Từ Bethlehem đến Calvary - Alice A. Bailey
http://www.mediafire.com/file/dlrhqmk5g3fcn1t/Tu_Bethlehem_den_Calvary.pdf/file
Quyển sách này được xuất bản với lòng thiết tha mong mỏi nó sẽ có tác dụng hoàn toàn xây dựng. Nhờ đó mà chúng ta tin tưởng nhiều hơn vào Đức Christ và nhận thức sâu rộng hơn về công việc mà Ngài đã đến để khởi đầu.
Qua nhiều năm, tôi đã làm việc với tư cách nhà truyền bá Phúc âm và rao giảng các nguyên lý Thiên chúa giáo. Tôi cũng đã có một thời gian khó khăn khi suy ngẫm về mối liên hệ của chính mình với Đức Christ và với Thiên chúa giáo.
Tất cả đã giúp tôi nhận thức được hai điều hoàn toàn rõ rệt: thứ nhất, nhận thức sự thực về chính Đức Christ và Sứ mệnh của Ngài; và thứ hai, nhận thức rằng việc phát triển tâm thức Christ và Bản tính Christ trong mỗi người, cũng như trong toàn nhân loại sẽ mang lại giải pháp cho vấn đề khó khăn của thế giới.
Tôi hoàn toàn tán đồng những lời sau đây của Arthur Weigall:
“Tuy nhiên, khác với nhân vật Jesus của khoa Thần học, Đức Jesus được ghi trong lịch sử mãi mãi vẫn là ‘đường đi, lẽ thật, và sự sống’. Tôi tin chắc rằng trong Thế kỷ Hai mươi này chỉ cần tập trung vào hình ảnh lịch sử của Chúa và giáo huấn của Ngài cũng đủ khơi dậy lòng nhiệt thành tìm đạo và phụng sự. Đó là điều mà trong thời đại trước được gợi lên nơi người tín đồ bình thường bằng cách đưa ra giáo điều thần học, sự đe dọa về hỏa ngục, và cử hành những nghi lễ, công phu tỉ mỉ.”
Thiên giới đang trong quá trình hình thành nhanh chóng. Tất cả những ai nhìn xa thấy rộng và nhận thức được sự mỹ lệ và thiên tính đang xuất lộ nhanh chóng trong con người đều có thể là nhân chứng cho điều đó.
Chúng ta đang trải qua giai đoạn chuyển tiếp giữa thời đại cũ và thời đại mới. Sứ mệnh đích thực của Đức Christ nhằm mang lại sự thiên khải sắp đến, nhưng hầu như thường bị che lấp bởi những hàm ý và các tranh cãi về Thần học.
Càng phát triển, nhân loại sẽ càng nhận biết được Đức Christ và công việc của Ngài, đồng thời trở nên hữu thức tham gia vào Thiên giới.
Nhiệm vụ trước mắt bao gồm trách nhiệm, cơ hội và vận mệnh của chúng ta là hữu ý khơi dậy Sự Sống Christ trong tâm hồn mỗi người và nhanh chóng hội nhập vào Thiên giới.
Cuối cùng tôi xin cảm ơn Ông William Cummings và Ông Allan Murray đã có lòng giúp tôi một cách khôn ngoan, sáng suốt. Nhờ đó mà tôi đã có thể viết ra quyển sách này.
" Các biểu tượng ma quỹ và Ông già Noel này là bằng chứng cho những điều nói trên – là hiện thân của những lưỡng nguyên chính yếu trong phạm vi phẩm tính. Toàn thể đời người, với tính cách con người, cứ mãi dao động giữa các cặp đối cực này, cho đến khi cuối cùng họ đạt được sự thăng bằng. Rồi từ đó về sau, họ cứ đi tới hướng về những điều thiêng liêng. Có lẽ rất hữu ích nếu đôi khi tất cả chúng ta bỏ thời gian suy ngẫm sâu xa về các đối cực này trong đời sống con người. Đó là thiện và ác, ánh sáng và bóng tối, sự sống và sắc tướng, tinh thần và vật chất, ngã và phi ngã, điều thật và không thật, chân lý và giả trá, phải và quấy, lạc thú và đau khổ, sự thúc đẩy và trở ngại, linh hồn và phàm ngã, Christ và ma quỹ. Hai đối cực sau cùng này tóm lược vấn đề khó khăn của ba điều cám dỗ. Các đối cực cũng được định nghĩa là tính hữu hạn và vô hạn, vốn là đặc trưng của một đàng là con người, và đàng kia là Thượng Đế. Khi nghiên cứu ba sự cám dỗ này, chúng ta sẽ thấy những khác biệt giữa các đối cực rõ ràng đến mức nào. Khi bị cám dỗ, Đức Christ không thể mâu thuẫn với chính mình. Thế nên, Ngài tự đồng nhất với sự hoàn thiện. Ngài cho chúng ta thấy hình ảnh của một người “ở thế gian, nhưng không thuộc về thế gian,”35 bị ma quỹ cám dỗ, nhưng không có phản ứng nào sai theo gợi ý của quỹ ma. Do đó, Ngài là linh hồn đã giải thoát, là linh hồn thiêng liêng – không hề bị chi phối bởi dục vọng và những thử thách của nó, không bị xác thịt và những cám dỗ của nó làm lem ố, và thoát khỏi những tội lỗi của tiến trình trí tuệ. Đó là (114) ý chí của Thượng Đế cho mỗi người và cho tất cả chúng ta. Và tác giả nói trên viết thêm: “Không thể có tự do . . . trừ phi ý chí thiêng liêng thực sự hòa hợp làm một với ý chí của con người hữu hạn trong mỗi phàm nhân.”36 Đức Christ là một Phàm nhân như thế. Điều thiện vốn trái lại với điều ác, và thái độ của Đức Christ đối với ma quỹ là thái độ đối lập không thỏa hiệp. Trong thái độ này, Ngài soi sáng vấn đề, và làm những gì mà tất cả những linh hồn khác đều có thể làm. Như tôi đã nêu ở phần trước trong sách này, về tính cách độc đáo và đặc biệt của Ngài – gồm sự thực cơ bản là Ngài dùng những phương pháp phụng sự, để chiến thắng và hy sinh, mà bất cứ ai trong chúng ta cũng đều có thể sử dụng. Nhiều người trong quá khứ đã chết cho những người khác. Nhiều người đã đối đầu với điều tà ác một cách không khoan nhượng. Nhiều người đã hiến dâng đời mình cho công việc phụng sự. thế nhưng, chưa ai đã thành công với sự hoàn thành và hoàn thiện như Đức Christ.
Thiết tưởng không thể lặp lại nhiều hơn rằng sự cao cả của Ngài là do Ngài có tinh thần đại đồng. Ts. Bosanquet bàn về vấn đề phàm tính này như sau:
“Điều chúng ta cần làm là tốt hơn nên đặt con người thật của mình vào những gì cụ thể và tốt đẹp nhất. Và trong khi mong muốn con người này phát triển và hài mãn, chúng ta nên mong muốn tăng cường cá tính chân thực của mình, bằng cách giảm bớt thái độ loại trừ theo hình thức . . . Sẽ có lời phản biện rằng cá tính chân thực – có phạm vi và tổ chức rộng lớn – thì làm gia tăng sự tách biệt cũng như sự toàn diện của cá nhân. Hiển nhiên là với điều kiện nó phải giảm bớt thái độ loại trừ. Những nhân vật vĩ đại trên thế giới không chỉ sinh ra từ cha mẹ của họ ở thế gian. Tất cả các thời đại và các quốc gia đều hội tụ trong họ . . . Khi mong muốn sự hoàn thiện phát triển cao tức là chúng ta mong muốn một điều gì không còn đồng hóa với hay bị đồng hóa bởi các sự cố trong cuộc sống trần gian.”37
Nếu những lời nói trên được nghiên cứu liên quan đến những sự cám dỗ của Đức Christ, thì chúng ta sẽ thấy sự kỳ diệu của những điều Ngài đã làm. Nó khích lệ tất cả chúng ta như những người em nhỏ của Ngài, nhưng cũng là những người con của Thượng Đế.
Do đó, vì tư cách hoàn toàn là con người nhưng vẫn hoàn toàn thiêng liêng, Đức Christ đi vào cuộc chiến cuối cùng với ma quỹ. Với tư cách là con người (115) có tinh thần thiêng liêng biểu lộ viên mãn, Ngài đối mặt với điều tà vạy trong nhân tính của chính mình (khi xem như tách biệt với Thượng Đế), và chiến thắng vẻ vang. Vậy, chúng ta đừng cố tách rời hai phương diện – Thượng Đế và con người – khi nghĩ đến Đức Christ. Một số nhà tư tưởng nhấn mạnh đến nhân tính của Ngài, mà quên đi thiên tính nơi Ngài. Trong điểm này, chắc chắn là họ sai lầm. Những người khác lại nhấn mạnh đến thiên tính của Ngài, và cho rằng tất cả những ai đặt Ngài bình đẳng với những người khác là bất kính và sai trái. Thế nhưng, nếu chúng ta xem Đức Christ là tinh hoa của nhân loại, vì Ngài có tinh thần thiêng liêng đã hoàn toàn chế ngự và biểu lộ qua trung gian hình hài con người, thì chúng ta không hề xem nhẹ Ngài hay sự thành tựu của Ngài. Khi mọi người càng đi xa hơn trên đường tiến hóa, thì họ càng ý thức được thiên tính nơi mình, và tư cách Đấng Cha Lành của Thượng Đế. Đồng thời, họ càng thấu hiểu được chân giá trị của Đức Christ một cách sâu xa hơn, tin phục nhiều hơn về thiên tính hoàn thiện và sứ mệnh của Ngài. Họ càng khiêm tốn hơn, khi cố gắng theo bước chân Ngài, vì hiểu rằng, Ngài là vị Thầy của các Chân sư, vị thánh thiện nhất trong những vị thánh thiện, là Huấn sư của Thiên thần và loài người.
Thiên tính hoàn thiện này nay phải được thử thách, để được chấp thuận. Nay Ngài phải chứng tỏ cho Thượng Đế, cho ma quỹ, và nhân loại thấy sự thành tựu của Ngài như thế nào. Và bằng cách nào mà quyền lực của phàm tính có thể được khắc phục bởi quyền năng của linh hồn. Những sự cám dỗ này có thể được những người chí nguyện tìm đạo và những người đệ tử hiểu rất đơn giản. Bởi vì chúng thể hiện những sự thử thách chung, được áp dụng cho tính chất của con người mà tất cả chúng ta đều cùng có như nhau, mà tất cả chúng ta đều cố gắng khắc phục bằng cách nào đó và đến mức nào đó. Dù chúng ta khắc phục nó do sự nhắc nhở của lương tâm, do sự kiểm soát của chân tính cao siêu, hay qua ánh sáng tỏ rạng của thiên tính, thì cũng chẳng hề chi. Vấn đề này tất cả những người đệ tử bao giờ cũng nhận thức được.
Chúng ta sẽ xem xét ba sự cám dỗ này theo thứ tự mà Thánh Matthew đã đưa ra, khác với thứ tự của Thánh Luke. Thánh Mark thì chỉ nói rằng Đức Christ đã bị ma quỹ cám dỗ. Trong khi đó, Thánh John không hề nói gì đến chúng. Ba sự cám dỗ này thử thách cả ba phương diện trong (116) phàm tính của con người – tính chất của thân xác, tính chất tình cảm-dục vọng, và thể trí hay tính chất trí tuệ. Chúng ta đọc thấy như sau:
“Khi đã nhịn ăn bốn mươi ngày và bốn mươi đêm, sau đó Ngài đói lã. Và khi ma quỹ đến cám dỗ Ngài, nó nói Nếu Ngài là Con của Thượng Đế thì hãy ra lệnh cho những viên đá này biến thành bánh mì xem. Nhưng Ngài đáp, Có lời dạy rằng Con Người không chỉ sống bởi bánh mì, mà bởi mọi lời phán truyền của Thiên Chúa.”38
Có hai điều thú vị liên quan đến ba sự cám dỗ này. Mỗi sự cám dỗ đều bắt đầu bằng chữ “Nếu” do ma quỹ thốt ra. Và mỗi lần như thế đều được Đức Christ đáp lại bằng câu “Có lời dạy rằng.” Hai câu nói vừa kể liên kết cả ba giai đoạn cám dỗ và cho ta manh mối của toàn thể tiến trình. Sự cám dỗ tối hậu là lòng nghi ngờ. Sự thử thách mà rốt cuộc tất cả chúng ta đều phải đối đầu, mà đã lên đến tột đỉnh trong cuộc đời của Đức Christ, cho đến khi nó bị Ngài đánh bại trên Thập tự giá, là sự thử thách thiên tính nơi con người. Chúng ta có bản tính thiêng liêng không? Các quyền năng thiêng liêng của chúng ta phải biểu lộ ra cách nào? Điều gì chúng ta có thể làm, hay không thể làm, vì chúng ta là con của Thượng Đế. Nói rằng những chi tiết trong mỗi sự khó khăn, thử lòng, và thử thách này có thể khác nhau, thì tương đối không quan trọng. Nói rằng những thử thách này có thể trước hết tập trung vào khía cạnh này hay khía cạnh khác trong phàm tính của chúng ta thì cũng không quan trọng nốt. Chính sức thôi thúc chung cả đời hướng về thiên tính là đang chịu thử thách. Với người còn kém tiến hóa, y hoàn toàn không thấy gì về vấn đề thiên tính. Y chỉ có thể bận tâm đến những chi tiết, đến vấn đề ngay trước mắt trong đời sống của mình. Tùy trường hợp mà y xử lý vấn đề này theo ánh sáng của lương tâm hay không. Với người đệ tử thì chi tiết trở nên ít quan trọng, và y bắt đầu dần dần quan tâm đến các chân lý chung về tư cách của mình là con của Thượng Đế. Bấy giờ, y xử lý các điều kiện trong đời sống của mình theo góc độ của lý thuyết đó. Đối với người con đã hoàn thiện của Thượng Đế, như Đức Christ, hoặc đối với những người gần đến mức hoàn thiện, thì vấn đề này phải được xử lý một cách toàn thể, và những vấn đề khó khăn của đời sống phải được xem xét từ góc nhìn của chính thiên tính. Đó là vấn đề của Đức Christ, và đó là những hàm ý ẩn trong ba lần nói “Nếu” của ma quỹ.
(117) Dù đúng hay sai, dường như đối với tôi thì chúng ta đã sai lầm khi giải thích mọi chân lý theo góc nhìn tầm thường. Đó là điều chúng ta đã làm cho đến nay. Chân lý có thể được diễn giải theo nhiều lối. Những ai chỉ đơn thuần sống về mặt thể chất và tình cảm, vì thế mà có tầm nhìn yếu kém, thì cần được sự bảo vệ của khoa thần học, dù rằng khoa này còn những bất toàn, hoặc những khẳng định có tính cách giáo điều và không thể biện minh được. Họ cần sự bảo vệ này, nên những ai đưa ra giáo điều cho “đàn em nhỏ” trong nhân loại, đều có trách nhiệm rất nặng nề. Cũng phải đưa ra chân lý dưới dạng rộng rãi hơn, với hàm nghĩa tổng quát hơn cho những ai bắt đầu sống một cách hữu thức như là linh hồn. Vì thế, họ được tín nhiệm vì có thể thấy được ý nghĩa ẩn trong biểu tượng, và cái thâm nghĩa bên trong lối trình bày theo bề ngoài của khoa thần học. Đối với những người con đã hoàn hảo của Thượng Đế, chân lý phải là điều cao xa hơn những mơ ước của chúng ta. Nó có ý nghĩa thâm sâu và toàn diện đến đỗi dù chúng ta có cố gắng suy đoán đến mấy cũng chỉ hoài công. Bởi vì chân lý là điều cần trải nghiệm, không phải để mơ tưởng. Nó là điều chúng ta cần thâm nhập vào, chứ không chỉ để nhìn ngắm.
Mỗi lần đáp lại của Đức Christ cần được xem xét theo ba cách. Ngài bảo “Có lời nói rằng,” và những ai suy nghĩ nông cạn, hẹp hòi thì cho rằng câu nói này là tán thành những lời truyền cảm hứng trong các Thánh kinh. Nhưng chắc hẳn rằng Ngài không tham chiếu lại chỉ những lời trong các Thánh kinh của Do Thái thời xưa, dù chúng có hay đẹp thế nào. Có rất nhiều khả năng sai lầm khi chúng ta cứ chấp nhận vô điều kiện mọi lời lẽ trong bất cứ thánh kinh nào trên thế giới. khi nghiên cứu quá trình dịch thuật, chúng ta sẽ thấy điều này hết sức rõ ràng. Ý Đức Christ muốn nói đến điều sâu xa hơn là “Kinh thánh nói” rất nhiều. Ý Ngài muốn nói rằng nơi Ngài có dấu ấn của Thượng Đế; rằng Ngài chính là Linh từ; và rằng Linh từ đó là sự biểu lộ của chân lý. Chính Linh từ của linh hồn (vốn là sự lưu nhập của thiên tính) mới quyết định thái độ của chúng ta khi bị cám dỗ, và cách mà chúng ta ứng đáp với vấn đề mà ma quỹ đặt ra. Nếu Linh từ ấy còn xa xôi, bị chìm sâu và chôn giấu bởi hình thể, thì chỉ những âm thanh lệch lạc phát ra, và Linh từ sẽ không đủ mạnh để đối phó với ma quỹ. Linh từ được viết trong thân xác, mờ đi, và hầu như trở nên vô hình dù có thể qua các hoạt động (118) của phàm tính. Linh từ phát ra chính là ngay trên thể trí, mang theo ánh sáng khai ngộ và thấu ngộ, dù linh ảnh có thể còn lệch lạc, và ánh sang rất ít khi thấy rõ. Thế nhưng, Linh từ vẫn còn ở đó. Một ngày kia mỗi chúng ta đều có thể mạnh mẽ nói ra: “Có lời nói rằng,” và thấy Linh từ biểu lộ trong mọi thành phần của cá nhân chúng ta – và biểu lộ trong chính nhân loại vào một ngày xa hơn. Đây là “Linh từ thất truyền” của truyền thống Hội Tam điểm.
Triết lý Đông phương thường đề cập đến bốn lĩnh vực của đời sống, hay bốn vấn đề mà tất cả những người đệ tử và những người chí nguyện tìm đạo đều phải đối đầu. Chúng hợp thành toàn thế giới mà trong đó chúng ta đang sống. Có thế giới Ảo ảnh, thế giới ảo cảm và thế giới ảo tưởng. Cũng có “Kẻ chặn Cửa” bí ẩn mà Bulwer Lytton nói đến trong Zanoni. Cả bốn thứ vừa kể, Đức Christ đều đã gặp và đánh bại trong kinh nghiệm ở sa mạc.
Ảo ảnh chỉ về thế giới của các mãnh lực vật chất mà trong đó chúng ta đang sống, và có liên quan đến sự cám dỗ thứ nhất. Khoa học hiện đại cho chúng ta biết rằng không có sự vật gì dù vô hình hay hữu hình mà không phải là năng lượng. Mọi hình thể đều đơn thuần là tập hợp các đơn vị năng lượng liên tục chuyển động không ngừng không nghỉ. Chúng ta phải điều chỉnh theo chúng, và trong đó chúng ta “sống, di chuyển và hiện tồn.”39 Đó là hình thể bên ngoài của Thượng Đế, và chúng ta là thành phần trong đó. Ảo ảnh có tính chất thuộc về sinh lực, và chúng ta còn biết rất ít về tác dụng của nó đối với cõi trần (cùng tất cả những gì mà từ này hàm ý), và đối với con người.
“Ảo cảm” chỉ về thế giới sinh hoạt tình cảm và ham muốn, mà mọi hình thể đều ở trong đó. Chính ảo cảm này chi phối toàn cuộc sống chúng ta, tạo nên những giá trị sai lầm, những ham muốn sai quấy, những điều tuy có vẻ là thiết yếu nhưng thực ra không cần thiết, những âu lo, phiền phức, và bận tâm. Nhưng ảo cảm đã có tự lâu đời, và bám chặt chúng ta đến đỗi dường như chúng ta ít có thể làm được điều gì để hóa giải. Qua nhiều thế kỷ, những ham muốn của con người đã đưa đến tình trạng thật là kinh khủng. Những mong muốn, ước vọng của mọi người ở khắp nơi, và tác dụng gây ảo cảm của chúng đối với mỗi cá nhân, là tất cả những tài liệu mà các nhà nghiên cứu tâm lý có thể sử dụng. (119) Những mong cầu, ao ước của nhân loại đã bị định hướng sai lầm, và những ham muốn của con người được quay ra cõi đời vật chất. Vì thế chúng tạo nên thế giới ảo cảm mà trong đó tất cả chúng ta đều phải thường xuyên phấn đấu. Cho đến nay, nó là lực mạnh nhất trong những điều hoang tưởng hay định hướng sai lầm của chúng ta. Nhưng khi ánh sáng trong trẻo của linh hồn chiếu vào, thì chướng khí của các mãnh lực này dần dần tan biến. Đây là công tác chính yếu của tất cả những người chí nguyện đang đi tìm các bí nhiệm.
“Ảo tưởng” có tác động về mặt tư tưởng nhiều hơn. Nó liên quan đến những ý tưởng mà chúng ta sống dựa vào đó, và hoạt động suy tưởng (dù hầu như với mức độ ít hơn) đang chi phối những nhiệm vụ hằng ngày của chúng ta. Khi xem xét ba sự cám dỗ này, chúng ta sẽ thấy trong sự cám dỗ thứ nhất, Đức Christ đã chạm trán với ảo ảnh như thế nào. Đó là những mãnh lực hồng trần rất mạnh mẽ mà ma quỹ có thể lợi dụng để cố đánh bại Ngài. Chúng ta sẽ thấy trong sự cám dỗ thứ hai, Ngài bị cám dỗ bởi ảo ảm, nó toan nhận chìm sự sống tinh thần cốt yếu của Ngài do quan niệm sai lầm, và việc sử dụng các quyền năng thiêng liêng của Ngài cho nhu cầu tình cảm. Trong sự cám dỗ thứ ba, ma quỹ làm khơi hoạt tội lỗi của cái trí, tức là sự kiêu căng. Chắc hẳn nó đã mang đến cho Ngài ảo tưởng về quyền lực thế tục, được dùng cho các mục tiêu chính đáng. Thế nên, những khuyết điểm nội tại khả dĩ có trong ba phương diện phàm tính của Đức Christ đều đã được thử thách. Và qua chúng, cái tổng thể rộng lớn của ảo ảnh, ảo cảm và ảo tưởng của thế giới đã tuôn đổ lên Ngài. Thế là Ngài đối đầu với Kẻ chặn Cửa, vốn chỉ là tên gọi khác của phàm ngã cá nhân. Nó được xem như một toàn thể thống nhất, như chỉ trong trường hợp của người tiến hóa cao, các đệ tử, và điểm đạo đồ. Ba từ ngữ này – ảo ảnh, ảo cảm và ảo tưởng – là đồng nghĩa với tất cả những sự đòi hỏi của thân xác, những cám dỗ và quyến rũ trong đời. Chúng là ba phương diện tử thách mà mọi người con của Thượng Đế sắp giải thoát đều phải đối đầu. "
Tuesday, November 17, 2020
Thượng Đế và con người
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment