Tuesday, August 19, 2025

C94: Anabaptist 2

 Anabaptist 2


Những người Anabaptist thường nói về việc “kết hôn với Christ” như cô dâu gắn kết với chú rể. Hoa hồng là máu Christ đã đổ để giải thoát họ khỏi nợ nần tội lỗi mà họ không thể trả. Điểm chung này dẫn họ tới cái gọi là “Cộng đồng” Liên hiệp.


Họ đi bộ rất xa khuân theo lương thực và đồ dùng, gần 200 người chưa tính cả trẻ em. Họ tới một nơi mới và dựng trại ở đó, bốn người được bầu ra làm đại diện quản lý của cải chung. Họ trải bốn chiếc áo xuống đất và “tất cả mọi người tự nguyện vứt xuống đó những gì mà mình có.”


Cộng đồng đầu tiên của người Anabaptist được hình thành và được chấp thuận cũng như hỗ trợ đặc biệt của lãnh chúa vùng nọ. Từ vài trăm người rồi tới vài nghìn. Trong 30 năm, con số lên tới 60,000.


Trước toà ở Zurich, họ bị lên án: “Những người này bảo rằng nếu là tín hữu chân thực thì cho và nhận tài sản tạm thời của nhau một cách miễn phí, ai cũng có quyền sử dụng mọi thứ. Họ nói vậy để thu hút quần chúng những người nghèo và người nhẹ dạ tham gia.”


Những người Anabaptist tuyên bố: “Anh chị em của cộng đồng này sẽ không có đất đai của riêng mình. Mà, cũng như thời các sứ đồ theo Chúa, họ có chung mọi sự. Đất đai của cộng đồng sẽ được coi là một mảnh duy nhất, nơi đó người nghèo sẽ nhận, mỗi người tuỳ theo nhu cầu. Không ai phải chịu thiếu.”


“Anh chị em hãy trao cả xác và hồn chính mình cho God trong cộng đồng của ngài. Mỗi món quà God tặng nên là của chung, ngoại trừ vợ hoặc chồng mình, cũng như thời kỳ đầu các sứ đồ.”


“Những ai bỏ cộng đồng và trở về tư hữu của cải cũng đồng nghĩa bỏ God, mất đi mối tình đầu, và trở thành kết thù của ngài, trộm lấy những thứ ngài cho. “


Những cộng đồng như thế không may thay có rất nhiều đã phải chịu bắt bớ và xử phạt nặng nề. 


Tình Yêu không biết làm gì ngoài chia sẻ. Họ chia sẻ một cách vui mừng bởi trái tim họ đã tức thời mở toang trước lẽ sống mới. 


Gabriel Ascherham, một lãnh đạo của cộng đồng Anabaptist lớn ở Moravia năm 1520 với khoảng 1200 người, đã viết:


“Những sứ đồ khi xưa ở Jerusalem không yêu cầu ai đưa ra tài sản. Nhưng khi họ nghe Tin Mừng và nước trời, họ tin và gia nhập. Họ đầy vui sướng và tim họ hướng tới những Phước lành từ Thiên quốc (heavenly blessings), nên họ coi những sở hữu Trần gian (earthly possessions) chẳng là gì cả. Tự nguyện, không cần phải ai nói, họ đi bán nhà cửa đất đai, đem tiền ấy đặt dưới chân những sứ đồ. Rồi những của cải ấy được phân phát tuỳ theo nhu cầu mỗi người. Cộng đồng của chung là một minh chứng cho Thiên quốc đã tới với họ.


“Giống như Christ, là yêu thương nhau trong mọi sự ở Trần gian này. Chúng ta không thể chỉ yêu bằng lời xuông mà bằng thực tế. Nếu ta có của dù ít hay nhiều, và thấy kẻ khác cần nhưng ta không chia sẻ những gì mình có - thì làm thế nào ta có thể sẵn sàng hy sinh cả mạng sống mình cho họ nếu cần? 


Những người Anabaptist tìm thấy lời hứa trong Cựu Ước về điều này, Peter Walpot viết:


Trong sáu năm, những người Israel có thể thu hoạch vụ mùa, nhưng đến năm thứ bảy họ phải để đó. Mọi thứ trên đất tuỳ ý bất kỳ ai tận hưởng, gia súc trâu bò cũng có thể ăn, chim muông hoang dã đến lấy. Nô lệ, người làm cũng được nghỉ và được phần. Bất kỳ ai cho vay thì không lấy nợ vào năm ấy. (Year of release). Đó là thời gian huy hoàng, như tiệc mừng đám cưới. 


Năm của buông xả, những ai đã là nô lệ cho gian ác thì được tha khỏi nó. Chúng ta ăn mừng bằng cách gộp chung mọi của cải God đã cho ta, thông qua tình yêu Christ, chúng ta chia vui bằng cách không khẳng định sở hữu bất kỳ cho riêng mình, và sẻ chia với mọi người lân cận. Cộng đồng như vậy không chỉ sống trong một năm thứ bảy mà luôn luôn là như thế. Luôn sống trong ân Phước. 


Nước trời, như Ambrutz Spittelmayr, trước khi bị chặt đầu năm 1527, đã viết:


“Không ai được thừa hưởng nước trời nếu không trở nên nghèo khó như Christ, con người đã chẳng có chỗ tựa đầu. Không có nghĩa anh phải vào rừng ngủ hay không có việc làm. Chỉ đơn giản là anh không nên nghĩ những thứ này là của riêng mình, chỉ mình mình được sử dụng, rồi nói: nhà này của tôi, đồng này của tôi, tiền này của tôi... Thay vì đó, anh nên nói: của chúng tôi, hay “của Cha Trời”.


Một tín hữu không nên có gì của riêng mình mà có mọi sự là của chung. Nói cách khác, tôi sẽ không làm việc để nhà tôi đầy ắp, bàn tôi đầy thịt, mà để những người khác có đủ.”


Wolfgang Brandhuber viết năm 1529:

“Nếu chúng ta có thể chia sẻ những điều quan trọng nhất (Đức tin vào Christ), tại sao lại không thể chia sẻ những thứ tầm thường hơn (của cải vật chất)?...”


Ulrich Stadler viết năm 1530:

“Giao ra đất đai, tài sản, mọi của cải của chính mình, vứt đi mọi tư hữu cá nhân, là một cuộc trao phó toàn diện, đặt bản thân chúng ta vào ý Ngài trong mọi sự.”


Berndt Rothmann viết:

“Hy vọng rằng tinh thần Gemeinschaft giữa chúng ta mạnh mẽ đến độ cộng đồng này sẽ thực hành được những điều chưa từng trước đây. Chứng ta không chỉ có chung tài sản mà còn có chung cảm hứng thiêng liêng, chung trái tim về God. Tất cả những gì trước đây chúng ta từng vì mưu cầu lợi ích và vật chất cho riêng mình, mua và bán, ăn và uống mồ hôi nước mắt của kẻ nghèo, dựa trên lao nhọc của họ mà vỗ béo thân ta - tất cả những điều ấy sẽ biến mất hoàn toàn giờ đây, bởi sức mạnh của tình yêu và cộng đồng.”


Michael Gaismair viết về nước của Jesus năm 1526:

“ Các thành phố sẽ sụp đổ, và chỉ còn làng quê. Rồi sẽ không còn phân biệt giữa con người, không còn ai hơn ai, ai quan trọng hơn ai. Bởi phân biệt giai cấp mà kiêu ngạo, tội lỗi nảy sinh.”


Hans Hergot viết: “Thời cựu ước là thời của Cha, Tân Ước là thời của Con, rồi tới thời của Thánh Linh. Trước khi thời Thánh Linh tới, sẽ có ba cái bàn trong xã hội. Bàn thứ nhất là sự dư thừa. Bàn thứ hai là vừa đủ. Bàn thứ ba là nghèo đói. Người ngồi ở bàn thứ nhất vẫn cố dành giật mọi thứ họ có thể lấy. Rồi God ra tay lật đổ cả các bàn, thế là mọi người phải ngồi cùng nhau ở bàn khiêm nhượng, vừa đủ (moderation).”


Peter Rideman viết:

“Những thứ trong tự nhiên được trao ban cho con người, tất cả chứ không chỉ một người. God tạo ta mọi thứ từ đầu, không muốn các thứ dưới quyền sở hữu cá nhân. Nhưng con người tội lỗi thay luôn khẳng định của mình. Con người tích luỹ mọi sự, và ngày càng rời xa khỏi God, để tôn thờ tạo vật chứ không phải Đấng Tạo Thành. Những gì ngoài tầm với của con người thì may thay vẫn là của chung: mặt trời, mặt trăng, các sao, không khí. Ý chí của God muốn thụ tạo phải nên như vậy, chung chia mọi điều.”


Peter Walpot nói: “Của tôi, của anh là nguyên nhân gây ra mọi tranh chấp, chiến tranh bắt đầu từ đó. Người ta trở thành nô lệ của sở hữu và bạn bè của thèm muốn. Như đất không bao giờ có thể uống đủ nước, lửa không bao giờ nói “đủ rồi”. Có càng nhiều, muốn càng nhiều. Của tạm cần phải được xem là những thứ công cụ nguy hiểm.”


Cộng đồng của những người Anabaptist rơi vào bức hại liên miên. Nơi tập trung hơn 25 cộng đồng cùng lúc bị thiêu rụi. Lương thực, vật nuôi, đồ đạc bị cướp đoạt. Đàn ông bị hành hình đủ kiểu, phụ nữ và trẻ em bị ngược đãi, bán làm nô lệ. Cộng đồng Anabaptist khắp Châu Âu dần tan rã, những người còn sống chạy trốn đây đó. Họ không thể sở hữu ngay chính mạng sống mình. 


Song ngay cả những khi ấy, đòi hỏi cao nhất của tình yêu vẫn không chết. Miễn là những người Anabaptist vẫn sống trong liên hiệp với Jesus. Họ vẫn chung chia những gì mình có, và Jesus chỉ đường.

Monday, June 30, 2025

C93: Anabaptist 1

The Secret of Strength - Peter Hoover 


Chương 1: Người đàn ông bị treo bằng ngón cái (A man hanging by his thumb)


Mặt trời rọi trên Klundert, đồng bằng xanh ngát trải dài. Khách tham quan ghé Klundert chụp ảnh, những cánh đồng hoa và rau màu mỡ. Những con mương thẳng tắp cắt ngang qua những cánh đồng cho đến khi chúng quên mình ở đường chân trời. Du khách nói: "Chúng tôi thích nơi này, quả là thanh bình." 


Nhưng có nhiều điều mà du khách không biết.


Klundert, một ngôi làng nhỏ của Dutch đã từng đẫm máu. Máu của những người Anabaptist đã từng đổ tại nơi này. Trong suốt những năm giữa của thế kỷ 16, để trốn khỏi những cuộc bách hại, những người Anabaptist đã lẻn tới những cánh đồng này và gặp nhau trong bí mật. Đôi khi, họ tụ họp trong nhà của ông Elsken Deeken hay Jan Peetersz, những người hầu cận (servant) của Ngôi Lời (the Word). 5 tháng 8 năm 1571, khoảng một trăm người Anabaptist gặp nhau tại nhà Peetersz ở Klundert. Họ tới từ những thành phố hay khu vực lân cận. Một cặp đôi đương chuẩn bị làm đám cưới ngày hôm đó. 


Thị trưởng và tùy tùng đã nghe tin tức về những người Anabaptist đang tập trung tại chỗ nọ bèn gầm lên: "Ta sẽ nhổ sạch cái tổ đó và tống tiễn tất cả bọn chúng!" Hai lần liền ông ta sai do thám tới nhà Peetersz nghe ngóng. Do thám đã nghe thuyết giảng và thấy rất nhiều ngọn nến được thắp sáng sau 9 giờ khuya. Thế là thị trưởng và đội binh ập tới với gươm và súng. Họ quơ trái, tóm phải... Nhưng hầu hết những người Anabaptist đều sẵn sàng cho bất cứ sự tình nào tương tự. Họ trốn lên tầng trên, và trốn qua một lỗ trên mái nhà, hoặc lẩn vào góc nơi bức tường có lối thoát hiểm. Chỉ có 6 người đàn ông và vài phụ nữ bị bắt, trong số đó có một cậu bé 16 - 17 tuổi. Những người phụ nữ trốn được bằng cách nào đó. Họ tịch thu tài sản và nhà đất của tất cả những người ấy. Sau đó họ tuyên cáo: "Những người này không rửa tội cho trẻ nhỏ, không tin Christ được sinh từ đức mẹ đồng trinh, họ tự coi mình là bầy vượt trội, được tuyển chọn bởi God..."


Peter người thợ may đã chấp nhận chối bỏ "mê tín" nên được tha, còn lại phải giam chờ ngày hành hình. Một người bị trói và quật, một người bị kéo phanh thây, người khác phải há miệng ra để bị tiểu tiện vào, Geleyn Cornelis là tệ hơn cả. Họ lột trần truồng ông và treo ông lên trần nhà bằng chính ngón cái tay phải, cộng thêm một quả tạ vào bàn chân trái. Rồi họ cạo lông và đốt bộ phận nhạy cảm bằng nến, và tra tấn liên tiếp cho đến khi bất tỉnh hoàn toàn. Nhưng họ không buông tha: "Làm tiếp cho đến khi hắn phải khai!" Cuối cùng tất cả bị thiêu trên giàn lửa. Gió bỗng thổi ngược nên lính phải lấy chiếc kều đẩy họ vào lửa mới thiêu được.


Từ ấy vùng Klunder không còn bóng người Anabaptist nào.. Đây là những điều mà du khách ngày nay không biết. 



Chương 2: Bí mật của sức mạnh ấy là gì?


Từ nhỏ, tôi đã được kể về những người Anabaptist từ chính cha ông mình. Câu chuyện về người đàn ông bị treo bằng ngón cái được kể từ lúc tôi chưa vào lớp 1. Tôi không thể quên ngày hôm đó, khi tôi là một đứa trẻ đang ngồi trên đùi ai đó và nghe người lớn kể với nhau câu chuyện này. Tôi sống đến bây giờ và nhìn nhận một cách sâu sắc thử thách đặt lên chính mình bởi tổ tiên tôi, là những người Anabaptist. 


Chỉ trong 30 năm đầu khởi sự, từ những người Anabaptist đầu tiên ở Thụy Sĩ (Switzerland), dần lên đến hàng ngàn, trăm ngàn người theo đó, và họ đều đối mặt với sự bức hại cay đắng nhất. Vào năm 1525, 2 tháng sau khi Conrad Grebel được rửa tội, ông đã lập tức "rửa tội lại" cho vài trăm người ở sông Sitter, vùng Sankt Gallen, Switzerland. 10 năm sau đó, cuộc vận động mang tên Anabaptist (Rửa tội lại) lan ra khắp nơi trên lãnh thổ Đức (German). Toàn miền nam nước Đức được ghi nhận đã cải đạo theo Anabaptist lúc bấy giờ. Ở Moravia, các cộng đồng Anabaptist lên tới 60,000 người. Ở Netherlands, Belgium, Lower Rhine, Holstein, biển Baltic, phía đông Prussia... Anabaptist bùng nổ.


Phải chăng bởi gặp gió?


Không. Bởi cũng cùng những năm đó, không thể đếm nổi những người Anabaptist chịu tù đày, trục xuất, tử hình từ nhà thờ Công giáo La Mã (Roman Catholic) và chính quyền. Họ bị thanh sắt nung đỏ đâm vào chân, lưỡi bị đóng đinh vào hàm, ngón tay bị chặt, người bị buộc thuốc súng vào mồm cho nổ, kẻ bị chặt đầu, dìm chết, chôn hoặc thiêu sống, đủ kiểu hành hình được ghi lại mà độ dã man khiến người ta rùng mình. 


Cuộc vận động Anabaptist khai sinh từ một thành phố mang tên Zurich, nó nhanh chóng phát triển ra các thành phố lớn khắp trung Âu: Strasbourg, Augsburg, Regensburg, Salzburg và Worms. Không lâu sau, lan đến Aachen, Gent, Utrecht, Amsterdam, Emden, Hamburg, Lubeck, Danzig, Kaliningrad ở đông Prussia. Trên đường phố lúc đèn mờ, trong quảng trường nơi hành hình trước công chúng, khắp nơi. Những cộng đồng theo đạo Thiên Chúa (Christian) thành hình trong tình yêu đã liên hợp (unite) họ - Nước Trời (Kingdom of Heaven) đã đến Trần gian (Earth).


"Bí mật của sức mạnh ấy là gì?" Một người phụ nữ hỏi. Họ đã đạt được cả vinh quang và thất bại tột cùng. Họ bắt đầu bằng ánh sáng tuyệt vời từ trời cao, trong đức tin chân thật, tự thân mỗi người. Họ đã từng tự do ngay cả trong tù ngục, thoát khỏi mọi ngục tù vật chất trần gian này. Cùng lúc ấy họ đã chết thê thảm như chính Jesus Christ, người mà họ tôn thờ. Sức mạnh ấy bắt nguồn từ đâu? Chính tôi cũng tự hỏi. 


Kỳ lạ! Không có học vấn, không có lãnh đạo, không có nhà thờ, không có tập sự bài bản, không kinh nghiệm, không truyền thống, bao yếu điểm trong lý thuyết và tín điều của họ. Nhưng nó lay chuyển toàn Châu Âu như thời kỳ đầu của "Công vụ các sứ đồ".


400 năm sau đó, tôi lớn lên với ý thức thường trực về "di sản Anabaptist" rực rỡ của chúng tôi. Khi còn bé, tôi luôn tự hỏi làm sao mà tổ tiên mình có thể như vậy. Tôi và các anh chị em nghe cha mẹ mình kể về những người Anabaptist trong suốt những đêm đông dài. Chúng tôi nhìn họ trên những tấm khắc mộc không tô vẽ hay sơn màu trong nhà chung của cộng đồng nơi để hát và cầu nguyện. Luật của chúng tôi là không bao giờ chú trọng hình thức và những sự thuộc về thế gian (worldly things). Vì vậy đồ vật trong nhà cũng không bao giờ sơn mà chỉ toàn là thô mộc. Người không trong cộng đồng của chúng tôi gọi chúng tôi là những người nhạt nhẽo (plain people). Chúng tôi không khác với thế hệ vài trăm năm trước là bao trong phong cách sống.


Giờ tôi bắt đầu cảm thấy một sự so sánh khá thú vị về một nhân vật trong Kinh Thánh là Samson. Sau khi Samson đã mất đi sức mạnh và bị mù. Nhưng rồi bí ẩn nào đó khiến sức mạnh của Samson trở lại. Chúng tôi cũng vậy, điều gì xảy ra nếu một vài người "nhạt nhẽo" bắt đầu nhớ lại - hay khai phá ra bí mật của sức mạnh mà tổ tiên họ đã từng mang? Những cộng đoàn người Mennonite, Amish, Hutterite rải rác khắp nơi có đến triệu người, liệu cơ bắp họ sẽ cuồn cuộn, xiềng xích sẽ rơi xuống, và những cột trụ của đền thờ ngẫu tượng giả tạm ở trần gian (Idol's temple) sẽ rung chuyển?


Điều gì sẽ xảy ra? Trong cuốn sách này tôi muốn để những người Anabaptist đầu tiên trả lời cho câu hỏi đó. 



Chương 3: Người phụ nữ sinh con trong ngục


Năm 1637, họ bắt được người truyền giáo Hans Meyli ở Horgerberg tại chân núi Alps, phía nam hồ Zurich, Thụy Sĩ. Họ tống giam ông nhưng sau 43 tuần ông trốn thoát. 30 thợ săn Anabaptist được treo thưởng nếu tìm thấy ông và chuyện phải đến đã đến. Họ ập tới nhà nơi ông và gia đình đang trú ẩn, ập tới với gươm giáo, bắt được gia đình ông gồm hai con trai và vợ của họ. Tất cả đều bị bắt, đứa bé 14 tuần tuổi mới sinh là cháu nội bị giật khỏi tay Anna là mẹ nó và đưa đi. Họ bị bắt giam nhiều ngày song bằng cách nào đó họ đều trốn thoát. Anna mang thai lần nữa và lần này lại bị bắt, chỉ gần đến ngày sinh con ơn sao thoát được. Người phụ nữ tên Anna (Baer) Meyli này là tổ tiên của tôi, 11 thế hệ trở về trước.


Chúng tôi sống giữa 25 chi phái Mennonites và Amish trong một hạt đông đúc ở miền nam bang Ontario. Dấu vết về Anabaptist đều hiện diện quanh đây. Mỗi nhóm đều khẳng định mình là một hậu duệ của "di sản Anabaptist". Khoảng những năm 1950, làng của cha mẹ tôi (đã phân tách ra khỏi một làng khác từ năm 1917) trải qua một khủng hoảng nội bộ lớn. Cha mẹ tôi lại đại diện lập ra một làng khác, mà tôi được sinh ra trong ấy. Khi tôi 13 tuổi, chúng tôi lại rơi vào chia tách và hai năm sau thì biệt lập hẳn. Khi tôi lớn lên thì cha mẹ đã không còn tham dự vào các buổi cầu nguyện chung. Cha tôi nói về việc sẽ đi khắp miền đông nước Mỹ để thăm tất cả các nhóm song chúng tôi không mấy hy vọng về việc tham gia vào nhóm làng nào. Suốt cuộc đời, chúng tôi đã chật vật liên miên với những vấn đề thuộc về lối sống - nên cho phép điều gì hay từ chối điều gì, bởi nó "worldly" (vô thường - thuộc về thế gian) hay thuộc về ma quỷ. Cha mẹ tôi không bao giờ thuyên chuyển đức tin Anabaptist lâu đời.


Một chiều mùa đông năm 1975, có một quý ông người thành phố từ Canana đi ngang qua chuồng ngựa nơi tôi đang dọn dẹp. Xe ông táp vào lề đường và kẹt tại đó. Ông cụ tặng tôi một số tiền kha khá, và tôi bắt đầu dùng nó để mua sách, tất cả những cuốn nói về người Anabaptist - Mennonite. Dần dà tôi được càng nhiều người cho sách và giới thiệu vào học viện Mennonite, gặp một giáo sư chuyên nghiên cứu người Anabaptist, ông cho tôi nhiều tài liệu và hướng dẫn tôi sau này. Tiếp đó, tôi gặp một người trở về từ thế chiến II, ông có một kho báu quý hiếm những trang viết cổ của người Anabaptist bằng tiếng Đức chưa từng được dịch. Từ đây tôi bước vào lãnh thổ tinh thần xưa cũ... Từ đó mà cuốn sách này thành hình.


Tôi bắt đầu thấy một ánh sáng mới kỳ lạ trên những người sẵn sàng chết với đôi mắt rạng rỡ. Từng chút một, tôi bước tới niềm tin rằng một ngày nào đó, "gió sẽ thổi và trời sẽ quang đãng sáng ngời, khi tôi đi ... đi ... trên con đường mới.


Con đường mới này dài và gian khó hơn tôi tưởng. Nó mang tôi đến nơi mà tôi không định tới. Nó mang tôi từ nơi trốn ổn định lâu bền đến chỗ không chắc chắn, chẳng biết nên đến đâu hay với ai. Nó mang tôi đến cô độc, nghèo khó, nơi tất cả đều nghèo bình đẳng. Tôi bước vào một thế giới đáng sợ, với những con người trần gian đáng sợ, với những ghét bỏ và chối từ, kiêu ngạo và độc đoán, một thế giới tàn nhẫn mà tổ tiên tôi cũng từng đối mặt.



Chương 4: Nguồn Gốc


Từ Parthia, Media, Elam, Babylon, Cappadocia và những nơi thuộc quản của Judea, nhà cai trị tin vào Christ, Thiên Chúa Giáo lan ra đến Hy Lạp. Sau cuộc hoán cải của sứ đồ Paul, hàng trăm hàng ngàn ngời Hy Lạp dưới thời Alexander đã cải đạo. Những kỹ sư, luật sư, bác sĩ, những người có học ở Hy Lạp bắt đầu sùng đạo và trở thành những tín hữu Chúa. Hy Lạp trước đó đầy rẫy những tệ nạn đạo đức, song cuộc chuyển đổi tôn giáo đã biến Hy Lạp thành lãnh thổ của Tin Lành. Tiếng Hy Lạp (Greek) là thứ tiếng của thế giới lúc bấy giờ, đạo Thiên Chúa đã được truyền tới Syria, Ai Cập, và tiểu Á bằng tiếng này. Sứ đồ Paul cũng đã viết những lá thư bằng tiếng Hy Lạp. 


Khi sự ảnh hưởng của Hy Lạp đi xuống, đế chế phương tây là Rome lên ngôi, tiếng Latin đi vào thống trị. Những người truyền đạo dùng tiếng Latin ở Italy và Châu Âu nói chung. Thiên Chúa Giáo lan ra khắp nơi, tới Anh, Ireland, Spain, Portugal, Pháp...


1800 năm trước Công Nguyên, những nhóm người nọ đã vượt Mesopotamia, qua Persia và Ukraine, qua cả Châu Âu rồi đến biển Bắc, nơi họ dừng lại và họ tự gọi mình là Teutsch (German).


Những người Đức (German) đầu tiên sống bằng săn bắn hái lượm, họ cũng trồng vài hoa màu. Họ được coi là những thổ dân của Châu Âu ("Indians of Europe). Họ thích nghi với những cánh rừng lạnh và những vùng đất ẩm ướt dọc bờ biển Âu, họ cư ngụ khắp nơi trong Rừng Đen (Blank Forest) và trên những ngọn núi Swabia. Những người Vikings đi đánh chiếm Scandinavia, lãnh thổ của nước Anh, đến Nga, Italy, và châu Á  

Những kẻ xâm lược man di này không quan tâm đến tiếng Latin hay văn hóa Hy Lạp. Họ tàn phá và giết chóc vô số. Tình cờ là họ đã mang về một đứa trẻ trong số nhiều đứa trẻ khác, làm thay đổi hoàn toàn cục diện. Đó là khoảng thời gian Constantine đệ nhất, Đức đánh chiếm vùng Cappadocian (Thổ Nhĩ Kỳ) và đem về một cậu bé tên là Ulfilas.


Ulfilas không như những đứa trẻ khác, không sợ hãi. Qua chặng đường dài gai góc, cậu học tiếng Đức và bắt đầu nói chuyện với những người Đức về Christ. Cậu bé này đã thuyết phục được từ già đến trẻ, đàn ông phụ nữ, những thổ dân Đức đã say sưa lắng nghe cậu. Trái tim họ hưởng ứng câu chuyện về Christ. Từng người một bắt đầu tin và hoán cải. Ulfilas rửa tội cho họ bằng nước. Chẳng bao lâu, Tin Mừng lan khắp Đức. Ulfilas dùng chữ cái Hy Lạp và Latin mà mình biết để sáng tạo ra một bảng chữ cái Đức dành riêng cho họ, dạy họ tự phiên dịch Kinh Thánh từ tiếng Latin sang tiếng Đức. Năm 341 sau Công Nguyên, Ulfilas trở về quê hương mình ở Châu Á. Người ta gọi Ulfilas là sứ đồ của những nước nói tiếng Đức.


Constantine với tầm nhìn lớn đã đồng bộ hóa nhà nước Roman với các nhà thờ đạo Thiên Chúa, biến Thiên Chúa Giáo trở thành công giáo có tổ chức trên toàn Châu Âu và tương lai là toàn cầu. Ông triệu tập các học giả, linh mục, tất cả những ai có khả năng để khiến điều này đi vào lịch sử. Những giáo điều mới được sửa đổi khác đi so với thời kỳ đầu công nguyên. Theo đó những điều không thuộc về "quy ước mới" của Giáo hội thì bị coi là "dị giáo". Nước Đức cũng không tránh khỏi cuộc cải cách tôn giáo này. 


Nhà thờ công giáo chính quy, với tất cả những mặt trái tiêu cực của giới chức sắc, tuy vậy đã mở đường cho Châu Âu nói chung và nước Đức nói riêng tới đời sống tôn giáo. Người ta bắt đầu vào những tu viện, và sùng mộ đời sống tinh thần. Những nhà thờ mọc lên ở khắp nơi. Đây một tu sĩ người Đức - Martin Luther, kia một mục sư Menno Simons - người sau này trở thành Anabaptist. Johannes Gutenberg, một thợ kim hoàn người Đức phát minh ra máy in, năm 1455 ấn bản in toàn bộ cuốn Kinh Thánh ra đời. Máy in đã cách mạng hóa học vấn, phổ cập tri thức cho toàn nước Đức. 


Những người Anabaptist xuất hiện kể từ đây.



Chương 6: Về Jesus


Với những người Anabaptist, theo Jesus không chỉ là vâng theo, không chỉ là chết vì ngài, mà là hiểu biết ngài, sống giống như ngài hay như những môn đồ đầu tiên của ngài. Như lời sứ đồ Paul trogn Phillippian 3:10. Trong tiếng Hy Lạp, từ "koinonia" dịch ra tiếng anh là "fellowship", tiếng Đức là "Gemeinschaft". Với những người Anabaptist, từ này vô cùng quan trọng cả trên nghĩa tinh thần lẫn vật chất. (Acts 2:44 / 4:32, 1 John 1:7. Những người Anabaptist thích dùng từ này thay từ "nhà thờ" (church).


Peter Rideman đã viết trong ngục vào năm 1540:


"Khi chúng ta lắng nghe Tin mừng và muốn giống như vậy, chúng ta tiến nhập vào cộng đồng (community) của Christ, như lời sứ đồ John (I John 1:3): "Điều mà chúng tôi đã thấy nghe, chúng tôi tuyên bố với anh em, để anh em có thể Hiệp Thông (Gemeinschaft) với chúng tôi, và chúng tôi liên giao (Gemeinschaft) với Chúa Cha và Chúa con, Jesus Christ, người đã cho chúng tôi mọi điều người nghe biết về Cha người."


Liên Thông (Gemeinschaf) không gì hơn là có chung mọi sự với người mà chúng ta gắn kết từ bên trong. Đó là không giữ bất cứ điều gì cho riêng mình, mà chia sẻ tất cả những gì mình có với người - như thể Cha không giữ gì cho riêng mình mà cho Con tất cả, và người con cũng không giữ gì cho riêng mình mà chia sẻ mọi thứ từ Cha cho những ai hiệp thông với người.


Những ai trong Tình Hiệp Thông (Gemeinschaf) với Christ thì làm theo tấm gương ngài và không giữ gì cho riêng họ. Họ có chung mọi sự với ngài, và với tất cả những ai thuộc về Liên Hiệp (Gemeinschaf) của ngài.


Với Jesus, Liên Hiệp này chỉ tới với những cái giá lớn lao. Đây là một món quà của God, nhưng người ta phải trả những cái giá khôn lường. Với những người Anabaptist, Hiệp Thông với Jesus có thể phải đánh đổi bằng vợ chồng, con cái, cha mẹ, phải trốn chạy hay hành hình. Vinh quang của những ai chung chia thương khó của ngài, sẽ rọi sáng ngay cả trong ngục tù tăm tối nhất. Nó là thứ ánh sáng nằm ngoài trần thế, rực hơn cả những ngọn lửa trên giàn thiêu. Là thứ ánh sáng mở ra thiên đàng và cho người ta thấy ngay lúc đó, trong tầm tay với, là niềm hoan hỷ không thể nói nên lời về Tình Bằng Hữu (Fellowship) nơi trời mới đất mới, nơi sự công chính ngự trị (dwell).


Hiệp Thông với Jesus, với những người Anabaptist, là lời hứa về nước Trời. Một người Anabaptist ở miền nam nước Đức viết:


"Cha trên cao đã lo cho chúng ta tất cả, nếu chúng ta thương khó với Jesus và quy phục chính mình đời này, và không ngừng cố gắng để bước vào Liên Hiệp của Ngài. Ngài đã đánh dấu con đường ta nên đi, để ta không đi lạc. Vì vậy, tín hữu, hãy cùng nhìn gương Jesus đã bước đi như thế nào, thì chúng ta cũng sẽ giống ngài trong Tình yêu và Đau khổ. Hãy để chúng ta giữ giao ước với ngài. Máu ngài chúng ta uống, thịt ngài chúng ta ăn, phải hiểu là: để chúng ta cũng sẽ như ngài trong liên kết mà God đã mở. Ngài là cộng đồng linh thiêng - trên trần gian, và chúng ta là những người bạn đồng hành, là công việc, tình yêu của ngài trên trần thế.


Vì vậy hãy tới! Tất cả những tín hữu sơ sinh! Hãy tới với Chiên Con - Chritst trong Lễ Vượt Qua (Passover), bằng tấm chân thành, để dự phần nước Trời và Liên Giao vĩnh viễn!"


Những người Anabaptist đi xa hơn việc tôn thờ cây thập tự gỗ, Đức mẹ đồng trinh, hay những vị thánh thời quá khứ. Họ tự do cầu nguyện trực tiếp với Jesus. Họ không vướng vào những giáo lý "sửa đổi" của loài người trong thời Cải Cách Tôn Giáo, họ cầu nguyện với Chúa Cha hay với anh (Jesus). Đây là một tội phạm thượng trong nhiều tội khác mà giáo hội đã gán cho họ. Trên đường đến với Hiệp Thông, họ bước qua cửa tử không chút chần chừ.


"Ôi Christ, hãy giúp người của ngài!" Michael Sattler khóc lớn trước khi bị cắt lưỡi và hỏa thiêu trên cột, năm 1527

"Ôi đức Christ từ trời cao, tôi ngợi ca ngài vì đã lấy đi đau buồn của tôi trước khi chết!" Felix Manz kêu lên trước khi bị quăng xuống hồ băng Limmat, năm 1526.


Jesus là người hùng, người bạn, người anh của những người Anabaptist. Một người vô danh trong những tuyển tập lưu lại của người Anabaptist viết:


"Nhìn kìa hiệp sĩ Jesus đã tới! Chỉ huy đã tới! Trận chiến mà chúng ta đối mặt đầy khốc liệt. Kẻ thù chúng ta - là trần gian này - là xác thịt, tội lỗi, ma quỷ, và sự chết. Nhưng chỉ huy đã vượt qua tất cả, đánh bại tất cả. Hãy tới bên ngài để được giúp đỡ. Hãy phất cao ngọn cờ, đừng để kẻ thù bắt ta khỏi tay vị chỉ huy ấy. Nếu ta muốn vinh quang chiến thắng, ta phải chịu đựng và chết cùng ngài. Họ đã bắt Christ, đánh ngài, giết ngài. Cũng như vậy họ xử tệ với chúng ta, săn giết chúng ta, chặn đường ta. Tất cả những bạo lực này đã và sẽ đến. Nhưng hãy đợi, chỉ huy sẽ tới, ngài sẽ phá vỡ sức mạnh của kẻ thù, và sẽ đứng bên đàn chiên nhỏ!


Hỡi tất cả những hiệp sĩ (knights) của God, hãy mạnh mẽ! Hãy chiến đấu! Cơn bão không lâu sẽ qua đi. Hãy vững tin! Đứng lên đối mặt với sự chết! Đừng sợ hãi. Đàn ông và phụ nữ, hãy tin vào God!"


Học bằng việc hành. Nghe thì dễ, nhưng "làm như Jesus đã làm" thì không dễ. Hans Schlaffer là một linh mục Catholic Roman ở Austria. Ông trở thành một Anabaptist vào ngày 5 tháng 12, 1257 trên đường về nhà, ông tình cờ dự một buổi gặp lén của những người này. Ông bị bắt và đêm trước khi bị chặt đầu, ông viết: 


"Ôi God, khai sáng bởi lòng Ngài. Ai tin Jesus thì phó thác chính mình cho ý God. Jesus đã khước từ bản thân và nhận lấy cái chết. Ôi God, bất cứ ai sống trong Christ đều chịu khổ và chịu chết để được phục sinh với ngài trong vinh quang nước trời. Đây là Linh Thánh! Đây là cách chúng ta hiểu về Đức tin (Faith). "


Ambrutz Spittelmayr, một linh mục cải đạo theo Anabaptist, trước khi bị hành hình ở Ansbach, viết:

"Tất cả những ai nên một với Jesus qua lời thiêng của ngài phải hiểu. Jesus là đầu, cái đầu đã khổ thì toàn bộ chi thể chân tay và các bộ phận khác cũng phải như vậy. Jesus Christ là con người bằng xương bằng thịt. Lạy God, trong giờ chết của xác thịt tôi, là sự sống vĩnh hằng!"


(Sở dĩ người Anabaptist trở thành đối tượng căm phẫn của Chính giáo và Chính quyền là bởi họ luôn đề cao sự từ bỏ cá nhân, họ cho rằng các tín hữu không nên sở hữu tài sản, nhà đất, tất thảy những gì thuộc về trần gian. Họ không tôn trọng tiếng nói của nhà thờ chính tòa. Họ đảo lộn trật tự xã hội vốn luôn coi những của cải, địa vị, giàu sang quan trọng hơn tất cả. Người Anabaptist đã "cực đoan hóa", "lý tưởng hóa" về đức tin của họ, trong một xã hội nơi kẻ cầm quyền sợ nhất việc mất đi quyền lực. Ở họ có lý tưởng sâu sa của chủ nghĩa cộng sản.)


-


Chương 7: Về Tội Lỗi


Thành phố lâu đời của Đức là Schwabisch-Gmund ẩn mình trong những rặng núi Swabian Alp. Người Roman biết địa điểm này từ những năm 1230 và nhà thờ cùng cây thập tự đã quen thuộc với dân chúng nơi này từ đó. Một người đàn ông trẻ tên là Martin đến từ Bavaria là một nghệ sĩ chuyên vẽ tranh cho thành phố Augsburg ở Bavaria. Martin bị trục xuất khỏi Augsburg vì tội tham gia giáo phái "mê tín dị đoan" (sect) của những người Anabaptist.


Martin trở nên nổi tiếng trong thành phố Gmund giữa những người trẻ tuổi. Martin làm thơ và hát, gõ cửa từng nhà để mời gọi người ta đi theo Jesus. Sự chân thành của Martin đã khiến cả trăm người trong thành phố cải đạo theo Anabaptist, cho đến một ngày mùa đông năm 1529. Giữa buổi hành sự, Martin bị bắt quả tang đang "lừa đảo" trẻ em, thanh niên, người nghèo.... Những người vô tội được thả còn Martin phải tạm giam đợi xét xử. Những người yêu mến đã cố gắng hết sức để bênh vực Martin, họ trèo tường vào ngục, xin với lính canh để được gặp Martin, họ thậm chí còn cùng hát trong tù. Martin bị buộc tội lạm dụng tình dục phụ nữ và thiếu nữ. Martin không có gì để thú nhận ngoài việc ham muốn duy nhất là sống đúng như Jesus. Tội trạng lớn nhất của Martin (từ quan điểm của chính quyền) là việc "dụ dỗ dân lành để trục lợi tài sản cho bản thân". Vì chủ trương Anabaptist cho rằng tín hữu nên chung chia mọi tài sản vật chất cũng như tinh thần trong Liên Hiệp với Jesus. 


4 tháng 12 năm 1528, họ mang 7 người bao gồm Martin ra tử hình trước công chúng để làm gương cho thành phố. Trong 7 người có một người là phụ nữ và một cậu bé là con trai ông xay lúa. 7 người này cứng đầu nhất thiết không chịu từ bỏ tín điều. Họ bị giải đi bằng xích sắt từ nhà giam tới cánh đồng băng ngoại thành. Quý tộc, lãnh chúa, quan tòa, các công dân trong thành phố đều đến xem. Trong đám còn có trống và kèn inh ỏi. Lính canh làm thành một vòng tròn và ở giữa là những tội nhân khốn khổ. Bỗng nhiên có tiếng hét của cậu bé con ông xay lúa. Tiếng cậu lớn hơn cả tiếng trống, to rõ vang lên: "Hãy từ bỏ tội lỗi! Quay về với God! Ngoài Jesus Christ người đã chết trên thập tự, không còn đường nào khác tới thiên đàng." 


Một số người trong đám xem hét lên đáp lời: "Can đảm lắm cậu bé mạnh mẽ!" Một quý tộc nhân hậu không thể chịu được cảnh này nữa bèn tiến vào vòng vây và lớn tiếng than: "Con trai ta, hãy quay đầu khỏi lỗi lầm đang phạm phải. Đừng để chết uổng một đời trai trẻ! Con đang đánh đổi điều gì vì nó? Ta sẽ đưa con về nhà, lại đây với ta. Ta cho sẽ cho con thừa kế gia sản, coi con như con ruột hết đời này. Con có rất nhiều điều tốt đẹp tương lai phía trước. Lại đây, ra khỏi đó và trở thành con trai ta!"


Nhưng cậu bé dõng dạc thưa: "God không muốn con làm vậy. Liệu con nên chọn một đời trần gian và từ bỏ God? Không! Của cải của ngài không thể giúp cho ngài hay cho con đâu. Con chọn của cải lớn hơn sau cùng. Con xin nộp Tinh Thần con cho God và Jesus, để khổ nạn của Jesus không phải là uổng phí."


Cả 7 người đó đều bị chặt đầu và một nỗi sợ hãi lớn lao bao phủ khắp dân chúng. Có người thấy những tia sáng trong đài phun nước vào đêm hôm đó và nghe những giọng hát của thiên thần...


Jesus là vị tử đạo đầu tiên, ngài đã khước từ cuộc đời dễ dàng, vinh quang trần thế, bước đi không chần chừ tới cái chết tủi nhục bởi trong tim ngài có sự bình thản đinh ninh rằng điều ngài đang làm là điều phải. Những người Anabaptist cũng có một sự đinh ninh như thế. Và họ có thể gọi những lãnh đạo tôn giáo thời ấy là "Caiaphas" hay chính quyền là "Pilate". 


Menno Simons, một trong những người gây ảnh hưởng lớn tới Anabaptist viết: "Chỉ mình Christ là bậc cai trị của lương tâm, hãy để ngài là quốc vương, và lời ngài là Luật lệ. Hãy vâng theo God trước khi vâng theo các đại đế trần gian, và quan trọng lời God hơn cả."


Điều này hiển nhiên làm rúng động mọi thể chế lúc bấy giờ. Điều gì xảy ra nếu dân chúng không vâng theo những người có thẩm quyền, xã hội sẽ đảo lộn đến mức nào? Nếu người ta được tự do tin vào những điều mình muốn, tự do vâng theo những điều họ muốn vâng theo?


Khi nào đó, có một "nước trời bên trong" đã chạm tới những người Anabaptist. Như sự hoán cải tinh thần một cách rõ ràng, tỏa rạng trên gương mặt cậu bé con ông xay lúa, như những người đã có thể nói về God bằng cái giá của đời mình. 

  




Thursday, June 26, 2025

C92: Mục Đích Tiếp Nối

Chương 92: Mục Đích Tiếp Nối 

Mục đích của sự sống này, của tất cả những lo toan vụn vặt thường ngày hay lo lắng lớn lao, tất tật những gánh nặng hay nhẹ buộc ràng vật chất lẫn tinh thần ai ai, mà mỗi người từ khi sinh ra đã nhận lấy - cái bổn phận phải đi hết con đường đời mòn mỏi những dấu chân này, là gì?

Tín đồ New Age bảo rằng đó là Tiến Hoá để dần trở thành Đấng Sáng Tạo, Phật Tử bảo đó là Tu Tập để thành Phật, Con Chiên bảo để được Cứu Rỗi... khỏi sự mỏi mòn lặp lại khổ đau trong cái lốt sướng vui tạm bợ.

Sách “The Secret of the Strength” của tác giả Peter Hoover nói về những người Anabaptist vào khoảng thế kỷ 15-16 có đoạn:

Năm 1527, hai năm sau sự xuất hiện đầu tiên của phong trào Anabaptist (những người rửa tội lại) ở Thuỵ Sĩ, công chúng đã đồn đại về bí mật của họ. Người ta đồn rằng những người Anabaptist có một thùng phép thuật chứa đầy dung dịch phù thuỷ, thứ nước mà đến quỷ cũng chẳng biết là cái quái gì. Những người Anabaptist bắt những ai theo họ uống thứ nước ấy, mà dù chỉ một ngụm nhỏ thôi cũng đủ để thay đổi cuộc đời kẻ ấy hoàn toàn. Cái đầu kẻ ấy bỗng trở nên cực đoan nghiêm túc, không bao giờ có thể làm những gì mà trước giờ vẫn làm nữa. Không tiền bạc, không lợi ích nào mà đời đưa ra có thể mang kẻ đó trở lại là người như y đã từng là. Một khi đã uống phù phép, kẻ nọ sẽ chết trước khi từ bỏ những tín điều kỳ lạ của mình.

Năm 1527, ở trong tù, trước khi bị chặt đầu tại Rattenberg, Leonhard Schiemer đã trả lời cho câu chuyện trên rằng:

“Hỡi công chúng vô đạo, hãy nghe tôi nói đây. Các người đã đúng, chúng tôi đều phải uống từ chiếc cốc phù thủy, và hẳn nhiên là ma quỷ chẳng biết cái quái gì trong đó. Các người cũng vậy! Nhưng nếu các người muốn biết, thì tôi sẽ tiết lộ thành phần bí mật của thứ nước ấy ngay đây! 

Sự thật là bất cứ ai đã nhấp dù chỉ một ngụm cũng đủ để thay đổi hoàn toàn! Bởi thứ nước ấy được làm từ không gì khác ngoài sự đánh gục, xay nhuyễn, vò xé một trái tim đau khổ đã bị nghiền nát trên thập tự giá. Đó là thứ nước mà người anh thân thương, người bạn của chúng tôi, Jesus Christ đã uống, nước làm từ dấm chua và mật đắng!

Ấy cũng là thứ nước mà người đã uống trong vườn cây, khiến người đổ mồ hôi máu, ớn lạnh run rẩy và ngất lịm. Quả thực, thứ nước ấy vô cùng kinh khủng, không ai uống phải mà không khiến người lân cận nhận ra kẻ ấy đã thay đổi hoàn toàn. 

Bất cứ ai nhấp một ngụm từ chiếc cốc ấy, dĩ nhiên sẽ từ bỏ mọi thứ mà mình có ... bởi Tinh Thần Christ đã dạy, đã tiết lộ cho người đó những điều mà không ai có thể biểu đạt, không thể nào viết ra giấy. Không một ai, ngoài những người đã được tỏ lộ, biết điều đó là gì ...”

Quá đơn giản để có thể hiểu, quá dễ dàng để có thể giải thích đến nỗi câu chuyện trở nên kỳ bí.

Peter Hoover viết: 

“Bằng cách nào mà họ làm được?” Tôi đã tự hỏi đi hỏi lại chính mình điều đó. Không tiền bạc, không nhà cửa, bị truy nã và bách hại. Khi mà giấy viết khan hiếm và mực thì đắt đỏ, xuất bản hay lan truyền những cuốn sách của Anabaptist là nguy cơ nhận án tử hình. Vậy mà họ vẫn có hàng ngàn cuốn sách chép tay do những Anabaptist phân phát miễn phí! 

Chỉ có thể là ý chí God đã giúp họ. Những người Anabaptist không có tổ chức hay tập trung nào, hoàn toàn rải rác và tự phát, bằng cách nào đó họ đã kết nối khắp mọi nơi. Họ không có nhà xuất bản hay người chỉnh sửa lỗi ngữ pháp ngôn từ. Sau những cuộc càn quét quy mô lớn để đốt sạch những trang viết của họ, vẫn còn lại cho đến ngày nay hàng ngàn hàng vạn ghi chép tay, những trang thơ mà lỗi chính tả sai nghiêm trọng, câu cú âm vần lạc điệu, lủng củng, những sai sót ngữ nghĩa chấm phẩy. Văn phong thì rời rạc, thậm chí chẳng có văn phong. Nhưng God đã vận hà qua thứ văn chương bộc phát, ít học đó và đã khiến nó lay chuyển cả Châu Âu. 

Sự Từ Bỏ - Detachment

Với những người Anabaptist, theo Jesus đồng nghĩa với sự từ bỏ mọi thứ vì God, và quay về với God để ngài có thể dẫn lối chỉ đường. Như Jesus từng nói, đó là ghét bỏ (hate): Ai không ghét bỏ cha mẹ mình và từ bỏ mọi thứ mình có thì không xứng đáng với ta.” Sự từ bỏ chân thực là giết chết cái phàm thể (flesh) và sinh lại một lần nữa. 

Từ bỏ thực sự bao gồm hai điều: chịu nhận mọi bức hại và vượt qua chính mình. Khi người ta tát má bên này thì đưa thêm má bên kia... Chúng ta phải cai những đường lối bản năng của phần con để phần người được khôn lớn, như đứa trẻ phải cai sữa mẹ vậy. Chúng ta phải từ bỏ vợ và chồng, cha và mẹ, tài sản và đất đai, cả đời mình, tất cả những điều mà God đã cho mình ... vì Christ.”

Điên dại hay ngu khờ?

Một người trẻ Anabaptist trước khi bị chặt đầu ngày 19/7/1560 đã viết trong tù: 

“Trần gian này đã trở nên hoang dại, đắm chìm trong tội lỗi, bớt chút ít hoặc chẳng biết gì về God. Và giờ dạy bảo căn bản nhất của Tin Mừng lại trở nên xa lạ và bị coi là dị giáo, tà vạy trong con mắt Trần gian. Ngay khi God dựng lên một sứ giả cứu rỗi, chỉ cho người ta đường lối đúng đắn, họ lập tức khước từ không tin và cho rằng vị đó điên dại, ngu khờ. Bất cứ ai được đổ đầy Thánh Linh (Spirit) thì đều bị coi là điên ngu như thế. “

Lúc đó những người Anabaptist đều bị coi là những kẻ ảo tưởng khốn khổ (miserable fanatics) hết thuốc chữa, họ là kẻ thù của đồng loại và họ chẳng có mục tiêu nào khác ngoài làm rối ren mọi trật tự xã hội! 

Những người Anabaptist từ khắp Châu Âu, hầu hết là tầng lớp lao động và dân nghèo, đã chịu sự truy lùng của chính quyền trong suốt 100 năm. Họ chính là tổ tiên của những người Mennonite, có nhánh khác tách ra là người Amish sau này.

Những người Anabaptist cho rằng việc rửa tội trước khi biết được rõ ràng và cụ thể những tội ấy là gì, thì cũng như đặt cái cày đằng trước con trâu con ngựa, ký tên vào văn thư trước khi soạn ra nó. Truyền thống rửa tội đứa trẻ ngay khi vừa chào đời và coi đó như phép tẩy cho xong không đáp ứng được khao khát sâu sa của họ. Họ tin rằng trừ phi hiểu kỹ về cuộc đời của Jesus, hiểu về tin mừng, nếu không thì có rửa tội bằng cả biển nước cũng không lại. Nước chỉ là hình thức mà thôi. 

Những người Anabaptist đầu tiên không phải là những người sách vở, họ thậm chí không quan tâm hay biết đọc kinh thánh, hầu đa là mù chữ. Họ là những người của đời sống, người của người. Họ không đọc Tin Mừng trên giấy mực mà đọc “Ngôi Lời đã trở nên Xác Thịt và sống giữa loài người” (Tin mừng John 1:14)

“Kinh văn hay thánh thư chỉ là những ký tự bề nổi, chỉ là minh chứng cho lời God bên trong. Nếu không thì một người mù hay điếc làm sao có thể được cứu rỗi? Chúng tôi hiểu God không qua những con chữ màu xám mà qua indwelling của Christ.”

Bởi họ đã tự tin hoàn toàn vào lời Christ và Thánh Linh chỉ dẫn họ cách hiểu, những người Anabaptist thời đầu đã mất hết sợ hãi loài người. Trước toà án tử hình, mọi lời lẽ “kiêu ngạo” của họ chỉ khiến các quan xét tức giận và nhanh chóng kết liễu họ hàng loạt.

Sau những cuộc truy lùng của chính quyền, Người Anabaptist quy tụ lại thành một cộng đồng và coi Jesus là trưởng làng, “người thành lập cộng đồng đầu tiên” xứng đáng để họ từ bỏ mọi sự và đi theo. Đó là lý tưởng thời kỳ đầu của công xã này và suốt mấy trăm năm sau cho đến tận bây giờ. Chỉ trong vài chục năm từ 1527-1560 đã có hơn 60,000 người theo phái Anabaptist. Cấm không được, giết không hết, chính quyền cuối cùng cũng ngừng bức hại những dân nghèo “ngu học” đi theo Anabaptist bằng cả linh hồn và thân xác họ.

Những người đưa tin - mục vụ không có chức sắc (Anabaptist messenger) là những người đầy lòng nhiệt thành sẵn sàng chết vì Đức tin của họ. Họ là những người truyền đạo không có “giấy phép”, không phải là mục sư mà dám rửa tội cho người khác ... phần lớn trong số họ đều chết thảm. 200 người Anabaptist bao gồm nhiều gia đình có trẻ nhỏ bị hành quyết cùng lúc trên đường trốn chạy. 37 người đưa tin bị gom lại và giam vào một ngôi nhà rồi ngôi nhà bùng lửa, tất cả đều bị thiêu sống. Rất nhiều người bị hành quyết chặt đầu hay giàn thiêu trước công chúng để răn đe song số những Anabaptist vẫn mọc lên như nấm sau mưa trên khắp Châu Âu giữa thế kỷ 15. Họ thuyết giảng trong trốn chạy, trong bóng đêm, trên khắp phố phường, bất chấp tính mạng!


Trong những ngày chờ đợi một kiếp người nữa lại trôi qua, A Đường với cái đầu “hoàng tuyền” của mình chẳng biết để làm gì ngoài nghiên ngẫm những di sản văn hoá tinh thần được đúc lại trong từng câu chữ của Peter Hoover, một hậu nhân của người Anabaptist. Thời đại nào cũng có những man rợ, như bao thời đại mà loài người xưa nay vẫn là...

Biết làm sao được, vẫn phải yêu và thương lấy giống loài man di mọi rợ vô lại, như Thiên Cổ Đế vẫn thương Trần gian này. 

Biết đâu có thể nảy ra giải pháp, có thể lay chuyển càn khôn qua đôi cánh bướm vỗ, có thể làm gì đó với sức con kiến cỏ của mình... Có thể hay không, âu cũng là định mệnh truân chuyên cộng gộp của ngàn đời.

A Đường bèn sách tấn tinh thần và quyết tâm nghiêm túc Việt dịch được đến đâu hay đến đó cuốn sách có 26 chương 290 trang về người Anabaptist này, để tặng cho những người đang yêu sự thật về Tình Yêu Ấy.

C17: Nhân Chứng (On to Witness)

Giữa những cánh đồng bò sữa ở Goes trên Dutch island, tại Zuid Beveland, Joost Joosten lớn lên cùng ca hát. Cậu xuất sắc tiếng Latin ở trường trung học, nhưng trái tim cậu dành trọn cho những bài ca, và cha mẹ đã tìm được một chỗ trong dàn ca tại nhà thờ của làng dành cho cậu. 

Người ta ấn tượng về cậu bé có mái tóc vàng như thiên thần và giọng ca trong trẻo vô cùng. Vào năm 1556 vua Philip II của Spain đến thăm Netherlands. Họ mời dàn nhạc làng Goes đến hát cho vua, khi ấy cậu 14 tuổi. Vua lập tức ra lệnh: “Mang thằng bé đó lại đây. Nó phải về Spain với ta!”

Nhưng Joost không muốn đi Spain và sống trong cung quách nguy nga hoàng tộc. Cậu lẩn trốn 6 tuần cho đến khi vua kia đã rời đi hẳn. Một ngày nào đó, có người đưa tin Anabaptist đến làng và “rửa tội” cho cậu trong một buổi gặp bí mật. Kết quả là Joost bị bắt không lâu sau, vào năm 1560. Bốn quy kết được đưa ra từ cơ quan cấp cao. Trên năm trang giấy dài, Joost trình bày cho họ những điều mình tin, cậu cũng viết vài bài ca và hát trong ngục nữa.

Họ đặt Joost lên giá, lấy những thanh sắt nóng xuyên vào đầu gối cậu, xuyên tới mắt cá chân. Nhưng trái tim cậu không lay chuyển. Toà án kết tội và tuyên tử hình. Họ làm một con ngựa bằng rơm trên phố. Người ta đi thuyền tới xem, cưỡi ngựa, hay đi bộ tới xem hành hình rất đông. 

Quân lính dẫn cậu ra bằng xích sắt, chưa bao giờ người ta thấy cậu héo hon vàng vọt như vậy. Bỗng nhiên điều gì đó khiến tất cả giật mình! Là tiếng hát ai?

Tiếng hát của Joost Joosten lại 
vang lên rõ ràng, vẫn giọng ca ấy, giờ đã là của một chàng trai trưởng thành. Nhiều người trong làng khóc khi nhận ra bài hát ấy: “Ôi Chúa, trong tâm tôi luôn thấy ngài trước mặt! ...”

Họ nhét Joost vào con ngựa bằng rơm, trong đó vẫn vang lên tiếng hát khi ngọn lửa bùng bùng. Đó là sáng thứ Hai, ngay trước lễ Giáng Sinh, và Joost Joosten 18 tuổi.

Tuesday, June 17, 2025

C91: Ai Lo Cho Ta

 Chương 91: Ai Lo Cho Ta


Loài nào cũng có cha có mẹ. Loài vật nào cũng lo cho con của chúng theo bản năng mỗi loài. 

Thiên Cổ Đế thì lo cho tất thảy, bởi Ngài sinh ra tất thảy. 


Lắm kẻ không tin hay không biết về sự hiện diện của Ngài, cũng như con cái không biết về người sinh thành ra mình, gọi là “bất Hiếu”. 


Nhiều khi A Đường chạnh lòng thương cho muôn loài vật nơi hoang dã, nghĩ ... Không ai lo cho chúng miếng áo manh quần, mưa hay nắng, bão hay giông có nơi nào trú ngụ? Không ai quan tâm chúng đói hay khát, đau hay khoẻ, sống hay chết? Không ai dạy chúng biết cái chữ cái nghĩa, biết tính toán hay y dược... Kiếp thú cứ tự sinh tự diệt, lớn ăn thịt nhỏ. Như thể số phận chúng chẳng có gì đáng kể, chẳng có gì quan trọng, nên chẳng ai lưu tâm. (Thực ra Thiên Chúa lưu tâm, quan phòng mọi sự.)


Hay từng gốc cây ngọn cỏ, cứ chỉ việc đứng dãi nắng dầm mưa một chỗ. Mặc cho muôn loài nghiễm nhiên tận dụng mọi pháp luân mà cây cối đã dày công tu hành từ vạn kiếp.


Tự nhiên hoang dại là vậy nhưng nào có “dại” bằng những cái dại của con người, loài được coi là khôn nhất trong các loài...


Khi mọi cái dại dột trở nên điên cuồng của thời đại, nào có ai cho rằng mình là dại đâu khi xuôi theo dòng lũ. 


Cơn lũ vô minh ùa về khắp nẻo, tràn ngập nơi đời. Mà đã lập đại nguyện chung chia phận người, làm sao tránh khỏi những vô minh như vậy. Đã gọi là chung chia thì có ngu cùng chịu, có dại cùng hưởng. Bởi cùng như vậy, nên mới hiểu đến vậy, thương đến vậy. 


Thương cho tất thảy vô minh khờ dại khắp cùng thiên hạ, tất thảy điên cuồng đau đớn ...


Ma đạo cũng khờ dại, bởi dại khờ nên mới vui thú đau thương. 


~~~ 


Chuyện về chiếc mũi giả


Thời ấy hình thức lên ngôi, người ta chạy theo bề ngoài hơn là nội dung. Và mẹ cũng như vậy. Bà vốn là một người phụ nữ đẹp và rất ưa nhìn, song ma xui quỷ khiến thế nào mà một hôm bà về nhà với một chiếc mũi giả. Hỏi thì bảo có cô này cô cứ xui “làm mũi đi, thời buổi này ai cũng làm cho đẹp...”


Con gái bà vừa tuổi trăng tròn, chính là A Đường đã đầu thai vào bụng mẹ 18 năm trước, để “độ” cho mẹ (như lời mẹ nói). Ban đầu nàng rất kinh tởm khi nhìn cái mũi giả cồm cộm ngay giữa mặt mẹ mỗi ngày! Coi đến lạ lùng, đến nỗi không muốn nhìn vào mặt nữa. Sau rồi cùng quen...


Mẹ hỏi: Thế con có muốn làm không? 


Đường đáp ngay: Khồng! Chết cũng không làm! 


Ấy vậy mà ma xui quỷ khiến thế nào, không lâu sau liền quyết định làm. Ấy là dịp vừa đỗ đại học, cuộc đời tưởng như vừa sang trang mới, nên chăng tin rằng một chiếc mũi mới là thích hợp để “nâng cấp” phiên bản cũ của mình...


Đường vốn cho rằng mình xấu xí hơn các bạn, và mẹ cũng luôn dùng những mỹ từ thô thiển nhất để nói về khuôn mặt “chiều ngang to hơn chiều dài” của nàng. Biết đâu chiếc mũi Silicon có thể thay đổi cuộc đời ai đó?!


Mọi dụ dỗ trong cõi đời này vốn chỉ để con người phạm tội đồng loã với ma quỷ. Vốn chỉ để đưa con người vào lộ trình bất tận chẳng có điểm dừng trên con đường mang tên Vô Thường. (“Khốn thay cho kẻ nào làm cớ cho trẻ nhỏ phạm tội” - Jesus Christ.)


Một chiếc mũi giả là khởi đầu đầy hứa hẹn... Chao ôi! 


Mẹ nói: “Cái bà bác sĩ này làm cho mẹ bà chẳng có đồ nghề ghê gớm gì, tay dao tay kéo, còn chẳng có phụ giúp nào, thế mà bả làm cái vèo có một tí là xong. Lấy tiền cũng ít...”


“Con mà muốn làm mẹ cho ra bác sĩ Sơn trưởng khoa răng hàm mặt ở viện hẳn hoi. Mẹ mới mò ra được Bác ấy cũng chuyên nâng mũi. Hồi chị Hương bị tai nạn xe máy phải đóng 18 cái đinh vào mặt mà vừa thi đỗ đại học xong lên xe anh người yêu đèo thì thằng say rượu đâm phải, ngã vỡ mặt... May có bác sĩ Sơn nổi tiếng, người ta gọi là “bác sĩ có đôi bàn tay vàng”. Bác sĩ đóng 18 cái đinh vào mặt mà giờ vẫn xinh.


Nghe bùi tai, mùi mẫn quá. Đường bèn tặc lưỡi tò mò: “Thử làm xem sao. Đau thế nào không biết?”


Đến tận lúc lên bàn mổ rồi vẫn muốn thôi, xin về, nhưng như cá đã vào lưới, ma quỷ nào buông tha. Mẹ cười: “Dũng cảm lên chứ. Bác sĩ có đôi bàn tay vàng đấy! Con bảo bác sĩ làm cho cháu tự tin lên, cháu vừa thi đỗ ... bố cháu mất sớm ... Thôi để bác làm luôn!” Mẹ liến thoắng nói...


Mọi thuốc tê không có tác dụng với Đường. Tất thảy các thao tác, các đường rạch, mọi chi tiết phẫu thuật, từng mũi khâu, đều cảm biết rõ ràng. Từng đầu ngón tay bác sĩ ra sao khi thao tác, nhắm mắt vẫn cảm nhận được từng hơi thở hay nín thở của bác sĩ qua lớp khẩu trang. Thuốc mê dường như phản tác dụng, chỉ càng khiến đương sự căng ra với sự tập trung toàn lực. Nước mắt ràn rụa trong suốt cuộc phẫu thuật. Chưa từng có cơn đau nào kinh hoàng như thế trong đời. Mổ sẻ, rạch mặt, rạch mũi ... mà không đau mới lạ! Vậy mà người người thi nhau làm, diễn viên điện ảnh không ai không làm ...


Bởi vì cơ địa hay sao mà bao ống thuốc tê mê rồi vẫn không có tác dụng, bác sĩ cũng biết điều này nên dù có đôi bàn tay vàng cũng không tránh khỏi căng thẳng mỗi lần nhìn con cá lên gồng đau đớn trên bàn mổ. Bác sĩ vừa lia phải động mạch, một tia máu nóng phun ra tung toé. Bác sĩ vội bịt chặt mạch ấy, cuối cùng thở dài khi máu tạm ngưng chảy mạnh. Bác sĩ dừng cuộc phẫu thuật giữa chừng đi ra ngoài để bình tĩnh và chờ cho mạch nghỉ. Đường nằm đó với cái mũi mở toang và căn phòng lạnh như nhà xác. Con cá này vẫn còn biết tụng kinh tự hộ niệm cho chính mình. Từ khi nhát dao sắc bén đầu tiên chạm tới, từng biến chú đại bi tiếng Phạn hẳn hoi được chú Đức dạy cách học thuộc lòng từ nhỏ đã hiện về mồm một. Cá ấy vẫn khóc từ đầu đến bấy giờ, những giọt nước mắt vô minh như cả đại dương, gộp chuyển sự tập trung từ cơn đau bất tận, nhẩm đi nhẩm lại không biết bao nhiêu triết tự mà dù đọc bao lần cũng không hiểu nổi:

“A ra sấm Phật phạt ra phạt sâm phạt ra sá ra....”


Vì sao tự nguyện đưa thân vào ma lưới?! 


Bác sĩ và người phụ tá trở lại hoàn tất công việc. Đường rời khỏi đó vào buổi chiều tà với chiếc mũi giả, là ấn ký của ma đạo mà một khi đã nhận phải mang lấy cho đến chết, không bao giờ có thể gỡ bỏ.


Con người đã đua nhau phá hoại thể xác lẫn linh hồn chính mình, phá hoại công trình thuộc linh màu nhiệm của tạo hoá, cắt đứt chặn đứng các đường kinh mạch một cách tàn bạo vô tri như vậy.


Rất lâu sau đó, Đường biết được cái giá phải trả cho một cái gật đầu đồng ý là gì. Biết được sự giả dốì và hệ hậu là gì. Biết được mọi vẻ đẹp vô thường đều là giả... 


Đường chỉ mong một ngày được chết đi để trả lại chiếc mũi giả làm từ Silicon cho đất mẹ. Dẫu sao, Silicon cũng được làm từ cát. Như Kinh Thánh nói: Thiên Chúa hà sinh khí vào cát bụi đã nắn thành hình, từ đó tạo ra con người! 

Sinh khí ấy trở về bên Ngài, liền thuật lại một chặng đường vô minh!

- - -

Kinh Thánh

Sáng-thế Ký 2:7 

"Giê-hô-va Đức Chúa Trời bèn lấy bụi đất nắn nên hình người, hà sanh-khí vào lỗ mũi; thì người trở nên một loài sanh-linh."



Saturday, June 7, 2025

C90: Người Cha Nhân Hậu

Chương 90: Người Cha Nhân Hậu

Ba truyện dụ ngôn về lòng thương xót của Người Cha Nhân Hậu trong Kinh Thánh

Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Jesus để nghe Người giảng. Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.” Đức Jesus mới kể cho họ các truyện dụ ngôn này:

1. Dụ Ngôn Con Chiên Bị Mất
Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất? Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai. Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: “Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó.” Vậy, tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn.

2. Dụ Ngôn Đồng Bạc Bị Đánh Mất
Hoặc người phụ nữ nào có mười đồng quan, mà chẳng may đánh mất một đồng, lại không thắp đèn, rồi quét nhà, moi móc tìm cho kỳ được?
Tìm được rồi, bà ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: “Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã đánh mất.” Cũng thế, tôi nói cho các ông hay: giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối.

3. Dụ Ngôn Người Cha Nhân Hậu
Rồi Đức Jesus nói tiếp: Một người kia có hai con trai. Người con thứ nói với cha rằng: “Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng.”
Và người cha đã chia của cải cho hai con. Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình. Khi anh ta đã ăn tiêu hết sạch, thì lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu, nên phải đi ở đợ cho một người dân trong vùng; người này sai anh ta ra đồng chăn heo. Anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho. Bấy giờ, anh ta hồi tâm và tự nhủ: “Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói! Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy.”

Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha. Anh ta còn ở đàng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm chầm anh ta và hôn lấy hôn để. Bấy giờ, người con nói rằng: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa…” Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy.” Và họ bắt đầu ăn mừng.


Lúc ấy người con cả của ông đang ở ngoài đồng. Khi anh ta về gần đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, liền gọi một người đầy tớ ra mà hỏi xem có chuyện gì. Người ấy trả lời: “Em cậu đã về, và cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì gặp lại cậu ấy mạnh khỏe.”

Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn nỉ. Cậu trả lời cha: “Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con kia, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn đĩ điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!”

Nhưng người cha nói với anh ta: “Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy.”

>>> Chia sẻ lại góc nhìn sơ lược (không bàn sâu, nhưng chư huynh đệ có thể cần nên chiêm nghiệm sâu rộng hơn) về Người Cha Nhân Hậu:

Cả ba câu chuyện kể đều thuộc chủ đề về sự quan tâm của Cha (là Thiên Chúa) dành cho "tội nhân chịu hối cải" hơn là cho người công chính không hề sa ngã, tức là cho Chư Huynh Đệ đã nhận thức về Chân Tính Bổn Nguyên của Chính mình và có Ý Hướng Tìm Về Đoàn Viên - Hợp Nhất Quê Hương Nguồn Cội Thiêng Liêng!

Đây là một trong những dụ ngôn được biết đến nhiều nhất của Chúa Jesus, chỉ được chép lại trong Phúc âm Lu-ca, làm nổi bật thông điệp thần học của phúc âm này: Tình yêu và ân điển của Cha, hằng được trao ban cho tất cả chúng ta một cách vô điều kiện. Sự tha thứ mà Cha dành cho người con lầm lạc, hoàn toàn không dựa trên sự đóng góp công đức bất kỳ nào, vì từ đầu cho đến cuối câu chuyện, không thể tìm thấy bất cứ việc lành nào chàng trai đã làm. Chỉ cần hành động quay về trong hối cải là đủ cho tấm lòng bao dung của người Cha vẫn hằng mong đợi con mình.

Đứa con hoang đàng là hình ảnh của chư huynh đệ đang còn chịu sự chi phối của Phàm Ngã Nhân Trần, khi đang còn trong các bài học trải nghiệm đời sống ở cấp độ này thì luôn quyết liệt khước từ Niềm Tin Thiêng Liêng, bất kể những nỗ lực của bao thế hệ Cha Anh không ngừng dìu dắt giúp đỡ chư huynh đệ hậu học từng bước lớn lên trong đức tin toàn vẹn về Chính mình, cùng những lời cầu nguyện thấm đẫm tình yêu tuyệt đối dành cho thân nhân yêu dấu.

Do sự chi phối của Phàm Ngã, vốn luôn có tâm tư tình cảm đầy niềm kiêu hãnh, tự phụ, can cường và mạnh mẽ, chư huynh đệ luôn tìm đến những “vùng đất xa lạ”, buông mình vào các cuộc phiêu lưu, và háo hức dò tìm các giá trị mới, cho đến khi ngã quỵ trước thất bại và tuyệt vọng. Khi ấy, chư huynh đệ trong “vai” đứa con hoang đàng Phàm Ngã mới nhận biết hơi ấm vòng tay ấp ôm của Cha là trân quý biết bao!

Đồng thời thì tấm lòng vị tha, biết yêu thương giữa toàn thể chư huynh đệ với nhau cũng được đề cập rõ ràng trong sự miêu tả nỗi giận hờn cùng ganh tức của người anh “tự thấy mình có công cao cái thế” với Cha và cũng qua tình tiết này mà Dụ Ngôn đã tỏ rõ cho chư huynh đệ nhận thức được Cha đã yêu thương và cũng đã khổ sở biết bao với những đứa con thân yêu của Chính Người!

Câu chuyện còn đề cập đến những “người đầy tớ” phục vụ cho Gia Đình Nhà Cha, nói đến đây thì chư huynh đệ cũng đã thừa hiểu về thân phận của những “người đầy tớ” này, thực sự là gì rồi! (Chính là hàng Thiên Thần, các bậc Hộ Pháp, Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác, các Đại Giác Giả...)

Sau cùng, chư huynh đệ hỡi, chúng ta hãy học cách yêu thương, như Cha Chúng Ta Hằng Yêu Thương!

Chia sẻ tiếp câu chuyện ẩn dụ cũng mang nội dung nói về Người Con Hoang Đàng trong tác phẩm:

Ðạo Phật Ngày Nay
Một Diễn Dịch Mới Về Ba Bộ Kinh Pháp Hoa
Tác Giả: Nikkyò Niwano
Anh dịch: Kòjirò Miyasaka
Bản Dịch Anh Ngữ: Buddhism For Today: A modern Interpretation Of The Threefold Lotus Sutra,  Kose Publishing Co. Tokyo
Việt dịch Cư Sĩ Trần Tuấn Mẫn
Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam TP. HCM ấn hành 1997.

PHẨM 04 - TÍN GIẢI

Ý NGHĨA CỦA TÍN VÀ GIẢI

Tín (shin), niềm tin là sự vận hành của tình cảm, và giải (ge), sự nhận thức là sự vận hành của lý trí của người ta. Dù người ta thường bảo rằng tôn giáo hay tín ngưỡng phải được tin thay vì suy luận, nhưng thật là nguy hiểm khi tin tưởng mù quáng vào một tôn giáo mà không có một hiểu biết nào về tôn giáo ấy. Nếu tôn giáo này là một giáo lý sai lầm và vô giá trị thì sự tin tưởng mù quáng sẽ dẫn đến kết quả là tự hủy hoại chúng ta mà còn gây một ảnh hưởng vô cùng tai hại cho gia đình và xã hội nói chung.

Dù cho một tôn giáo là một giáo lý tốt đi nữa, nhưng chừng nào chúng ta còn tin nó một cách mù quáng, thì niềm tin của chúng ta cũng có thể bị hoàn cảnh lay chuyển. Hãy thí dụ một người tin rằng anh ta sẽ lành bệnh hoặc hoàn cảnh của anh ta sẽ được cải thiện nếu anh chỉ cần tin vào một tôn giáo nào đó mà không cần hiểu giáo lý của nó. Anh được lành bệnh và tin rằng được lành bệnh như thế là nhờ tôn giáo của anh, nhưng khi bệnh tái phát thì anh bắt đầu nghi ngờ. Giả như sau đó con trai anh ta bị rớt kỳ thi vào Đại học thì anh ta từ bỏ niềm tin mà anh vốn gắn bó chặt chẽ bất kể ý kiến của người khác. Điều như thế thường xuyên xảy ra.

Loại niềm tin này không phải là một niềm tin vững chắc theo ý nghĩa thực sự của niềm tin mà chỉ là một niềm tin hẹp hòi. Một tôn giáo thực sự luôn luôn có thể được hiểu bằng lý trí; loại hiểu biết này được gọi là sự nhận thức (giải). Khi chúng ta nêu một giải thích rõ ràng về một tôn giáo thì riêng điều này cũng là một niềm tin chưa trọn vẹn. Dù cho về mặt tâm linh, chúng ta có tiến đến một mức độ nào đó nhờ một niềm tin không trọn vẹn như thế, chúng ta cũng không thể vượt qua mức độ ấy. Một tôn giáo thực sự thì hết sức sâu xa. Chẳng hạn, dù ta có thể nhờ lý trí mà hiểu rằng đức Phật là chân lý của vũ trụ, nhưng khi chúng ta cố gắng thâm nhập triệt để vào chân lý này, thì chúng ta nhận thấy nó vô cùng sâu xa và không thể nắm bắt nó bằng chỉ riêng lý trí.

Một nhà khoa học nổi tiếng đã nói: “Vũ trụ khoa học trong thời đại chúng ta quá bí ẩn đến nỗi chúng ta chưa bao giờ tìm thấy nó trong lịch sử tư tưởng”. Lời nói ấy có nghĩa rằng vũ trụ được xét một cách khoa học thì bí ẩn hơn nhiều so với sự bí ẩn mà người nguyên thủy cảm nhận qua sự hiện hữu của mặt trời, mặt trăng, núi lửa, giông bão và những hiện tượng thiên nhiên khác hoặc so với sự bí ẩn mà con người cảm nhận qua các thời đại khi đối mặt với tôn giáo. Kiến thức khoa học càng phát triển thì vũ trụ hình như càng trở nên bí ẩn. Truy tìm sự bí ẩn này đến cùng bằng lý thuyết và thực nghiệm là nhiệm vụ của khoa học và hẳn phải như thế.

Mặt khác, qua tin tưởng vào tôn giáo, chúng ta có thể trực tiếp vào thế giới bí ẩn không chỉ bằng lý thuyết suông. Trạng thái tâm linh sinh ra do sự gặp gỡ lần đầu với sự bí ẩn được gọi là niềm tin. Khi một người cố gắng giải thích toàn bộ giáo lý của một tôn giáo bằng lý trí thì tôn giáo đó không có khả năng kích thích những người khác vì người ấy chỉ có sự hiểu biết về lý thuyết chứ không thể đưa lý thuyết vào thực hành.
Một tôn giáo như vậy không tạo sức mạnh khiến người khác theo nó. Niềm tin thực sự thì có năng lực và sức mạnh. Một người tuy có thể thiếu học và ở trong hoàn cảnh thấp kém, anh ta cũng có thể cứu những người khác và giúp đỡ họ phát triển tôn giáo nếu anh ta chỉ có niềm tin. Nhưng nếu anh ta đã tin vào những gì sai lầm về cơ bản thì năng lực của anh ta sẽ gây một ảnh hưởng tai hại cho xã hội và những người chung quanh. Do đó niềm tin và sự nhận thức phải đi đôi với nhau.

Một tôn giáo chỉ có thể được gọi là thực sự khi nó bao gồm niềm tin và sự nhận thức. Giáo lý của đức Phật có thể được hiểu bằng lý trí. Giáo lý ấy không đòi hỏi niềm tin mù quáng và phi lý trí. Chúng ta phải hiểu giáo lý của đức Phật bằng cách nghe giảng và đọc kinh. Một khi chúng ta tiến bộ trong nhận thức về giáo lý thì niềm tin tự nhiên sẽ phát sinh.

Khi một người có cái tâm nhạy bén, không tiến bộ trong nhận thức thì anh ta sẽ phát triển niềm tin ngay khi anh ta được bảo rằng “Đây là giáo lý thực sự”. Xét về mặt giáo lý của kinh Pháp Hoa thì điều này cũng tốt, vì anh ta sẽ tiến bộ dần dần trong nhận thức bằng cách nghe và đọc giáo lý của kinh.

Tóm lại, chúng ta có thể đi vào một tôn giáo bằng khía cạnh niềm tin hoặc khía cạnh nhận thức, nhưng nếu một tôn giáo không bao gồm cả hai khía cạnh ấy thì nó không có sức mạnh thực sự. Bằng sự nhận thức cơ bản này về các thành phần của một tôn giáo thực sự, chúng ta hãy xét đến chánh văn của phẩm 4.

Đức Thế Tôn đã thọ ký cho một Thanh văn Tỳ-kheo, ngài Xá-lợi-phất (Sariputra) rằng ngài Xá-lợi-phất sẽ thành Phật và Ngài đã giảng giải rõ lý do trong Ẩn dụ về Ngôi Nhà Lửa. Bấy giờ các Thanh văn Tỳ-kheo trong hội chúng là những bậc Đại trí như các ngài Tu-bồ-đề (Subhùti), Đại Ca-chiên-diên (Mahà-kàtyàyana), Đại Ca-diếp (Mahà-kà'syapa), và Đại Mục-kiền-liên (Mahà- Maudgalyàyana) càng lúc càng hiểu giá trị của Pháp, và hoan hỷ cực độ. Chư vị liền cúi mình nhất tâm đảnh lễ, chắp tay bạch Phật: “Chúng con là những Tỳ-kheo đầu đàn trong hàng đệ tử của Thế Tôn và chúng con đã trở nên già nua. Chúng con tự thấy đã thoát khỏi những phiền trược, khổ đau của cuộc đời và tự thấy không còn phải nỗ lực để làm gì nữa, cho nên chúng con không vội vã cầu tìm Chánh Đẳng Giác”.

“Thế Tôn đã giảng Pháp trong một thời gian dài và trong lúc chúng con đang ngồi tại chỗ, thân thể chúng con trở nên mỏi mệt, chúng con lơ đểnh và cảm thấy không còn cần nghe Thế Tôn thuyết giảng nữa. Chúng con chỉ nghĩ đến Không, Vô tướng và Vô tác. Còn đối với Pháp mà chư Bồ-tát nêu trỏ cho người khác với lòng đại từ bi, tự tại thuyết giảng theo khả năng của người khác, khiến họ tỏ bày bản tính thực sự của họ, cứu độ đồng đều hết thảy và thanh tịnh cuộc đời, thì tâm chúng con lại không thích thú. Chúng con hết sức hối tiếc về sự hiểu biết không trọn vẹn của chúng con. Nay nghe đức Phật thọ ký cho Xá-lợi-phất cũng như cho chư Hiền hữu Thanh văn của chúng con rằng “Ông sẽ chứng đạt Vô thượng Cháng Đẳng Giác”, chúng con hết sức hoan hỷ. Chẳng ngờ rằng nay chúng con bỗng được nghe Pháp hy hữu này, chúng con vô cùng vui mừng vì đã thu đạt điều rất lớn lao, thiện lành, một viên ngọc vô giá như thế mà không phải cầu tìm. Bạch Thế Tôn! Thế là chúng con đã hiểu giáo pháp mà nay Ngài giảng cho chúng con. Giờ đây chúng con xin được nói bằng một Ẩn dụ để làm rõ ý nghĩa này”. Thế rồi bốn vị đại Thanh văn kể câu chuyện sau đây.

---o0o---

ẨN DỤ VỀ NGƯỜI CON TRAI CÙNG KHỔ

Một thanh niên rời bỏ người cha mà đi xa. Ông ta sống ở một xứ xa trong một thời gian dài và cuối cùng ông được năm mươi tuổi. Càng lớn tuổi, ông càng trở nên nghèo. Lang thang đây đó để tìm việc làm, cứ thế cho đến khi ông trở về quê hương. Người cha, vốn rất đau khổ vì đứa con trai đã bỏ nhà mà đi, đã tìm kiếm đứa con khắp xứ nhưng không gặp được. Bấy giờ người cha đã lập nghiệp ở một thành phố nọ. Ông trở nên rất giàu, hàng hóa và tài sản của ông không kể xiết. Ông có rất nhiều tôi tớ, người hầu kẻ hạ.

Trong khi đó, người con trai cùng khổ lang thang từ làng này qua làng khác và qua nhiều thành phố, xứ sở, cuối cùng đến thành phố mà người cha lập nghiệp. Ông đang đứng trước cổng nhà cha ông mà không biết đấy là nhà của ai. Trong khi người cha vẫn luôn nghĩ đến đứa con, ông không bao giờ nói điều ấy với ai. Nghĩ đến sự mất mát của mình và nuôi lòng tiếc nuối, ông tự nhủ: “Ta đã già yếu lại có tài sản lớn mà không có con trai. Một ngày nào đó ta sẽ chết, tài sản ta sẽ bị phân tán và mất đi. Chỉ cần ta mang được con trai ta về mà giao tài sản cho nó thì ta sẽ sung sướng, hạnh phúc biết bao!” Bấy giờ, người con trai nghèo khổ đã làm công đây đó, bất ngờ dừng lại trước nhà cha mình, hy vọng sẽ được thuê làm việc. Đứng trước cổng, từ xa ông trông thấy một cụ già trang nghiêm đang ngồi trên sập và nhiều người có vẻ trang trọng đang vây quanh và cung kính cụ. Người con trai cùng khổ trông thấy người uy quyền kia thì đâm sợ hãi và nghĩ: “Ông ta hẳn là một vị vua hay một vị nào đó trong hàng vua chúa. Đây không phải là nơi để ta kiếm việc làm. Tốt hơn ta nên đi kiếm làng nào nghèo khổ, nơi ấy ta có thể đem sức cần cù ra mà làm thuê thì sẽ kiếm được thức ăn áo mặc dễ dàng hơn. Nếu ta đây lâu, ta có thể bị bắt và bị ép vào công việc”. Rồi ông vội vàng bỏ chạy. Bấy giờ vị phú ông đã nhận ra đứa con trai của mình từ khi thoạt trông thấy, liền rất vui mừng mà nghĩ: “A! Con trai ta bỗng nhiên trở về. Mong ước của ta được thỏa. Ta đã tìm thấy đứa con mà ta có thể giao lại tất cả tài sản của ta”. Ngạc nhiên khi thấy con mình thình lình bỏ chạy, người cha liền sai người hầu đuổi theo và mang ông ta về. Người con trai cùng khổ ngạc nhiên và sợ hãi la lớn: “Tôi không có xúc phạm gì đến quý vị, sao lại bắt tôi?”

Nhưng các sứ giả túm lấy ông và bắt ông ta quay lại. Người con nghĩ rằng dù ông vô tội, ông cũng sẽ bị giam giữ và điều này chắc chắn có nghĩa là ông sẽ phải chết. Nghĩ như thế, ông sợ hãi đến nỗi bủn rủn và ngã xuống đất. Người cha từ trong thấy thế liền ra lệnh cho các sứ giả: “Không cần phải làm như thế với hắn. Chớ dùng sức mạnh mà mang hắn về. Hãy rảy nước lạnh vào mặt hắn để làm cho hắn lai tỉnh và đừng nói gì với hắn nữa”. Người cha biết rằng cung cách của con mình là thấp hèn do đã sống lâu trong nghèo túng và rằng địa vị cao trọng của ông đã làm cho con ông sợ. Dù ông biết chắc rằng đây là con ông, ông vẫn không nói gì với ai mà quyết định sẽ từ từ lôi kéo con ông.
 
Sau khi rảy nước lạnh vào mặt người con và làm cho ông tỉnh lại, một sứ giả nói: “Nay ta cho anh được tự do; anh muốn đi đâu thì đi”. Người con trai cùng khổ mừng rỡ ra đi, liên tục cúi mình kính cẩn. Ông ta đến một làng nhỏ để kiếm thức ăn và quần áo như lệ thường. Thế rồi người cha muốn lôi kéo con mình, đã vạch ra một kế hoạch. Ông bí mật sai hai người đàn ông ăn mặc tồi tàn vào có vẻ xoàng xỉnh và dặn: “Các anh hãy đi đến nơi ấy mà nhẹ nhàng nói với người nghèo khổ kia rằng: "Đây có một chỗ cho anh làm việc; anh sẽ được trả tiền công gấp đôi”.
Nếu người ấy đồng ý thì mang anh ta về đây và giao việc cho anh ta. Nếu anh ta hỏi các anh muốn anh ta làm việc gì thì các người có thể nói với anh ta: "Chúng tôi thuê anh dọn một đống phân và hai chúng tôi sẽ cùng làm việc với anh””.

Người con cùng khổ nghĩ rằng đây là công việc thích hợp với ông và tin theo hai sứ giả, nhận trước tiền công và cùng họ dọn đống phân. Người cha nhìn ông mà thương tình. Một hôm nhìn qua cửa sổ người cha thấy gương mặt của người con từ xa, dơ bẩn và tiều tụy, ở gần những đống phân và rác. Thế rồi người cha không chịu nổi lòng thương xót người con, liền mặc quần áo tồi tàn rách rưới, dơ bẩn, lấy bùn đất vây lấm thân thể, cầm cái xẻng mà đến với những người lao công. Ông nói với họ: “Làm việc đi nào, chớ có lười biếng”. Rồi người cha bảo người con: “Ta nghe nói anh là một kẻ nghèo. Anh không có gì để sinh sống, phải thế không? Từ nay, anh có thể trông cậy vào ta. Này anh bạn, anh cứ ở lại đây mà làm việc, chớ đi đâu khác nữa. Ta sẽ tăng lương cho anh. Thứ gì anh cần, cứ lấy mà dùng, đừng ngại - chén bát, đồ đạc, gạo cơm, bột, muối, giấm v.v... Ngoài ra còn có một lão bộc già yếu dành cho anh nếu anh cần. Cứ tự nhiên. Ta cũng như cha anh, đừng lo lắng gì nữa. Ta đã già, còn anh thì trẻ và  khỏe mạnh. Bấy lâu nay làm việc, anh chẳng bao giờ dối trá, lười biếng, cộc cằn hay càu nhàu. Ta không hề thấy anh có lúc rỗi như các lao công khác. Từ nay trở đi, anh sẽ như là con ta vậy”.

Thế rồi vị trưởng giả đặt cho ông một tên mới và gọi ông là con. Người con cùng khổ dù được vui hưởng như thế, vẫn nghĩ rằng mình là kẻ làm thuê mướn thấp hèn. Vì vậy, trong hai mươi năm, ông vẫn tiếp tục được thuê dọn phân. Sau thời gian này, có sự tin cậy lẫn nhau giữa hai cha con, và người con muốn đến hay đi tùy ý dù tinh thần hèn kém của ông vẫn chưa thay đổi.

Sau đó, ông trưởng giả bị bệnh và biết mình sắp chết, ông giao phó cho người con quản lý tất cả tài sản của ông. Dù người con đã được người cha tin cậy, ông vẫn không loại bỏ được mặc cảm tự ty. Sau một thời gian ngắn, người con đã quen với việc quản lý nhà cửa và tất cả tài sản của cha mình, và lối suy nghĩ của ông được mở rộng dần, khiến ông nghĩ rằng có thể tự mình cai quản toàn bộ ngôi nhà của người cha. Giờ đây ông xem thái độ trước đây của mình là không tốt.

Người cha rất hài lòng khi thấy như thế. Thấy mình sắp chết, ông gọi người con đến đồng thời cũng tập hợp các thân thích, vua chúa, đại thần, Sat-đế-lỡ và dân chúng trong nước. Khi tất cả đều tụ hội, ông tuyên bố với mọi người: “Đây thực sự là con trai của tôi và tôi thực sự là cha của nó”.

Ông giải thích tại sao như thế và bảo họ: “Tất cả tài sản mà tôi sở hữu hoàn toàn thuộc về con trai tôi”. Khi nghe như thế, người con trai rất vui mừng trước tin bất ngờ ấy và nghĩ rằng: “Phần ta, ta chẳng có ý định hay nỗ lực gì mà giờ đây tất cả tài sản này lại tự đến với ta”.

Đây là Ẩn dụ về Người con trai cùng khổ, là Ẩn dụ thứ hai trong bảy Ẩn dụ trong kinh Pháp Hoa.

Ngay sau khi kể xong Ẩn dụ này, bốn vị Thanh Văn liền bạch Thế Tôn: “Vị trưởng giả đại phú ấy là đức Phật và tất cả chúng con là các nam tử của Ngài”. Thế rồi các vị ca ngợi lòng từ bi và năng lực thiện xảo của đức Phật, đã đưa họ đến giáo pháp Đại thừa dù họ đã thỏa mãn với sự chứng ngộ Tiểu thừa.

Phẩm 4 được chấm dứt bằng các câu kệ do ngài Đại Ca-diếp đọc để kể lại câu chuyện.

Từ quan điểm của chúng ta, người con trai cùng khổ tượng trưng cho tất cả các chúng sanh. Nhưng ở đây, chúng ta hãy xem người con trai là bốn vị Thanh văn ấy và thử áp dụng Ẩn dụ trên vào trường hợp của các vị ấy.

Người con trai cùng khổ đầu tiên vẫn biết rằng vị trưởng giả giàu có (Đức Phật) là người cha thực sự của mình, nhưng rời xa cha và lang thang qua nỗi khổ của con người, trỏ cho trạng thái thông thường của các chúng sanh trong đời. Trong giai đoạn này, bốn vị Thanh văn là người thường như chúng ta. Tuy nhiên, không có sự từ bỏ mối dây liên hệ cha và con. Dù người con không biết rằng mình có Phật tính và vẫn lang thang trong cuộc đời khổ đau của con người, người ấy tình cờ đến với đức Phật. Đứng ở cổng ngôi nhà của đức Phật, các chúng sanh không biết rằng Ngài là cha mình. Nhưng đức Phật thì nhận ra con của Ngài ngay. Đức Phật luôn luôn gần gũi với chúng ta; chân lý thì ở khắp mọi nơi, và đức Phật chờ chúng ta tìm thấy Ngài. Chúng ta chỉ việc hòa hợp tâm mình với Ngài. Đức Phật cố gắng đưa các chúng sanh đến chân lý, nhưng các chúng sanh lại quay lưng với Ngài do bởi họ có cảm giác thấp kém, cho rằng giáo lý của Ngài quá cao xa đối với họ và rằng những người như họ không thể đến với Ngài được.

Thế rồi đức Phật muốn lôi kéo các chúng sanh, vạch ra một kế hoạch. Ngài gởi các sứ giả (những người phục dịch trong ngôi nhà của đức Phật và được sự an tịnh tâm thức ở đấy, tức là, hàng Thanh văn và Duyên giác) đều xuất hiện như người thường nhưng đã đạt tới trình độ tâm thức cao hơn các chúng sanh bình thường, và Ngài bảo chư vị ấy nâng cao trình độ tâm thức của con người sao cho chư vị có thể phối hợp được với những người như thế trong tư cách sứ giả. Bảo người con dọn đống phân có nghĩa là đức Phật dẫn dắt các chúng sanh thoát khỏi các ảo tưởng của họ bằng cách tu tập Tiểu thừa. Phần này của Ẩn dụ Người Con Trai Cùng Khổ áp dụng vào quá trình tu tập của bốn vị Đại Thanh văn hơn là vào trạng thái của các chúng sanh nói chung.

Sau khi dần dần khiến cho bốn vị Thanh văn quen với giáo lý của Ngài theo cách ấy, đức Phật muốn gọi họ là các con trai của Ngài và cố gắng cải tiến họ bằng giáo lý chân thực của Ngài. Trong khi ấy, bốn vị Thanh văn vẫn còn bị ấn tượng rằng giáo lý của đức Phật chẳng liên hệ gì với họ mà thuộc về một bình diện cao hơn, và họ đã vạch một đường phân cách giữa đức Phật và chính họ. Cho nên họ tiếp tục tu tập giáo lý Tiểu thừa một cách chuyên chú trong hai mươi năm.

Đây là điểm mà người thường nhận thấy khó theo cho được. Trong hai mươi năm, các ngài Tu-bồ-đề, Ca-chiên-diên, Ca-diếp và Mục-kiền-liên vẫn tiếp tục miệt mài dọn "đống phân" mà không hề mệt mỏi, sơ suất, sân hận hay tranh cãi với các đồng sự. Về điểm này, chư vị đã chứng tỏ đầy đủ danh xưng của mình là những đại đệ tử của đức Phật Thích-ca-mâu-ni. Theo cách ấy, cuối cùng chư vị đã đạt được tâm giải thoát và trở nên thuần thục với giáo lý của đức Phật.

Thế rồi đức Phật mở cửa kho tàng giáo lý của Ngài và bảo với chư vị ấy: “Các Ông có thể có mọi thứ trong kho tàng giáo lý của Ta”. Đây là cách nói của đức Phật, bảo rằng họ là những nam tử thực sự của Ngài, họ có thể lấy bất cứ thứ gì họ muốn. Nhưng chư vị ấy vẫn nghĩ rằng họ còn là những kẻ tôi tớ và không thể lìa bỏ cái tinh thần hèn kém của họ. Do đó, dù họ thành tựu bổn phận như giảng pháp thay đức Phật, toàn hảo và chân thành như là những sứ giả (đệ tử của đức Phật). Họ vẫn không thể lìa bỏ cái tâm thái của nhị thừa và rất hài lòng với tình trạng hiện tại của mình.

Đức Phật giảng Kinh Pháp Hoa trước khi Ngài nhập diệt, Ngài tuyên bố: “Mối liên hệ giữa đức Phật và hết thảy các chúng sanh là mối liên hệ cha và con. Tất cả đều có thể thành Phật”. Mới đầu các đệ tử ngạc nhiên về lời tuyên bố lớn lao này của đức Phật, và họ vô cùng hoan hỷ mà nhận ra rằng bỗng nhiên tài sản đức Phật (sự chứng ngộ của đức Phật) rõ ràng thuộc về họ.

Ẩn dụ này minh họa quá trình tu tập lâu dài của bốn vị Thanh văn ấy và cũng thể hiện lòng từ bi và năng lực thiện xảo của đức Phật mà qua đó Ngài kiên định chăm sóc các đệ tử và dần dần đưa họ đến trình độ cao hơn. Tuy vậy, cũng may là chúng ta có thể đối mặt với Kinh Pháp Hoa mà không cần trải qua quá trình lâu dài ấy. Do đó, chúng ta có thể lao thẳng vào đôi cánh tay của đức Phật. Nhưng những thái độ tâm thức khác nhau là cần thiết nếu chúng ta phải làm như thế. Phẩm kinh này cũng bàn đến những thái độ tâm thức ấy.

---o0o---

KIÊU MẠN VÀ KHIÊM TỐN

Thái độ tâm thức đầu tiên mà ta học ở phẩm kinh này là từ bỏ cái tinh thần tự ty. Tự nghĩ rằng mình vô dụng là từ chối Phật tính của chính mình, và do đó, là từ chối đức Phật. Như thế là một sự phỉ báng đức Phật.

Ta cần giải thoát tâm ta. Ta phải luôn luôn tự nhủ: “Ta cũng có thể thành Phật; ta đồng nhất với vũ trụ”. Ta phải nhắc đi nhắc lại mãi cho chính mình như thế. Khi ta tâm niệm điều này trong một thời gian nhất định mà không nghĩ gì khác hơn, ta có thể nhập vào trạng thái hoàn toàn định tâm. Trạng thái này khiến cho chúng ta tăng cường sự tự tin. Loại tự tin này hoàn toàn khác với sự kiêu mạn. Kiêu mạn nghĩa là nghĩ rằng mình đã thể chứng những điều mà thực ra mình chưa thể chứng, là phán đoán các sự vật theo sự nhận thức giới hạn của mình.

Mặt khác, khi chúng ta thể chứng điều gì, chúng ta thường không ý thức được ngay về sự thể chứng của chính chúng ta. Một người đã đạt được một trạng thái tâm thức rất cao mới có thể tự mình cảm nhận sự thể chứng của mình, nhưng hầu hết chúng ta đều không ý thức ngay liền sự thể chứng của chúng ta. Chúng ta chỉ dần dần biết đến nó nhờ các kết quả của nó. Chẳng hạn, một cách nào đó, chúng ta cảm thấy lòng thanh thản; chúng ta cảm thấy vui mừng; chúng ta đã có tấm lòng cởi mở; chúng ta không còn bực dọc hay sợ hãi những đổi thay tầm thường trong hoàn cảnh; chúng ta cảm thấy rằng mọi sự xảy ra như chúng ta mong muốn. Khi chúng ta có những cảm giác mơ hồ như vậy; dù không thực sự ý thức về chúng, chúng ta cũng đã đạt được cấp độ thứ nhất của chứng ngộ. Do đó khi nghĩ rằng: “Ta có thể thành Phật” hay “Ta đồng nhất với vũ trụ” thì đấy không phải là kiêu mạn, vì chúng ta đã thực sự kinh nghiệm điều này ở một mức độ nào đó.

Mặt khác, ta phải giữ thái độ khiêm tốn khi chúng ta nghe Phật pháp và khi chúng ta truyền bá Phật pháp cho người khác. Cả thái độ bên trong và bên ngoài của chúng ta đều phải luôn luôn khiêm tốn. Nhưng khi chúng ta nghĩ về chân lý thì chúng ta được phép tự hào bao nhiêu cũng được. Chúng ta có thể ấp ủ những ý tưởng có vẻ phô trương như “Ta là kẻ thừa kế vũ trụ vì ta là con đức Phật. Vũ trụ chính là của chúng ta, cho nên ta cũng có thể sở hữu vũ trụ”. Nghĩ như thế là một con đường tắt giúp chúng ta thẳng đến vòng tay của đức Phật, và khiến chúng ta làm như thế là mục đích duy nhất của sự xuất hiện của đức Phật trên thế gian này.

Thái độ tâm thức thứ hai mà ta học ở phẩm 4 là duy trì cả niềm tin lẫn sự nhận thức đối với kinh Pháp Hoa. Không có hai thứ ấy, chúng ta không thể vững chãi tiến vào vòng tay của đức Phật. Có thể chúng ta bị lệch khỏi đường đúng hoặc đi vào đường sai lạc hoặc đi vào ngõ cụt trong đời người. Nếu điều này xảy ra cho chúng ta thì chúng ta cần đọc lại kinh Pháp Hoa.

Theo cách ấy, chúng ta có thể chắc chắn tìm ra được cách quay cuộc sống của chúng ta vào con đường đúng đắn, vì kinh Pháp Hoa gồm những giáo lý có thể áp dụng cho người ta trong mọi tình huống; chúng ta có thể trở nên sáng suốt bằng cách khởi đầu từ bất cứ phần nào của kinh. Đây là thể cách khiến chúng ta có thể thoát ra khỏi những ngõ cụt của đời người.

Điều quan trọng thứ ba mà ta học ở phẩm 4 là những ai đủ may mắn gặp được kinh Pháp Hoa và có thể hiểu được kinh, tin vào kinh thì có thể tiến thẳng đến vòng tay của đức Phật. Tuy nhiên, thế giới ngày nay đang ở trong đời ác với ngũ trược, đầy dẫy những “người con cùng khổ”. Chúng ta chỉ có thể được gọi là đã thực sự tu tập tinh thần kinh Pháp Hoa nếu như chúng ta cứu được những người con cùng khổ theo hết khả năng của chúng ta. Điều độc nhất chúng ta có thể làm để cứu họ và dẫn dắt họ là hiểu tinh thần phương tiện thiện xảo của đức Phật như được minh họa trong phẩm này. Đồng thời, chúng ta phải noi gương đức Phật khi sử dụng phương tiện thiện xảo; chúng ta đừng quên rằng theo gương tốt của người khác là con đường tắt để đạt mục đích.

Bài học thứ tư mà chúng ta học ở phẩm 4 là cách thức tuyệt diệu để tiến từ niềm tin đến nhận thức được nêu tỏ ở đây. Bốn vị Thanh văn, nghe và hiểu Ẩn dụ về Ngôi Nhà Lửa. Không những họ chỉ nghĩ rằng họ đã hiểu Ẩn dụ ấy mà còn chứng tỏ sự hiểu của họ trước đức Phật bằng một Ẩn dụ khác. Không chỉ thọ nhận giáo lý một cách thụ động mà còn chủ động thông báo rằng chúng ta có thể hội được là cách thức rất tốt để vừa làm sâu nhận thức vừa nâng cao niềm tin của chúng ta. Hơn nữa, điều ấy cũng giúp làm sâu nhận thức của người khác và nâng cao niềm tin của họ. Chúng ta không nên bỏ qua điều quan trọng là nói về những kinh nghiệm tôn giáo của chính chúng ta cho người khác biết, như đã được nêu tỏ trong phẩm này.

C89: Chiến Binh Ánh Sáng

Chương 89: Chiến Binh Ánh Sáng

CHIẾN BINH ÁNH SÁNG là tất cả những Con-Người LUÔN BIẾT CHIẾN ĐẤU CHỈ ĐỂ CHIẾN THẮNG và VƯỢT LÊN CHÍNH BẢN THÂN MÌNH mà thôi, đồng thời, qua đó góp phần mình trong việc GIÚP ĐỠ những người khác cũng có được khả năng TỰ CHIẾN ĐẤU ĐỂ CHIẾN THẮNG và VƯỢT LÊN TRÊN chính họ.

ĐÂY LÀ CON ĐƯỜNG CHÂN CHÍNH RIÊNG DÀNH CHO SỰ TỰ GIẢI THOÁT bản thân ra khỏi Mãnh Lực Thế Gian, qua đó mà TIẾN HÓA KHÔNG NGỪNG THEO CHIỀU KÍCH THĂNG LÊN, THĂNG THIÊN, TRỞ VỀ QUÊ HƯƠNG NGUỒN CỘI - NHẤT TÂM THẲNG HƯỚNG VỀ MỤC TIÊU HỢP NHẤT!

Có 12 loại chiến binh ánh sáng có thể làm biến đổi linh hồn con người.
Việc phục vụ nhân loại không phải lúc nào cũng dưới ánh đèn sân khấu. Trên sân khấu, bạn không cần phải là một giáo viên tâm linh để có thể tác động giác ngộ cho người khác.

Bất kể bạn ở đâu, trong một môi trường bình thường, làm việc trong một công ty, vui chơi trong một khu vực chính của thực tế. Dù bạn ở đâu, bạn cũng có thể đi theo con đường của chiến binh ánh sáng.

Mọi người nhận thấy sự rung động của bạn, tình yêu của bạn và sự hỗ trợ cho người khác của bạn, sự phục vụ gương mẫu của bạn và sự tích cực mà bạn truyền một cách tự nhiên cho người khác. Đó là những gì thực sự giúp ích sau này, chỉ cần là chính mình và sống theo lẽ thật của bạn là đủ rồi, điều đó sẽ truyền cảm hứng cho sự thay đổi tích cực trong những người khác, điều đó sẽ chữa lành và thắp sáng trong linh hồn của những người khác.

Có 12 loại chiến binh ánh sáng và tất cả họ đều có cùng một mục đích cốt lõi là phục vụ nhân loại.

Phục vụ có thể là chữa lành cho nhân loại, truyền cảm hứng cho nhân loại hoặc dẫn dắt nhân loại đến một sự thay đổi tích cực.

Để giúp bạn xác định bạn thuộc về loại nào, dưới đây là 12 loại chiến binh ánh sáng và đặc điểm của họ. Khi xác định hành trình chiến binh ánh sáng của bạn, bạn phải chú ý đến sự hướng dẫn từ bên trong. Trực giác của bạn sẽ giúp bạn khám phá một hoặc nhiều năng khiếu độc đáo trong bạn.

1. Người kết lưới và người gác cổng.

Những chiến binh ánh sáng làm việc với các mạng lưới trên Gaia. Họ tạo ra mạng lưới con người, kết nối trái tim của tất cả mọi người đã thức tỉnh, họ là những cánh cửa thực sự trên trái đất, kết nối các địa điểm linh thiêng, thiêng liêng thông qua các đường ley và hoạt động như các cánh cổng cho phép ánh sáng đến với thế giới này qua trái tim rộng mở của họ.

Gác cổng là một dạng kết lưới cao cấp hơn, trong đó các chiến binh ánh sáng làm việc với một nhóm để mở các cánh cổng liên không gian, cho phép các cấp độ ánh sáng và tình yêu cao hơn tràn vào, trong khi những người kết lưới chỉ mang ánh sáng qua những cánh cổng tâm linh đã mở ra trên Gaia.

Những người gác cổng có thể mở ra những cánh cổng mới hoặc thậm chí là cả những cánh cổng đã bị đóng do sự trì trệ.

2. Người bảo hộ ánh sáng thiêng liêng.
Nhiệm vụ cốt lõi của loại này là hóa thân thành ánh sáng bất kể hoàn cảnh bên ngoài có như thế nào. Họ ở đây để duy trì tầng suất rung động và sự hiện diện cao hơn. Họ là ngọn Hải Đăng của nhân loại. Trong các sự kiện hỗn loạn và rắc rối, ánh sáng của họ tỏa sáng đủ để mang lại hi vọng và truyền cảm hứng cho những người khác.

Các chiến binh ánh sáng này nâng đỡ và hỗ trợ nhân loại trong quá trình thức tỉnh đang diễn ra. Phần lớn họ là các diễn viên hài, diễn giả truyền động lực, giáo viên tâm linh, người nổi tiếng hoặc thậm chí là những cá nhân bình thường ở địa phương mà bạn cảm thấy thoải mái khi dựa vào.

3. Người biến đổi.
Người biến đổi trung hòa sự tiêu cực và bóng tối bằng cách đi sâu vào nó và tỏa ra ánh sáng của họ. Khi sự tiêu cực biến trở về trung lập thiêng liêng, nó được khôi phục cân bằng – bằng cách biến đổi NGHIỆP trong quá khứ. Những người biến đổi hoạt động thay mặt và vì ý thức tập thể của nhân loại. Họ cũng có thể biến đổi cả dòng tộc của họ, họ đã có thể đã được chọn để được sinh ra trong một dòng tộc có nhiều nghiệp tiêu cực. Họ phục vụ để giải thoát, giải nghiệp, chữa lành và giúp rung động của toàn bộ dòng tộc họ thăng cấp.

4. Người chữa lành.
Những người chữa lành thực sự giúp đỡ tất cả mọi thứ: Nhân loại, Trái đất, Động vật, Linh hồn và tất cả chúng sinh bằng cách chữa lành các khía cạnh tinh thần, tình cảm, thể chất hoặc tâm linh của chúng. Là một người chữa lành, bạn phải lắng nghe sự hướng dẫn bên trong bạn về các phương thức, kỹ thuật và cách thức sử dụng thiên phú của bạn để phục vụ.

Hầu hết các nhà ngoại cảm là những người chữa lành nhưng họ chưa nhận thức được chuyện đó và họ cần sử dụng khả năng về cảm xúc của họ để mở khóa tiềm năng chữa lành. Điều quan trọng là bạn phải tập trung vào việc chữa lành bản thân trước tiên, bởi vì khi đó bạn có thể nâng cao sự rung động của bạn và tự lấp đầy bản thân bằng ánh sáng có thể chữa lành, hỗ trợ, phục vụ, yêu thương và hướng dẫn người khác.

5. Nhà tiên tri.
Những chiến binh ánh sáng này đã mở ra con mắt thứ 3 hoặc thị giác tâm linh khiến họ có thể nhìn xuyên qua thế giới vật lý và tấm màn ảo ảnh. Thiên phú của họ bao gồm việc xem bói hoặc truyền cảm hứng, trao sức mạnh và hướng dẫn người khác đến với lẽ thật của chính mình và chân lý của thế giới.

Họ cũng có thể tập trung vào các khu vực cần năng lượng của họ để chữa bệnh, chuyển hóa hoặc giải phóng. Chính những nơi này là nơi ánh sáng, sức mạnh và sự hiện diện của họ tạo nên sự khác biệt lớn. Những người này thường là những người tiết lộ sự thật đàng sau bóng tối.

Phần lớn họ là các bác sĩ tâm thần thật sự giỏi, những người được dán nhãn là nhà siêu linh như của Carl Jung, các nhà hoạt động vì sự thật và thậm chí là cả các nhà ngoại cảm chuyên nghiệp.

6. Người nắm giữ bản vẽ thiêng liêng.
Mọi người đều có một bản vẽ thiêng liêng, một khuôn mẫu cho một bản thể hoàn toàn thức tỉnh. Tất cả các chiến binh ánh sáng đều có khuôn mẫu này, nhưng những người nắm giữ bản vẽ thiêng liêng là hoạt động tích cực nhất trong việc điều chỉnh nó và lấy các mã thức tỉnh. Họ rất giỏi trong việc dịch các mã này để mọi người có thể hiểu chúng và sử dụng chúng để nâng cao trình độ ý thức của mình.

Những người nắm giữ bản vẽ thiêng liêng sử dụng hình học thiêng liêng và các hình thức giao tiếp thiêng liêng khác thông qua công việc của họ. Họ có làm việc ở bất kỳ lĩnh vực nào của cuộc sống nhưng điều quan trọng là cách họ sáng tạo và làm việc, đó là cách họ vô thức truyền đạt bản vẽ thiêng liêng.

7. Người mộng mơ.
Những người mộng mơ sử dụng thiên phú của họ bằng cách mơ mộng du lịch xuyên các chiều không gian và đi vào cõi mộng cho phép họ tiếp cận với những chiều kích khác nhau của sự trải nghiệm.

Những người mộng mơ thường là những người được gọi là những nhà du hành tâm linh, họ sử dụng một số nghi lễ hoặc thiết bị bổ sung để tiến hành các chuyến đi ảo và tiếp cận những cõi và ý tưởng mà sau này sẽ truyền cảm hứng và nâng tầm linh hồn con người.

Nếu không có những người mộng mơ thì sẽ không có 90% các tác phẩm nghệ thuật, công nghệ và sáng chế trên thế giới ngày nay!

8. Người đưa tin.
Những người đưa tin tiếp nhận sự hướng dẫn và thông điệp từ thần thánh, các thiên thần, các sư phụ trên Trời, Ngân Hà và bản thể cao hơn của họ. Họ chia sẻ các thông điệp này thông qua video, blog, bài giảng hoặc tác phẩm văn học.

Dù là phương tiện hay nền tảng nào, những người đưa tin đều giúp nhân loại thức tỉnh bằng cách chia sẻ thông tin sâu rộng về tâm linh.

Họ giải thích cho mọi người những gì đang xảy ra với mọi người, khiến mọi người hiểu rõ hơn về hành trình tiến hóa này thông qua sự hướng dẫn mà họ nhận được từ Thánh Linh.

9. Người biểu lộ.
Những chiến binh ánh sáng này tham gia vào việc dệt ánh sáng để biểu lộ những thay đổi trên trái đất. Có thể dưới dạng định hướng và biểu lộ các dòng thời gian, biểu lộ các sự kiện tích cực hoặc tạo mẫu cho tình yêu lớn hơn, ánh sáng lớn hơn và sự hài hòa giữa các tạo vật.
Họ làm điều này thông qua nhiều cách khác nhau như thiền và hình dung kèm theo sự kiểm điểm. Những người biểu lộ vì lợi ích cao nhất của tất cả chúng sinh, Gaia, động vật và tất cả nhân loại, nhưng khi họ biểu lộ, họ vẫn cật lực rèn luyện bản thể bên trong của họ để đảm bảo rằng sự biểu lộ của họ không xuất phát từ bản chất tự tôn nhưng là từ trung tâm trái tim của họ. Hầu hết những người này thậm chí không tập trung vào việc biểu lộ mà tập trung vào việc dọn dẹp con đường để những gì họ phát ra là vì lợi ích của tất cả.

10. Người dẫn đường lên Trời.
Họ là những chiến binh ánh sáng đang dần lên Trời, họ đang ở các cấp độ ánh sáng cao hơn và chia sẻ những gì họ tìm hiểu về quá trình lên Trời. Những người này bước đến bờ vực giác ngộ và tiến xa hơn nữa bằng cách đặt câu hỏi và thể hiện các cấp độ ánh sáng cao hơn.

Hầu hết các giáo lý của họ là nhằm vào các bậc thầy tâm linh để họ có thể đẩy mạnh hơn sự tiến hóa tâm linh giữa nhân loại. Những người dẫn đường lên Trời cho chúng ta thấy cách vượt qua một số cạm bẫy của Giác Ngộ để giúp tất cả mọi người không đánh mất chính mình trên con đường lên Trời. Một số giáo lý của họ thậm chí mâu thuẫn với giáo lý thường ngày của các chiến binh ánh sáng khác. Điều này là bởi vì họ tiếp cận lẽ thật từ một góc nhìn cao hơn nhiều và họ thấy được những sai sót có thể xảy ra với tâm linh mù quáng.

11. Người chỉ đường.
Những người chỉ đường sống đúng theo những gì họ nói, họ thể hiện quá trình lên Trời và sống cuộc sống của họ một cách chân thực nhất. Họ hướng tới lợi ích cao nhất của tất cả chúng sinh và sống một cuộc sống tỉnh thức và đầy cảm hứng.

Những người này thậm chí không nhận thức được rằng họ đang phục vụ nhân loại theo một cách nào đó. Tất cả những gì những người chỉ đường làm là sống theo lẽ thật của họ và những lời dạy mà các chiến binh ánh sáng khác chia sẻ với thế giới.

Những người này là trái tim của các chiến binh ánh sáng, họ là những gì truyền cảm hứng và thúc đẩy các chiến binh ánh sáng khác tiếp tục làm những gì họ đang làm bởi vì vẫn còn những cái tốt trên thế giới cần ánh sáng của họ và bằng cách nhìn vào họ, các chiến binh ánh sáng khác được nhắc nhở rằng đâu là điều thực sự quan trọng.

12. Người hợp nhất.
Những chiến binh ánh sáng này nhìn thấy được cách mọi thứ kết nối với mọi thứ khác. Họ rất giỏi trong việc tìm kiếm các điểm chung và kết hợp các triết lý khác nhau thành một. Họ là những dịch giả thu thập những lời dạy của các chiến binh ánh sáng khác, những lẽ thật và triết lý của các bậc thầy tâm linh và định hình chúng sao cho mọi người thực sự dễ tiếp thu.

Những người hợp nhất rất giỏi trong việc nhận biết bản chất đàng sau những ý kiến khác nhau. Đó là cách họ có thể kết nối mọi người với nhau. Một cách tự nhiên, họ có tầm nhìn xa vượt trên hai mặt và hiểu cái tổng thể bao trùm hai mặt đó. Những người này không chỉ có dịch mà còn hợp nhất các nhóm chiến binh ánh sáng khác nhau để tác động của họ có thể lớn hơn nhiều.

Mặc dù, bạn nhiều khả năng là một trong 12 loại chiến binh ánh sáng, bạn có thể có một số đặc điểm từ tất cả các loại khác. Mỗi người đều là một sự kết hợp khác nhau của các loại này dựa trên các cách, các loại phụ có thể mang lại lợi ích cho việc thực hiện mục đích của loại chính.

Nội dung toàn bộ bài viết được ghi lại từ video clip
https://youtu.be/qv3mtMV3eCU

THÊM VÀI LƯU Ý ĐẶC BIỆT QUAN TRỌNG, NHẤT THIẾT CẦN PHẢI ĐƯỢC QUÁN NIỆM THẬM THÂM CHÁNH NIỆM THANH TỊNH VÔ ƯU, TRONG SUỐT TUYỆT ĐỐI:

1- Tất cả đều là các chiến binh ánh sáng, bao hàm từ hạt hạ vi trần cho tới tất cả cát đá cỏ cây, muôn loài vạn vật, hành tinh, ngân hà và hơn thế nữa, vô biên. Nên tìm xem để bổ sung và nâng tầm nhận thức thông qua các trang web, các bài viết, các cuốn sách nói về LỊCH SỬ HÌNH THÀNH và PHÁT TRIỂN CỦA NHÂN LOẠI, kể cả “chính sử” là lịch sử được nhân loại công nhận, tin cậy và Huyền Sử.

Rất nên xem và chiêm ngẫm thật sâu tài liệu này!
http://www.thongthienhoc.com/sach%20tien%20mac%20doa.htm

Thực chất, Huyền Sử lại mang SỰ THẬT NỘI HÀM ở các tầng nhận thức cao hơn hẵn so với “chính sử” trong nhân loại cổ kim, nhưng để có thể THẤU TỎ HUYỀN SỬ trên bình diện CHÂN XÁC thì đòi hỏi phải có khả năng tâm linh ở tầng rất cao, cao siêu việt nhân loại, siêu việt luôn cấp độ BỒ ĐỀ và ít nhất cũng là MỘT TÂN TẤN CHÂN THẦN THỂ ở Ngôi Thứ Ba – Chúa Thánh Thần, là Ngôi Hoạt Động Bác Ái – Thần Tử, Thiên Tử, hàm ý CHỈ VỀ nhóm đối tượng Sinh Mệnh Tiến Hóa Cao Tầng, là các Môn Sinh Đệ Tử Trực Hệ của Chư Thần, Phật, God, Thiên Chúa Ngôi Hai và Ngôi Một và TRÊN CẤP TIẾN HÓA này nữa, là Đấng Chí Tôn Thượng Đế, Đấng Hằng Ngự ở Cõi Adi, Cõi Thiêng Liêng.

Xem lại bài viết tại đây, đã TÓM LƯỢC VỀ BẢY CẢNH GIỚI CỦA THÁI DƯƠNG HỆ. Cũng chính là THÁP BẢY BÁU CỦA ĐỨC NHƯ LAI ĐA BẢO:
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=2501342376564590

2- Đây là CÕI NHỊ NGUYÊN, là vị diện không gian hết sức đặc thù, dùng để HIỂN LỘ cho sự thật ở mọi cấp độ, mọi chiều kích tiến hóa. Chính vì lẽ đó nên nơi đây còn được gọi là Cõi Dương Trần, khái niệm này mang hàm nghĩa là tất cả sự thật sẽ được PHƠI BÀY RA ÁNH SÁNG, BÓC TÁCH VÀ PHƠI BÀY SỰ THẬT TRẦN TRỤI.

Cũng vậy, Dương Gian, không gì khác là mang THỰC NGHĨA của Không Gian Vị Diện dùng để BIỂU LỘ SỰ THẬT ở các chiều kích khác nhau, phục vụ cho tiến hóa tâm linh của tất cả các Sinh Mệnh Tiến Hóa từ Hạt Hạ Vi Trần cho tới cấp độ CAO NHẤT có thể xuất hiện trong nhân loại: VÔ THƯỢNG ĐẠI NHÂN hay còn được gọi là CHÚA BA NGÔI, Vô Thượng Bồ Tát, Vô Thượng Bồ Đề, Các Thánh Tông Đồ Phụng Sự - là Ngôi Ba như đã nói ở phần trên!

Vậy cho nên, TÍNH HAI MẶT của mọi vấn đề luôn là ĐIỂM CỐT LÕI mà bất kỳ cá thể sinh mệnh tiến hóa ở bất kỳ cấp độ này, khi đang TRONG THÂN XÁC CON NGƯỜI nơi đây, thảy đều BUỘC PHẢI CHÚ Ý TUYỆT ĐỐI.

12 loại chiến binh được đề cập trong bài, có thể hiểu là 12 MÔN ĐỆ, 12 CON GIÁP, THẬP NHỊ NHÂN DUYÊN… và luôn có HAI MẶT TRONG CÙNG MỘT CHỦ THỂ NÀO ĐÓ khi đang biểu lộ cho MỘT hoặc nhiều, thậm chí cả 12 loại này TRONG MỘT.

Ngoài ra, vượt lên trên 12 loại “chiến binh” ánh sáng được kể ra này, còn có CHƯ VỊ HỘ PHÁP, chịu trách nhiệm ĐẢM TRÁCH TOÀN BỘ MA TRẬN PHÁP, tức là các vị THUỘC SỰ CHƯỞNG QUẢN CỦA ĐẤNG ĐƯỢC TUYÊN XƯNG LÀ CHÚA CÁC ĐẠO BINH, cầm CÂN NHÂN QUẢ, là CHÚA CỦA SỰ CÔNG CHÍNH, CÔNG BÌNH, QUÂN BÌNH CẢ ĐẠI VŨ TRỤ, đóng vai trò BẢO ĐẢM THỰC THI CÔNG CHÍNH trong bất kỳ trường hợp nào để GIỮ ỔN ĐỊNH TUYỆT ĐỐI cho toàn HỆ THỐNG Hành Tinh, Vũ Trụ và Đại Vũ Trụ… ở tất cả cấp độ - và dĩ nhiên là GIỮ CÂN BẰNG – CÔNG BẰNG cho tới VÔ BIÊN, thuộc TỔNG QUYỀN CHƯỞNG QUẢN CỦA ĐẤNG CHÍ TÔN TUYỆT ĐỐI – là Tổ Tiên Khai Tổ của Cả Đại Vũ Hoàn và NGƯỜI đã SINH RA, ĐÃ BAN SỰ SỐNG cũng như Đào Tạo Nên Vô Số Chư Phật, God trong khắp cùng Hoàn Vũ Vô Biên.

Tham khảo thêm về Thanh Tịnh Đại Hải Chúng, Hương Vân Cái, và Công Đức Lâm Bồ Tát tại đây:
https://ptdvo.blogspot.com/…/thanh-tinh-ai-hai-chung-huong-…

Để có thêm hay được nhắc nhớ, hệ thống lại các TRI THỨC về các hoạt động vô cùng đa dạng, BẤT KHẢ TƯ NGHỊ của TOÀN BỘ CƠ TIẾN HÓA mà TỔ TIÊN NƠI CÕI TRỜI THIÊNG LIÊNG CAO CẢ đã sắp đặt, an bày CHO LỚP LỚP THẾ HỆ CHƯ SINH HẬU HỌC.

Ngoài SÁCH GƯƠNG PHÚC, cần thiết hãy xem thật kỹ TƯ LIỆU CUỘC ĐỜI của ĐỨC PHẬT (xem trọn bộ 55 tập) cùng kết hợp các tài liệu về cuộc đời của Đấng Đạo Sư đã TỪNG THỊ HIỆN là Đức Phật Bổn Nguyên – Như Lai – Thế Tôn.

Sách ĐỨC PHẬT LỊCH SỬ https://thuvienhoasen.org/p53a8121/loi-gioi-thieu

Cuộc Đời Chúa Jesus,
Loạt Phim The Bibble https://www.phimconggiao.com/the-bible-thuyet-minh/
Cùng Phim Tư Liệu về cuộc đời Các Vị Thánh Tông Đồ Phụng Sự.

Cuộc đời chư vị Tổ Sư như:
- Bồ Đề Đạt Ma https://youtu.be/WIBhnZtgnY0
- Lục Tổ Huệ Năng https://youtu.be/k1OIKHmFRhU
- Đại Đường Huyền Trang https://youtu.be/K7YPSkX8K3k

- Web https://www.minhtrietmoi.org/
- Web liên kết https://www.minhtrietmoi.org/WPress/links/

Cùng tất cả các NGUỒN TƯ LIỆU CHIA SẺ THÔNG TIN về THỜI ĐẠI MỚI, các phong trào Sự Sống Mới, Phong Trào Ánh Sáng… từ KHẮP NƠI TRÊN THẾ GIỚI đã hoạt động tích cực VÌ NGÀY SẼ ĐẾN, ĐANG TRÊN ĐƯỜNG ĐẾN, đều đã đang có mặt tại Việt Nam như: Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Phật Giáo Hòa Hảo, Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Vô Vi, Nhân Điện, Trường Sinh Học…

HÃY TỰ CHỌN CHO MÌNH MỘT LỘ TRÌNH PHÙ HỢP NHẤT.

Và trên hết HÃY THƯỜNG NHỚ RÕ, DUY NHẤT CHỈ CÓ MỘT NGUỒN, MỘT QUÊ HƯƠNG, MỘT GỐC RỄ THIÊNG LIÊNG CAO CẢ, MỘT NƠI MÀ TẤT CẢ ĐỀU SẼ TRỞ VỀ CHUNG CUỘC, KHẢI HOÀN, TRỞ THÀNH MỘT NGƯỜI NHÀ QUÊ, là những Sinh Mệnh Tận Hiến Toàn Triệt, đóng góp sự phục vụ cho TIÊN TỔ NHÀ QUÊ trong mọi thân phận hèn mọn nhất, thấp thỏi nhất khi ĐẾN TRONG XÁC THỂ CON NGƯỜI trong các thế giới khác nhau mà HIỆN THỰC NHẤT LÀ ĐANG Ở CÕI THẾ GIAN DƯƠNG TRẦN chốn nơi này, TẠI ĐÂY, NGAY BÂY GIỜ, KIẾP NÀY với mọi thực trạng đang là!

LẦN NỮA, HÃY RẤT NÊN XEM THẬT KỸ LẠI phần dưới đây và chiêm ngẫm cho thật thậm thâm trong khả năng có thể hiện thời, qua đó mà CÓ ĐƯỢC NHỮNG QUYẾT ĐỊNH TỰ XÁC QUYẾT cho bản thân cũng như cho tất cả những gì thân thương nhất mà HOÀN TOÀN KHÔNG CHỈ, CHƯA BAO GIỜ LÀ GIƠI HẠN TRONG MỘT KIẾP, MỘT ĐỜI NGƯỜI, MỘT GIỚI HẠN BẤT KỲ nào hết cả!

Thông Điệp!
CHÂN LÝ HIỂN NHIÊN nói lên rằng:
Vĩnh hằng bất biến vô tận vô biên có nghĩa là, bất kể là gì, bất kể thế nào... thì thảy đều đời đời không bao giờ có chút đổi thay nào. Luôn bất di bất dịch, bất biến tuyệt đối!
Tình Thương của Tiên Tổ Nhà Quê, của Liệt Tổ Liệt Tông nơi Quê Hương Hằng Cổ dành cho hết thảy sinh linh hậu duệ trong khắp cùng hoàn vũ vô biên cũng hoàn toàn là như vậy, là trường sinh, trường tồn miên viễn, mãi mãi không bao giờ có chút đổi thay nào hết cả.

Chân Lý Hiển Nhiên cũng cho thấy Sự Thật Hiển Hiện rõ ràng chân xác tuyệt đối rằng: Cả Đại Hoàn Vũ Vô Biên luôn đời đời hằng mãi được vui thỏa trong Đại Điển Hồng Ân Tình Thương Vô Tận Vô Biên đó từ Tiên Tổ Nhà Quê và hết thảy sinh linh hậu duệ không nên, tuyệt nhiên không hề cần phải âu lo, bận tâm chi có chút vơi bớt, đổi thay nào hết cả!

Tuy nhiên, nếu như sinh linh hậu duệ mà cảm thấy đã thỏa mãn, cảm thấy là đủ rồi, tự động CÓ NHÃ Ý THANH CAO không muốn tiếp nhận Tình Thương vô biên bất tận từ Tổ Tiên, không muốn Nguồn Ân Điển Tình Thương Bất Tận của Tổ Tiên đi qua nữa, cảm thấy phiền, có sự không hài lòng... bất kỳ nào vì Tổ Tiên, từ Tổ Tiên... thì ngay tức khắc, Tổ Tiên cho thành toàn như nguyện và bất kỳ sinh linh cá thể nào cũng luôn được Tổ Tiên bảo đảm thành toàn đúng y như niệm ý, nguyện vọng cá nhân toàn triệt.

Đây là LUẬT TỰ DO Ý CHÍ BẤT KHẢ XÂM PHẠM hay còn được gọi bằng cách gọi khác là LUẬT TỰ GIÁC GIÁC THA, LUẬT TÌNH NGUYỆN. Là ĐẠO LUẬT VŨ TRỤ DO TIÊN TỔ NHÀ QUÊ QUY ĐỊNH và là LUẬT BẤT BIẾN VĨNH HẰNG.
Tri Thức hay còn gọi là Bể Học... cũng y như thế, được khẳng định tuyệt đối đều là CỦA TỔ TIÊN và TỪ TỔ TIÊN hết cả, luôn là NGUỒN ÂN ĐIỂN bao la bất tận không cùng, bảo đảm cung ứng vẹn toàn cho cả Đại Hoàn Vũ Vô Biên thoải mái dùng đời đời mà tuyệt nhiên không bao giờ có chút thay đổi, sút giảm, vơi đi, biến dị nào!

Cũng vậy, Thuốc - với mọi loại thuốc từ chữa trị đặc trị mọi tật bệnh, khổ đau, kiếp nạn... hay cũng như dạng thức dùng để ngăn chặn, chủng ngừa trước mọi sự nhiễm bệnh - LÀ NGUỒN ÂN ĐIỂN VÔ BIÊN chỉ riêng dành cho Người Có Bệnh, Kẻ Yếu Đuối, Người Cần Đến, CHÂN TÂM THỰC SỰ CẦN ĐẾN mà thôi. Với những ai khỏe mạnh, ai chân tâm thực sự không cần, ai đã trưởng thành, có thiện tâm, tự có nhã ý không cần nữa thì Tổ Tiên cũng luôn vui vẻ chiều lòng kẻ ấy mà ngưng dứt, CẮT ĐỨT NGAY LẬP TỨC mọi Hồng Ân Đại Điển bất kỳ nào. Tổ Tiên luôn không muốn có và không muốn nhìn thấy bất kỳ hậu duệ nào không vui, không hài lòng với Tổ Tiên và Tổ Tiên luôn thuận ý chiều theo tất cả, CHUẨN Y CHO NHƯ NGUYỆN, ngay lập tức, dứt khoát triệt để!

Một niệm BIẾT RỒI, ĐỦ RỒI, KHỎE RỒI... của con người nơi đây, vì cảm thấy đã đủ TRƯỞNG THÀNH RỒI, vì CẢM THẤY ĐÃ LỚN và MẶC NHIÊN TỰ NGUYỆN CÓ NHÃ Ý KHÔNG CÒN PHẢI CẦN TỚI TỔ TIÊN NHỌC LÒNG QUAN TÂM chi nữa... từ trong thâm tâm sâu thẳm bất kỳ ai đó nơi đây khởi lên trước Tổ Tiên, thì ngay lập tức cũng chính là sự tự phong bế, tự đóng sập cánh cửa với Tổ Tiên và đã ngay lập tức, bằng nhã ý tiết kiệm thanh cao thánh thiện của mình mà tự nguyện cắt đứt, chấm dứt Nguồn Ân Điển Vô Biên Vô Tận của Tổ Tiên tiếp tục đi qua!

Tất cả người nhà quê tự cổ chí kim và mãi mãi, vì đều là đến từ Bần Cố Hương, hiểu rất rõ về Tổ Tiên cho nên cũng tuyệt nhiên Tuân Thủ LUẬT LỆ TỰ NHIÊN VĨNH HẰNG mà Tiên Tổ Nhà Quê ĐÃ ĐỊNH RA, tuyệt nhiên cũng đi tới dứt khoát chấm dứt, từ chối mọi kết nối cùng NGƯỜI BIẾT, NGƯỜI ĐÃ KHỎE MẠNH RỒI với ý niệm thâm sâu kiên định ý chí KHÔNG MÀNG, KHÔNG MUỐN PHIỀN TỚI TỔ TIÊN vì TỰ CÁ NHÂN ẤY NHẬN THẤY ĐÃ ĐỦ TRƯỞNG THÀNH RỒI, ĐỦ KHÔN LỚN, ĐỦ LÔNG ĐỦ CÁNH RỒI và KHÔNG CẦN TỚI TỔ TIÊN NHỌC LÒNG QUAN TÂM CHĂM SÓC BẢO BAN cũng như BẢO VỆ nữa rồi!

Sự thật, ngay đến với cả Tiên Tổ Nhà Quê Vô Biên Bất Tận mà con người nơi đây còn không cần, không chân tâm hướng về vì TỰ NHẬN THẤY ĐÃ BIẾT, ĐÃ KHỎE MẠNH, ĐÃ TRƯỞNG THÀNH, ĐÃ ĐẦY ĐỦ HẾT, ĐÃ HÀI LÒNG MÃN NGUYỆN VỚI ĐỜI SỐNG NƠI ĐÂY RỒI thì những người nhà quê bé mọn, vốn cũng chỉ là kẻ hầu người hạ, là tôi tớ của Liệt Tổ Liệt Tông, từ nơi Chốn Quê Hương Hằng Cổ được Tiên Tổ Nhà Quê sai phái tới đây thì làm sao có thể có chút giá trị nào với nơi đây được chứ!

Từ nay, HÃY LÀM TẤT CẢ ĐỂ TỔ TIÊN THA THỨ nếu như muốn VỀ LẠI BẦN CỐ HƯƠNG!

Những người nhà quê luôn rặt chỉ là những kẻ quê mùa cục mịch, được Lệnh Tổ Tiên sai phái đến đây mà thôi!

Tổ Tiên tha thứ, chấp nhận, tự khắc có huyền cơ khải thị. Còn bằng chưa hay là không, thì bất kể người nhà quê từ Bần Cố Hương nào tới đây, cũng tuyệt đối phải chào thua mà thôi!

Từ Bần Cố Hương!

- - -

Những dòng này được viết trong thời không thực tại khổ đau chung cuộc, hầu nguyện vì đại chúng những ai thấy nghe thọ cảm thấu nhận khổ đế vô thường mà diễn nghĩa. Như vậy tôi mơ, một giấc dài vô tận đau thương về khát vọng Vĩnh Hằng.

Khi con người sống trong Tình Yêu Tuyệt Đối Vô Điều Kiện. Xác thân người là cây thập tự neo giữ hồn thiêng vào dục vọng trần thế.

Vì đâu tổ nghiệp sinh tông là tội lỗi tích lần, nhân lên chia mãi, vô tận không nguôi?

Vì đâu yêu thương là khổ sai, là chứa chan ngập tràn nhầy nhụa nhây nhớt ái ân dâm dầm mưa vũ khát khát mê mê sảng sảng chát chát chúa chúa thét gào?

Vì đâu dục là động, là luân, là hồi, là si, là ngã, là đau, là khổ?

Bởi tôi người ta, muốn tất cả ngoài Vĩnh Hằng Chí Kính.

Ôi chỉ mong một điều duy nhất tột độ kiếp người, là Tĩnh Lặng Tình Yêu một điều  xứng đáng.

Ôi thập tự, điều gì xứng đáng trong cõi đời này ngoài Khổ Đau?

Xác Hồn này đã chịu Khổ Đau thống thiết khi tách biệt thất lạc khỏi Ngài. Rồi từ đó kinh hoàng nối tiếp kinh hoàng, tất thảy chỉ là biến cố đau thương cuộc cuộc.

Cực thịnh, cực suy, cực phúc, cực họa, cực tích, cực tàn!

Ôi lang thang linh hồn phiêu dạt, tôi đau cùng cực thế.

Tôi sống trên nền sai, chết trong mộ lầm, sinh trong bụng lạc.

Trinh Nguyên nào thánh hoá đời tôi, cho thăng kiếp hạ trần? Cho thôi tình thường mê tạo, yêu hoan?

Hỏa muội nào tam thiêu vọng nghiệp, để đời tôi vĩnh viễn hương hồn?

Cho không tôi, không đời, không lối.

Ôi hãy khóc, những linh hồn lạc lối, hãy khóc cùng tôi, những châu sa rơi vỡ rồi thôi, trở về ...

Trước sau mai hậu, khi tiện nghi đã mất, vật chất hư mòn, ngôn ngữ lãng quên, Dương Gian có nghe chăng những tiếng khóc lặng thinh đồng âm điệu hận...

Ái Bi Trần Điều

Thăng nốt hạ:
Hai người già ngồi trong nắng bụi, đọc cho nhau nghe điều gì ở sách, ông gật đầu ông tâm đắc, nhịp nhộn phố thành. Thư viện trẻ học, học hăng say. Cống và Hiến tiếp tục, cho đến niên sử còn.

Máy và móc cải tiến
Cập và nhật tương liên
Tiến và hoá miên triền

Bi Thương cùng Bình Lệ.

- - -

Baba Nam Kevalam

Ý thức vô hạn _ Ở khắp mọi nơi
Tình yêu vô hạn _ Ở khắp mọi nơi
Tôi yêu dấu nhất _ là chỉ MỘT (NGƯỜI).

The infinite Consciousness _ Is every where
The infinite Love _ Is every where
My most beloved _ Is the ONLY ONE.