Bàn Cổ đã đóng một số tiền to tát cho chánh phủ Mỹ thuở đó đặng trả tiền thuế phần đất mà Ngài đã mua. Chánh phủ để cho phần đất được tự trị, không làm khó dễ chút nào cả. Người ở ngoài cũng có xin phép vô viếng khu vực nầy. Họ rất khen ngợi nếp sống và tinh thần của Ðoàn viên, nhưng họ không thích vào ở đây bởi vì theo họ thì buồn lắm. Hầu hết người ở ngoài đều cho nhơn viên trong Tập đoàn Ià một nhóm người khùng, chỉ biết tận tụy và làm nô lệ cho vị lãnh tụ của họ. Bởi vì trong Iúc đó Giống dân thứ Năm đã Iên tới chỗ ‘cực điểm văn minh'. Tất cả những sự huy hoàng, lộng lẫy, tất cả những sự vinh quang đều tập trung vào đó.

Trên đây Ià đại cương của sự hoạt động của Tập đoàn hay Ià MẦM GIỐNG CỦA GIỐNG DÂN THỨ SÁU.

Giống dân thứ Sáu sẽ ra sao, chưa nghe nói tới. Tuy nhiên nó cũng sẽ có bảy nhánh và nó sẽ mở được Trực giác. Dầu sao, khi mầm giống nầy đủ sức sống tự do và lập thành một quốc gia được rồi thì Ðức Bàn Cổ, Ðức Bồ Tát, Tiên Thánh và các Thiên Thần đều trở về ngôi cũ. Các Ngài ẩn mình nơi chốn non cao động cả cũng như đối với mấy giống dân trước vậy.

6.2 CHÂU THỨ SÁU

Châu thứ Sáu tên là SHAKA (Sa-Ka) sẽ nổi lên tại Thái Bình Dương đặng chứa đựng Giống dân thứ Sáu. Rồi đúng ngày giờ nó cũng trầm xuống biển như ba Châu trước: Châu thứ Ba, Châu thứ Tư và Châu thứ Năm.


7.1 GIỐNG DÂN THỨ BẢY

Giống dân thứ Bảy sẽ sanh ra tại Ức Châu.

7.2 CHÂU THỨ BẢY

Châu thứ Bảy là Pushkara (Bút-Ca-Ra) sẽ nổi lên ở Nam Mỹ châu đặng chứa đựng Giống dân thứ Bảy.


HẾT MỘT TIỂU KIẾP CỦA BẦU TRÁI ĐẤT CỦA CHÚNG TA.

Khi Nhánh thứ Bảy của Giống dân thứ Bảy tàn rồi thì một Chu kỳ Tiến hóa tại Ðịa Cầu của chúng ta chấm dứt. Ðã hết một Tiểu Kiếp của nó. Không còn sự sanh hóa và sự tiến hóa của các sanh vật nữa. Linh Hồn của vạn vật đều bỏ Ðịa cầu về Niết Bàn nghỉ ngơi chờ đúng ngày giờ sẽ qua Bầu Hành Tinh thứ Năm Ià Bầu Thủy Tinh đặng học hỏi và kinh nghiệm những điều mới khác.

Ðây Ià một định Luật chung cho tất cả những Bầu Hành Tinh bất kể thuộc về Hệ Thống nào. Mà Càn Khôn, Vũ Trụ, nghĩa Ià tất cả những Thái Dương Hệ trên không gian dầu lớn dầu nhỏ cũng đều phải tuân theo Luật Tiết Ðiệu nầy chớ không phải riêng gì cho Bầu Trái Ðất chúng ta đâu.
Hết lúc sanh hóa, hoạt động thì tới lúc nghỉ ngơi, tịnh dưỡng. Hết lúc nghỉ ngơi, tịnh dưỡng thì sanh hóa, hoạt động lại; cũng như hết ngày thì tới đêm, hết đêm trở lại ngày.

Thành – Trụ - Hoại – Không. Cứ xoay vần và nối tiếp nhau mãi, hết cái nầy tới cái kia, không bao giờ dứt tuyệt. Sanh sanh, hóa hóa vô tận vô biên.


TẠO VẬT THƯỜNG ÔN LẠI

Sự phân chia Nam Nữ đã xảy ra 16 triệu năm rồi, tại sao bây giờ, Iâu Iâu người ta lại còn thấy đàn bà có chửa trứng, những người bộ nấp, những người lại cái?

Dường như Iâu Iâu Tạo vật ôn lại những việc của mình đã Iàm một lần, và cũng có lẽ muốn cho con người tìm hiểu nguồn gốc của mình, cho nên mới có đàn bà có chửa một bọc trứng, những người bộ nấp, những người bán nam bán nữ.

Ta cũng nên biết rằng, bào thai, trước nhất, lấy hình A-míp (Amibe) của Giống dân thứ Nhất, kế đó có tòng tụi như hình dạng của Giống dân thứ Nhì, rồi bán nam bán nữ của Giống dân thứ Ba, cuối cùng mới là nam nữ rõ rệt. Tuy Vậy, mỗi phái đều giữ dấu vết của sự bán nam bán nữ, nghĩa Ià còn một phần nhỏ nhất về bộ phận sanh dục của phía kia. Vì Vậy mới có việc đàn bà hóa ra đàn ông, đàn ông hóa ra đàn bà, mà ta thấy các báo chí trên hoàn cầu, Iâu Iâu có đăng tin một lần. Tôi xin đem ba chuyện sau đây Iàm điển hình.

A- ÐÀN ÔNG BIẾN THÀNH ÐÀN BÀ

Mới đây các báo chí đều có đăng tin một vị Trung Úy trong Phi đội của Hoàng gia Anh, tên Robert Cowel, 36 tuổi, một tay đua xe có biệt tài, vừa mới biến thành đàn bà. Trước đây Trung Úy đã có vợ và sanh được hai người con gái. Thân phụ của Trung Úy là một nhà giải phẫu, ngự y của cựu hoàng George VI, cũng đã công nhận sự biến đổi của con ông và tuyên bố Trung Úy Robert CoweI đã thành đàn bà. Vợ của Trung Úy đã đưa đơn xin Iy dị và đã được Tòa án chấp nhận. (Báo Quân đội số 81, ngày 18-8-1954).

B- MỘT CÔ GIÁO BỖNG BIẾN THÀNH ÐÀN ÔNG

Luân Ðôn: Cô giáo OIiva Erity, 39 tuổi, dạy tại trường Haydon Bridge ở nước Anh, từ 17 năm nay; nhân hôm Iễ Phục sinh vừa rồi, bỗng dưng biến thành đàn ông. Học trò trước kia gọi Cô giáo, nay phải gọi là Thầy giáo. Cô Oliva liền bỏ tên họ đàn bà, lấy tên đàn ông Ià DonaId OIiver. Thật là một chuyện lạ lùng trên thế giới. (Báo Sài gòn Mới, thứ ba, ngày 10-4-1956).

C- MỘT NGƯỜI ÐÀN ÔNG ÐƯỢC GIẢI PHẪU TRỞ THÀNH ÐÀN BÀ

Charleston – South Carolina – 21-11-1968 (UPI): ông CORDON LANGLEY HALL là một Tiểu sử gia, người Anh, sau một cuộc giải phẫu trở thành đàn bà, hôm thứ tư, tiết lộ rằng: “Bà định kết hôn với người tài xế da đen của bà”. Tuy nhiên, ngày cử hành hôn lễ chưa xác định.

“Thật là một điều huyền bí”, ông Herman SchindIer Ià người bạn thân của ông Hall, từ 10 năm trước đây, khi ông đến CharIeston nói như vậy. Ông nói tiếp: “Tôi không biết ông bạn tôi sẽ Iàm gì?”

Bà HaII người đã viết Tiểu sử của Công chúa Magaret, bà Jacqueline Kennedy, Onassis và phu nhân Tổng thống Huê Kỳ Bird Johson, kết hôn với ông John Paul Simons. Ngày hôn lễ, ban đầu định là ngày 28 tháng 11, rồi dời đến ngày 1 tháng 12, sau hết đã bãi bỏ vì có một cú điện thoại đe dọa sẽ đặt bom tại nhà thờ Charleston. Vì thế bây giờ cả hai dự định sẽ kết hôn tại Anh quốc, có lẽ Ià sang năm.

Ông HaII đã đổi tên của ông thành bà D. Popita Langley Hall, là con nuôi của nữ nghệ sĩ người Anh nổi tiếng, Rutherford. Ông Schindler nói rằng: “Cựu Ông Hall là một nhà văn đại tài”, sanh trưởng tại 10 AixtachaifeId, năm 1929, ông HaII đã đến Huê Kỳ vào năm 1952. Ông đã viết nhiều tờ báo khác nhau và cũng Ià một tiểu thuyết gia và dịch gia. Bài Tiểu sử về công chúa Margaret được xuất hiện vào năm 1968, và ông trở thành một du khách của Ðiện Buckingham. Ông đã vào bịnh viện John Hop Kois tháng vừa qua để giải phẫu đổi giống của đàn ông.
(Báo Thời Ðại Mới, trang 2, số 124, thứ bảy 23-11-68).

Sự biến đổi bộ phận sanh dục Iàm cho thân hình và tánh tình thay đổi, vốn là một bí mật của Tạo Công, người phàm không một ai cắt nghĩa được cho đúng với sự thật.


BỀ CAO CỦA NĂM GIỐNG DÂN CHÁNH

Tại Bamian, một thành phố điêu tàn của Tiểu quốc A Phú Hãn (Afghanistan) ở chính giữa Ấn Ðộ và Ba Tư, có năm hình người khổng lồ chạm trong đá tượng trưng cho năm Giống dân Chánh lúc mới sanh. Những hình nầy do những vị Ðắc Ðạo của Giống dân thứ Tư tạo ra.

1/- Hình thứ Nhất, tượng trưng Giống dân thứ Nhất, lúc mới sanh ra, cao 173 pieds hay Ià 53 thước.
2/- Hình thứ Nhì, tượng trưng Giống dân thứ Nhì, Giống Mồ Hôi, lúc mới sanh ra, cao 120 pieds hay Ià 37 thước.
3/- Hình thứ Ba, tượng trưng Giống dân thứ Ba, lúc mới sanh ra, cao 60 pieds hay Ià 18 thước.
4 – 5/- Hình thứ Tư và Hình thứ Năm, tượng trưng hai Giống dân thứ Tư và thứ Năm thấp hơn.
Tại cù lao Pâques ở Thái Bình Dương có hình bằng đá cao 27 pieds hay Ià 8 thước, tượng trưng Giống dân thứ Tư.
Theo lời của Ðức Bà Annie Besant thì những người Aryen đầu tiên của Giống dân thứ Năm cao hơn người cao nhất của người da trắng bây giờ lối vài tấc. Có lẽ họ cao từ 2 thước 5 tới 2 thước 6.


NGUYÊN NHÂN SÂU XA CHIA RẼ TÍN ÐỒ CỦA MỘT GIÁO PHÁI DUY NHẤT RA HAI PHE: CHÁNH ÐẠO VÀ TÀ ÐẠO.

Thánh Kinh nói: “Những đứa con của ánh sáng rực rỡ lấy những phụ nữ rất phàm tục làm vợ”.
Cũng thế trong Cựu Uớc (Ancien Testament) có câu nầy: “Những con của Trời thấy những con gái của con người rất xinh đẹp nên lấy làm vợ”.

Con của ánh sáng rực rỡ và con của Trời là ai?

Ấy là lời nói bóng dáng ám chỉ những Linh Hồn tiến hóa khá cao, khi xưa ở Dãy Nguyệt Tinh, bây giờ qua quả Ðịa Cầu đầu thai Iàm người. Còn con của con người, những gái rất phàm tục là những Linh Hồn mới thoát kiếp thú đi đầu thai Iàm người nên trí hóa còn eo hẹp, mặc dầu xác thân có vẻ xinh đẹp.

Trong chu kỳ nầy, vật chất càng ngày càng thêm cứng rắn. Nhơn Ioại phải đi xuống tới đáy của vật chất nghĩa Ià tới mức cuối cùng rồi mới chinh phục nó được. Tuy nhiên, trên bãi chiến trường Cu-Ru-Sết-Tra (Kurukshetra, tượng trưng sự chiến đấu giữa Tinh thần và Vật chất), nhiều người đã bại trận.

Thuở xưa tại Châu Lê-Mu-Ri (Lémurie) là Châu thứ Ba, sau khi có sự phân chia nam nữ rồi, những người học Ðạo đồng một môn phái dưới quyền cai quản của Tiên Thánh chia ra làm hai nhóm:

1)- Một nhóm lo trì trai giữ giới, tuân theo Kỷ Luật của Thiên Ðình.

2)- Một nhóm không lo tự chủ, không nghe theo lời dạy dỗ của Tiên Thánh cứ say mê nữ sắc. Họ biết phương pháp biến đổi những luồng sanh lực vô mình thành sức mạnh của dục tình để thỏa mãn trong sự ái ân.

Hai nhóm vì tư tưởng đối chọi nên thường xung đột với nhau. Rồi tới một ngày kia, họ đánh với nhau những trận long trời lở đất. Sự phân chia Chánh Ðạo và Tà Ðạo bắt đầu từ đây. Cuối cùng, nhóm theo Tiên Thánh bỏ lên miền Bắc, còn nhóm vô kỷ Luật xuống miền Nam rồi lần qua phương Ðông và phương Tây. Họ kết liên với bọn tà quái (élémental) lo tôn thờ vật chất chớ không cho Tinh thần là quan trọng. Họ là Tổ tiên của Giống dân thứ Tư, Ià Giống Ắt-Lăn (AtIante).

Câu chuyện nầy xảy ra tại Châu Lê-Mu-Ri (Lémurie) có lẽ lối 13 hay 14 triệu năm rồi.

Ðọc đoạn trên đây chắc chắn quí bạn đã biết tại sao ngày nay có hai phe: Chánh Ðạo và Tà Ðạo, và vì nguyên nhân nào mà học trò của một giáo phái duy nhất lại chia ra và đi theo hai con đường khác nhau và đối nghịch với nhau cho tới bây giờ và mai sau vẫn còn . . . Vẫn biết điều nầy vốn tại nữ sắc gây ra mà cũng tại người học Ðạo không áp dụng triệt để phương pháp tu thân, tự trị, tức là làm chủ ba Thể: Thân, Vía, Trí. Phải tinh luyện cái Vía nếu muốn thoát ra khỏi Iưới rập của ái tình và tránh xa Iưỡi dao dính mật.


No comments:

Post a Comment