Wednesday, October 2, 2024

C86: Những Lời Tiên Tri

Chương 86: Những Lời Tiên Tri

Tiên Tri là nhìn thấy hoặc hiểu trước một việc trước khi việc đó xảy ra.

Nhân cõi thường coi những lời tiên tri là một sự huyền bí lạ lùng. Cơ chế hoạt động của những lời tiên tri ra sao thì phàm nhân không biết, còn thiên giới có hẳn một bộ ban ngành chuyên nghiên cứu những lời tiên tri từ thời thượng cổ đến đời hạ ngươn. Truy lùng từ việc ai, ở đâu, khi nào, trong hoàn cảnh gì ... mà nói nên những lời tiên tri ấy. Giống như làm toán vậy, logic chính xác đến từng con số. Đầu têu ra bộ môn tiên tri bói toán từ xa xưa là các vị chuyên coi quỹ đạo của các vì tinh tú. Vì rảnh quá nên ngày này qua tháng nọ ngồi đếm sao trời và xem nhật nguyệt. Xem miết nên nhắm mắt cũng biết được khi nào trăng tròn hay khuyết, khi nào các vì sao thẳng hàng hay chênh lệch, vận hành theo quy luật, quỹ đạo nhất quán qua bao nhiêu nghìn năm. Rồi từ đó chiêm nghiệm được những tác động tới vạn vật ra sao do ảnh hưởng từ năng lượng của các thiên thể to lớn đó. Vũ trụ vận hành theo quy luật, chính bởi cái gì cũng có quy luật cho nên mới có thể từ đó mà đưa ra những khả năng, dự trù. Như là: Nếu phương trình f(x) thì cho ra bao nhiêu nghiệm vậy...

Cũng không hiếm chuyện xưa nay có những sự mê tín dị đoan một cách kinh khủng. Chỉ bởi một lời nói trước ngẫu nhiên mà khiến cho bao sự chấp trước trùng trùng duyên khởi. Có vị tiên còn bảo rằng cả thiên hạ này là một đại mê tín không hồi kết. Còn có vị tiên bảo, cả thiên hạ này là một giấc mơ, ảo mộng hồng trần mà khi Thiên Cổ Đế tỉnh mộng thì hồng trần cũng tan biến... Khi ấy Thiên Cổ Đế tập hợp lại mọi linh hồn ngài từng sinh ra, giống như cha mẹ gọi con về nhà vậy!

Tín là tin, niềm tin thì có tội tình gì đâu mà không cho người ta được tin, được mê/ mơ một điều gì đó là tốt đẹp, là cao thượng, thánh thiện!
Ví dụ như: Đức Phật Thích Ca đã giải thoát hoàn toàn khỏi Luân Hồi Khổ, hay Đức Chúa Jesus đã được sinh ra từ Đức Mẹ Đồng Trinh...

Mặc cho những lời tiên tri về tận cùng cái thế gian này là hủy diệt điêu tàn, là những gì kinh khủng nhất. Hắn vẫn cứ đánh một giấc no say ngày hôm nay. Ai bảo rằng đủng đỉnh không phải là một đức hạnh? Nếu ai cũng có thể thực sự trung dung nhởn nhơ mà sống thì trần đời này quả là an vui rồi!

----------------------------------

TRUNG DUNG TÂN KHẢO
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
QUYỂN I: TRUNG DUNG KHẢO LUẬN

Chương 8
KHAI THÁC TRUNG DUNG

Bây giờ đọc Trung Dung ta sẽ thấy nó rất hay rất rõ. Nó hay nó rõ, vì ta đã san bằng được mọi khó
khăn về từ ngữ, ta đã gỡ được mối tơ vò tính mệnh, và nhất là ta đã nắm được chìa khóa Trung Dung của
hai vua Nghiêu, Thuấn:
«Lòng của Trời siêu vi huyền ảo,
Lòng con người điên đảo ngả nghiêng.
Tinh ròng chuyên nhất ngày đêm,
Ra công ra sức giữ nguyên lòng Trời.»

Chu Hi đề tựa Trung Dung như sau:
«Trung ấy là không nghiêng, không ngửa,
Dung ấy là muôn thuở y nguyên.
Trung là đạo chính mọi niềm,
Dung kia là lý hiển nhiên mọi đời.
Tâm pháp này truyền nơi cửa Khổng,
Ông Tử Tư sợ chóng sai ngoa,
Bút thần tay thảo thiên hoa,
Muôn vàn truyền lại Mạnh Kha sách này.
Sách mới thoạt trình bày một lẽ,
Sau dần dần mới tỏe thành muôn,
Cuối cùng thu lại một nguồn.
Tung ra tản mạn khắp muôn phương Trời,
Thu cuốn lại dấu nơi ẩn áo,
Hay sao, hay kỳ ảo khôn cùng.
Đó là thực học chính tông,
Ai say tìm hiểu sẽ thông ý màu.
Thông ý màu rồi sau ứng dụng,
Dùng cả đời cũng chẳng hề vơi.»

Chu Hi đã cho ta thấy đại ý Trung Dung: «Thể duy nhất, dụng vẹn thù». Căn nguyên chỉ một mà tác dụng hiệu quả muôn vàn. Đồng thời Chu Hi cũng đã gợi cho biết Trung Dung là một triết học cao siêu, một phương pháp lý luận rất có mạch lạc. Ta có thể nói: Thoạt tiên, Trung Dung dùng phương pháp diễn dịch như Descartes: Từ một duyên do căn bản suy ra ngàn vạn sự, ngàn muôn kết quả.[1] Trong phần thứ hai của sách, có thể nói được là Tử Tư dùng phương pháp qui nạp như Bacon, đi từ những kết quả tạp thù vô số kể mà trở lại nguyên nhân cũ. Nguyên nhân và
kết quả đều gồm trong hai chữ Trời và Thành. [2] Trời phát quang huy, chiếu ảnh tượng người vào đáy lòng nhân loại.[3] ảnh tượng ấy vừa là thực thể cho tâm hồn dựa nương, vừa là tính mệnh (vie) vừa là mệnh lệnh (ordre, loi), cũng vừa là đạo (voie). Ảnh tượng Trời đó hoàn thiện và quang minh tuyệt đối. Trung Dung đã khéo mô tả bằng hai chữ «thành,minh».[4] Trong chương đầu Trung Dung, Tử Tư đã xác định căn bản tâm hồn con người; đồng thời dạy luôn cả đạo làm người:

«Bản tính cũng chính là thiên mệnh
Đạo là noi theo tính bản nhiên.
Giáo là cách giữ đạo nên.
Đạo Trời giây phút vẫn liền với ta.
Rời ta được đâu là đạo nữa.
Thế cho nên quân tử giữ gìn,
E dè cái mắt không nhìn,
Tai nghe không nổi cho nên hãi hùng.
Càng ẩn áo lại càng hiện rõ,
Càng siêu vi càng tỏ sáng nhiều,
Nên dù chiếc bóng tịch liêu,
Đã là quân tử chẳng xiêu lòng vàng...» [5]
 
Trời xa, nhưng quyền phép ngài siêu việt, vẫn soi sáng tâm khảm của trần gian. Trời tuy xa nhưng vẫn giáng lâm, vẫn tại diện tiền không giây phút nào ngơi. Đó là niềm tin tưởng then chốt cốt cán của Đạo Nho, và của các thánh hiền Trung Hoa qua các thời đại. Tác giả Trung Dung nhắc tới lòng tin tưởng đó ở đầu, giữa, và cuối sách Trung Dung. Cả chương 16 của Trung Dung viện dẫn sự tin tưởng của muôn dân về thần quyền để minh chứng sự giáng lâm của Thượng đế.

Trung Dung viết:
«Quyền phép thần linh oai hùng khôn xiết,
Nhìn chẳng ra, nghe cũng chẳng thấy gì,
Nhưng vẫn lồng vào vạn vật chẳng phân ly,
Khiến chay tịnh tâm hồn, những chành áo xống,
Mời cho làm những việc tâm thành thờ phụng,
Man mác lẽ, như phảng phất ở trên,
Linh lung, như mường tường ở hai bên.
Thần giáng lâm lúc nào ta đâu có biết,
Cớ sao ta dám bơ thờ khinh miệt?
Thật siêu vi nhưng vẫn hiển hình,
Thật hoàn hảo, không giấu nổi oai linh.» [6]

Tác giả Trung Dung khuyên ta nên theo phương pháp loại suy (raisonnement par analogie) mà tìm ra căn bản tâm hồn ta, tìm cho ra đạo làm người, để cho nhân tâm hết ngả nghiêng, cho đạo tâm siêu vi được tận hiển dương, tiến tới thế trung hòa muôn thuở.

«Khi chưa phát vui, thương, mừng, giận,
Gọi là trung vì chẳng ngả nghiêng.
Phát ra đúng tiết, hợp duyên,
Ấy là hòa tấu ấm êm nhạc Trời.
Trung ấy chính muôn đời căn bản,
Hòa kia là đạo quán thiên thu,
Ước gì đạt thế trung hòa,
Ấm êm Trời đất, nhởn nhơ muôn loài.» [7]

Chu Hi bình giảng thêm:
«Nguồn đạo ấy phát từ Thượng đế.
Chẳng đổi thay, chẳng thể biến rời,
Hoàn toàn sẵn có nơi người,
Một giây một phút chẳng rời khỏi ta.» [8]

Và khuyên:
«Quay vào ta mà tìm đạo ấy
Tìm đáy lòng sẽ thấy chẳng sai.
Dẹp tan cám dỗ bên ngoài,
Căn lành sẵn có đồng thời khuếch sung.» [9]

Một khi con người được giác ngộ, tin có Trời ngự trị trong tâm khảm mình, chứng giám những điều ẩn áo nơi đáy lòng mình, và lo hoàn thiện mình để tiến tới sự phối hợp giữa tâm và tính, nhân tâm và đạo tâm, khi ấy con người sẽ trở thành quân tử. Mục đích của đạo Trung Dung là phối hợp thiên ý với nhân tâm, tính với tình, nhân tâm và đạo tâm, cho nên là một đạo rất cao diệu. Đức Khổng nói:

«Đạo Trung Dung cao siêu, toàn mỹ,
Theo Trung Dung hồ dễ mấy ai.
Ta biết đạo Trung Dung thi hành khó,
Người sắc sảo, quá trớn đi đã lỡ,
Kẻ ngu đần, chậm chạp khó khuôn theo.
Ta biết đời chẳng hiểu đạo cao siêu:
Người hiền đức ỷ mình không suy xét,
Kẻ bất lương trông vào thì mù mịt.
Uống ăn kia ai cũng lấy làm thường,
Nhưng mấy ai sành mùi vị tinh tươm?» [12]

Mục đích Trung Dung là phát triển cho đến cực độ mầm mống hoàn thiện sẵn có nơi đáy lòng mình, theo thiên tính thiên lý sẵn có nơi mình mà phát huy ra ba đại đức, ba nguồn sáng tinh thần: Trí - Nhân - Dũng. Trí là khôn ngoan. Khôn ngoan như vua Thuấn, biết Trời, biết Người, biết thăm dò xét hỏi, biết «ẩn ác dương thiện». Trí để phục vụ đạo lý, chứ không phải trí xảo của người đời.[13] Đức Khổng nói:

«Ai cũng nói ta đây tài giỏi,
Trên đường đời rong ruổi ngược xuôi;
Sa vào cạm bẫy người đời,
Sa hầm, sụp hố, thoát thôi dễ nào.
Ai cũng ỷ tài cao, biết rộng,
Theo Trung Dung chẳng đặng tháng Trời.» [14]

Nhân là nhân đức nội tâm. Nhân như Nhan Hồi luôn lo lắng làm điều thiện, cho gương lòng vằng vặc sáng lên như đèn Trời, chứ không phải nhân đức lộ liễu bên ngoài của thế nhân. Những người có tài cán gan góc, vị tất đã là những người nhân đức, vị tất đã theo nổi đạo Trung Dung.

«Người có thể trị yên thiên hạ,
Người có gan từ bỏ vinh hoa,
Gươm trần người dám bước qua,
Trung Dung đạo ấy khó mà người theo.» [15]

Dũng không phải là cái dũng vũ phu, mà chính là cái dũng tinh thần của người quân tử, là cái dũng của bậc đạo hạnh: nếu «Xét thấy lương tâm mình ngay thẳng, thì dầu đối với hàng ngàn muôn người vẫn đi qua một cách an nhiên.» [16]

Ba đức «nhân, trí, dũng» đó đều mầm mống trong đáy lòng mọi người; chân lý muôn trùng hằng ẩn áo trong tâm khảm mọi người. Thánh hiền là những người có công khuếch sung trí nhân dũng cho tới mức cao siêu, tuyệt diệu. Vì thế đạo Trung Dung như hạt sồi của Lamartine,[18] lúc nhỏ chưa sinh sôi nảy nở thì rất tầm thường, nhưng khi đã triển dương tới mức độ lớn lao, thì trở nên thiệt uy nghi, cao đại.

Theo Trung Dung đạo Trời có hai đầu: Một đầu thì ẩn ảo huyền vi, tiềm ẩn ở tít tận đáy lòng, còn một đầu thì mênh mông bát ngát. Lúc sơ phát thì ẩn áo siêu vi, nhưng lúc đạt đạo tới chỗ chí cùng chí cực thì vĩ đại.

«Đạo người quân tử mênh mông,
Đồng thời ẩn áo, mông lung khó dò.»

Tác giả Trung Dung viện dẫn Kinh Thi để làm nổi bật những nét mênh mang và ẩn áo đó:
«Diều tung cánh sát từng mây biếc,
Cá dương vây lặn miết đáy sâu.» [20]

Rồi tác giả khuyên ta nên tung tầm mắt mà quan sát vạn vật đất Trời để tìm cho ra đại đạo. Quan sát đất Trời ta thấy gì? Ta sẽ thấy:

«Ngoài nội chim kia còn chấp cánh,
Trên lương yến nọ chẳng lìa đôi
Từng mây kết ngãi lưng Trời...» [21]
Đôi chim ríu rít, đôi người chắt chiu.

Đầu Kinh Thi, ta đọc thấy:
«Quan quan thư cưu, tại Hà chi châu,
Yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu.» [22]

Trung Dung viết:
«Đạo quân tử từ nguồn phu phụ,
Tung mãi ra trùm cả đất Trời.» [23]

Đạo phu thê là đạo phu xướng phụ tùy, để đi đến chỗ sắc cầm hòa hợp. Còn Trời đất thì lúc nào cũng quấn quít lấy nhau, hưởng ứng nhau. Trời che, đất chở, Trời sinh, đất dưỡng. Đầu đất là chân Trời. Vòng càn khôn lúc nào cũng hiện ra nơi nhãn giới. Suy ra, thì trong đạo làm người, tâm phải thuận theo tính, tâm phải biết phục mệnh. Nếu tâm theo tính, nếu nhân tâm phục tòng thiên mệnh, thì tức là theo đúng đạo xướng tùy, hòa hợp của đất Trời. Thế là Âm theo Dương, bóng tối nhường gót cho ánh sáng, sự chết nhường chỗ cho sự sống. Thế là Dương sinh, Âm dưỡng, Dương sinh, Âm trưởng. Tâm hồn sẽ tài bồi cho mầm tính nở tung muôn hoa đức hạnh, tâm hồn sẽ phả quang huy của vừng dương thiên tính, sẽ biến hóa theo đúng Đạo Trời.

[Khi đạt đạo, mảnh trăng lòng sẽ thoát ly hết mọi mây mù dục vọng, sẽ viên mãn, như vầng nguyệt hôm rằm, tung hết mọi làn ánh sáng đã thụ hưởng được của vừng dương thiên lý. Thế là Âm Dương phối hợp trong thế trung hòa của Thái cực. Thế là «nhật nguyệt đồng minh» thành chữ Dịch muôn đời.[25] Vậy muốn hiểu đạo Trung Dung, phải hiểu chỗ thấp, chỗ cao, chỗ gần, chỗ xa. Chỗ đắc đạo, đạt đạo là Trung Dung.

Trung đạo «dữ Thiên đồng đức», chí thành, chí thiện. Chỗ đạt đạo thì bao trùm hết không gian, thời gian, rực rỡ ngàn trùng. Chỗ khởi điểm chỉ là một tàn lửa thiên lý, thiên chân, thiên mệnh, ẩn áo nơi đáy lòng. Chỗ đạt đạo thì chỉ bậc chí thánh mới vươn lên tới, nhưng con người đạo lý mở rộng chờ đón mọi người, và thực ra khởi điểm của nó cũng dung dị tầm thường, dầu ngu phu, ngu phụ cũng vẫn hay biết và có thể thi hành được
như thường.[26]

Quan điểm Trung Dung phù hợp với Đạo Đức Kinh của Lão Tử:
«Muốn làm những việc khó khăn.
Phải từ chuyện dễ đi lần mới xong.
Muốn làm những việc kỳ công,
Phải từ việc nhỏ mới mong hoàn thành.» [27]

Vậy thì đạo Trời tuy rất khó, nhưng chính ra rất giản dị. Chúng ta chỉ việc làm những công việc thông thường hằng ngày, không cần lập dị, «sách ẩn hành quái».[28] Đối với mọi người thì nên khoan dung, độ lượng, mà uốn nắn cho qui hướng về đường thiện mỹ:

«Người quân tử khi lo giáo hóa,
Sửa trị người sẵn có khuôn người.
Thấy người giác ngộ thì thôi,
Đã chiều cải hóa, liệu bài ta ngưng.» [29]

Còn đối với mình, thì lúc nào cũng cúc cung tận tụy thi hành phận sự, coi người như mình; đối với ai cũng cố vẹn tình, vẹn nghĩa, hết lòng, hết dạ:
«Đối với người hết lòng, hết dạ,
Coi mọi người cũng cả như mình.
Thế là sắp tới tinh thành.
Việc mình thoái thác chớ dành cho ai...» [30]

Tìm bí ẩn làm điều quái dị.
Cốt mong cho hậu thế người khen
Xá chi chuyện ấy nhỏ nhen,
Đã là quân tử chẳng thèm quan tâm.»

Muốn thành người quân tử, chúng ta phải:
«Tu đức hạnh, hành vi thường nhật,
Nói năng luôn đúng mực căn cơ.
Hành vi khiếm khuyết nên lo,
Nói năng thái hóa, liệu mà bớt đi.
Lời nói với hành vi phù hợp;
Nói làm sao, làm khớp như in;
Lòng người quân tử triền miên,
Thấp tha, thấp thỏm, mới nên công trình...» [31]

Nếu thời thường, lo hàm dưỡng tính tình, trau dồi óc chất như vậy, thì trí, nhân, dũng sẽ như ngọn lửa, ngày một lan cháy rực Trời, như nguồn lai láng, tràn ngập năm hồ bốn biển.[32] Ngu phu, ngu phụ nếu ra công tu tâm, dưỡng tính cũng có thể nên người quân tử, nên gương cho nhân loại
soi chung; nếu người quân tử biết tu thân, hàm dưỡng khuếch sung tính tình thì có thể nên những trang hiền thánh, chẳng kém gì Nghiêu, Thuấn, Văn, Võ, Chu công.

«Đạo quân tử như in lữ thứ
Muốn đi xa phải tự chỗ gần.
Đạo người như cuộc đăng san,
Muốn lên tới đỉnh, đầu đàng là chân.» [33]

Chân là ngu phu, ngu phụ, mà đỉnh thì là đại thánh, đại hiền. Gần là chuyện làm cho gia đình ấm êm, hòa hợp. Xa tít tắp là chuyện quốc chính dân an, lo sao cho mọi người được sống những ngày thanh bình, tươi đẹp. Thấp là những chuyện tình ái thông thường giữa những vợ chồng, mà cao là nền luân lý phổ quát, bao gồm hết cương thường. Cao hơn nữa là đạo thánh hiền, «dữ Thiên đồng đức», vượt tầm không gian, thời gian, trường tồn cùng với càn khôn, vũ trụ.

Nhờ sự tu thân tích đức, tâm hồn người hiền thánh rạng tỏ dần, và khi long vân gặp hội, khi đức cả đã cảm ứng được đất Trời, sẽ đạt tới địa vị cao sang tuyệt phẩm. Vì thế giữa sách, Trung Dung đề cập tới sự cao cả, vinh quang của các đấng đại thánh, đại hiền. Trung Dung viết:

<Không nghỉ ngơi nên sẽ vững bền.
Vững bền muôn vẻ trưng lên,
Trưng lên vang dội khắp miền gần xa.
Khắp gần xa ắt là dày rộng,
Đã rộng dày thời cũng cao minh.
Rộng dày để chở chúng sinh,
Cao minh che khắp sinh linh xa gần.
Trường cửu để tác thành muôn vật,
Rộng dày nên cùng đất sánh duyên.
Cao minh kết ngãi thanh thiên,
Vô biên, vô tận triền miên khôn cùng.
Được như vậy không trưng vẫn tỏ,
Tuy ở yên, biến hóa khôn lường,
Không làm mà vẫn thành công...» [49]

Khi đạt tới giai đoạn «Thiên nhân nhất quán», giai đoạn huyền đồng, thánh nhân sẽ được phối hợp với Trời, thông phần vinh hiển cao diệu của Trời.Trung Dung viết:

«Chỉ có đấng chí thánh trong trần thế,
Mới có đầy đủ thông minh trí tuệ,
Y như thể có Trời ẩn áo giáng lâm,
Mới khoan dung, hòa nhã, ôn thuần,
Y như có dung nhan Trời phất phưởng;
Phấn phát tự cường, kiên cương, hùng dũng,
Y như là đã cầm giữ được sức thiêng.
Trang trọng khiết tinh, trung chính, triền miên,
Y như thừa hưởng được đôi phần kính cẩn,
Nói năng văn vẻ, rõ ràng, tường tận,
Y như là chia được phần thông suốt tinh vi.
Mênh mang sâu thẳm, ứng hiện phải thì,
Mênh mang như khung Trời bao la, vô hạn,
Sâu thẳm như vực muôn trùng thăm thẳm...» [50]

Bậc chí thánh đó sẽ vì đời sang sửa đại kinh:
«Chỉ những đấng chí thánh trong thiên hạ,
Mới có thể vì đời sang sửa đại kinh.
Mới có thể xây căn bản cho xã hội quần sinh,
Mới thấu rõ luật đất Trời sinh hóa...» [51]

Các ngài sẽ tiên tri, tiên đoán, biết trước những công cuộc hưng vong, suy thịnh của quốc gia...[52]
Đạo Trung Dung lúc đạt tới cùng cực, thực là mênh mông, bát ngát:

«Đạo thánh nhân to sao, to lớn quá,
Nó mênh mang, biến hóa chúng nhân.
Nó cao, cao vút tới Trời thẳm muôn tầm;
Nó rộng, rộng bát ngát khôn kể xiết.
Gồm thâu mọi điều lễ nghi, chi tiết.
Bao uy nghi quán triệt hết chẳng trừ.
Đợi thánh nhân, Trời mới phú thác cho,
Không đức cả, Trời không ngưng đạo cả.» [53]

Đạo đó, con đường hoàn thiện đó là con đường cho quân tử noi theo:
«Nên quân tử dốc một lòng, tòng một dạ,
Trọng kính Trời, quyết gắn bó học hành.
Tiến sao cho tới mức rộng rãi, tinh anh,
Mức cao sáng của Trung Dung đạo cả,
Ôn điều cũ, học thêm điều mới lạ,
Chuộng lễ nghĩa, sống đời sống nết na.
Ở ngôi cao, không có thói kiêu xa,
Ở cấp dưới, không làm điều trái nghịch,
Nước có đạo, chỉ một nhời làm tiến ích,
Nước đảo điên, lặng lẽ đủ dung thân...» [54]

Tóm lại đạo quân tử mới đầu ngỡ tầm thường, giản dị, nhưng dần dần mới thấy nó thật chứa chan ý vị, đầy vẻ đẹp tươi, và mênh mông, bát ngát. Nó khởi điểm từ chỗ biết kính sợ e dè, dẫu ở một mình nơi thanh vắng cũng chẳng dám làm điều gì đáng để hổ người, để tiến tới chỗ «dữ Thiên đồng đức» chỗ hoàn hảo tuyệt vời. Đó là đại ý đoạn kết sách Trung Dung:

«Thơ rằng:
Gấm mặc trong, ngoài phủ áo sa,
Là vì ngại gấm đầy hoa lòe loẹt,
Nên đạo quân tử ám nhiên ẩn ước,
Sau dần dà mới sáng rực mãi lên;
Đạo tiểu nhân mới ngó ngỡ là đèn,
Nhưng càng ngày càng tối đen, tối xẫm.
Đạo quân tử đạm thanh, không ngán ngẩm,
Đơn sơ nhưng chan chứa vẻ đẹp tươi;
Thuần phác nhưng lý sự chẳng kém ai.
Biết xa gần, biết nguyên lai bản mạt
Biết lẽ vi hiển, vừa rỡ ràng, vừa e ấp,
Là có thể bước vào nẻo đức đường nhân.

Thơ rằng:
Cá tuy lặn sâu thẳm mấy tầm,
Nhưng bóng dáng vẫn rõ ràng, hiển hiện.
Nên quân tử lo xét mình cho chín,
Đừng cho tội khiên làm u ám thâm tâm.
Người quân tử vượt trổi quá chúng nhân,
Chính ở chỗ mọi người trông chẳng đặng.

Thơ rằng:
Chái tây bắc một mình thanh vắng,
Cũng đừng làm chi đáng để hổ ngươi.
Nên quân tử không làm vẫn thu phục lòng người,
Chẳng nói năng, nhưng ai nấy đều tin tưởng.

Thần thánh giáng lâm, không một lời động dạng,
Nhưng mọi người tuyệt nhiên hết tranh giành.
Nên quân tử không thưởng, mà dân vẫn đua tranh,
Không giận dữ, mà người sợ hơn oai rìu búa.

Thơ rằng:
Văn Vương chẳng phô trương đức độ,
Nhưng chư hầu đâu đấy vẫn khuôn theo.
Người quân tử nếu dốc một dạ kính yêu,
Đạt đức cả, thiên hạ lẽ tất nhiên thịnh trị,

Thơ rằng:
Ta muốn đức rạng ngời, sáng tỏ,
Không cần chi lớn tiếng hay làm bộ ra oai.
Đức Khổng nói dùng miệng lưỡi, hay kiểu cách bên ngoài,
Cảm hóa dân, lối ấy rất nên thô thiển.

Thơ rằng:
Đức nhẹ như lông;
Lông còn có bề hơn kém,
Đức Trời cao, siêu việt chẳng tăm hơi,
Thực là hoàn hảo tuyệt vời.» [56]

--------------

Ngoại truyện: Lúc đêm khuya thanh vắng giữa ngu phu và ngu phụ:

Ngu Phu đang chuẩn bị rơi vào giấc ngủ và đã bắt đầu ngáy khò khò ...
Ngu Phụ vẫn đang trằn trọc lăn qua lăn lại, nghĩ ngợi vu vơ rồi lay lay hỏi một chủ đề cũ mãi không chán:

- Nếu chàng chết trước ta thì ta nên làm thế nào với cái xác của chàng?!

- Đem đốt thôi! Nhà mình thiếu gì củi...

- Ta không biết làm! Đốt không cháy hết thì kinh lắm, trông như miếng thịt hun ấy...

- Hừ, cũng phải... đốt phải thật nóng mà mùa hè nóng thì mệt. Hay cứ quẳng dưới đống sắt vụn, nhà mình đầy sắt vụn lo gì ...

- Sao thế được, hức hức nó bốc mùi lên ...

- Quẳng xuống sông xuống biển cho cá ăn vậy!

- Hừ, không được! Ta sẽ mummify chàng! Để đi đâu cũng đem theo đó!

- Ừ ừ thế nào cũng được, đấy là chuyện cuối cùng ta quan tâm. Linh hồn còn sống mãi, lo cho cái xác chết làm gì~

- Tốt nhất là ta chết trước chàng, như thế chàng phải lo cho cái xác ta, còn ta đỡ phải lo cho cái xác chàng. Ta đỡ phải buồn ...

- Thế cũng được!

Ngu phụ vẫn không buông tha, không bằng lòng với câu trả lời đó.

- Vậy chàng định làm thế nào với xác ta nếu ta chết trước?

- Ta sẽ đem nàng về quê rồi chôn cạnh cha nàng.

- Tại sao? 

- Để linh hồn nàng cảm thấy yên bình...như thế nàng an nghỉ tốt hơn..

Phu đã rơi vào giấc ngủ hẳn còn phụ vẫn đang mơ hồ suy nghĩ. Mãi sau nói thêm một câu:

- Tốt nhất là cùng chết! Ta sẽ cầu trời để chúng mình được cùng chết vậy.

Wednesday, July 17, 2024

C85: Những Nỗi Sợ Hãi

C85: Những nỗi sợ hãi

Ai đã làm cha mẹ đều biết phải bao công lao khó nhọc mới sinh ra và dưỡng nuôi được một đứa trẻ. Lại một lần cho bú, chắt chiu từng giọt sữa, từng dưỡng chất tinh túy nhất của người mẹ. Lại một lần tã ướt phải thay, hàng chục lần tã ướt phải thay trong ngày. Lại một ngày dài chăm bẵm hát hò, ru con bồng bế. Lại một ngày vội vội vàng vàng ăn cuống ăn cuồng để lại có mặt khi con khóc. 365 ngày đầu đời của một đứa trẻ chỉ quanh đi quẩn lại là trung tâm vũ trụ của gia đình. Nếu là mẹ hoặc cha đơn thân, không có ai khác ngoài chính mình chăm sóc con thì vất vả đến nhường nào? Lại nữa, thời mà không có tã bỉm "vứt đi", phải thay giặt phơi phong liên tùng tục, ngày nắng đã vậy, ngày mưa thì sao? Giàu có đã vậy, nghèo nàn thì sao? Biết bao cố gắng từng ngày của cha của mẹ, nâng niu chăm sóc hy sinh mọi điều vì con.

... Để rồi, khi con người lớn lên cứ thế chết như ngả rạ trên những bãi chiến trường vô nghĩa, trong suốt nhiều thời đại, nhiều quốc gia, hoặc chết mòn trong những vòng lặp bế tắc của đời cơm áo. Những kẻ giàu thì cứ giàu mãi còn những kẻ nghèo thì cứ nghèo mãi, phần đa là thế. Từ lâu người ta gắn chữ "nghèo" với chữ "khổ", cũng là phải bởi vì những ai chưa từng nghèo thật sự thì không thể biết được nó khổ đến thế nào. Nghèo đến nỗi không có miếng cơm, miếng nước, manh áo, đến nỗi không có thời gian để thở. Đầu tắp mặt tối quần quật làm lụng mà vẫn không đủ cho mình và gia đình ... nheo nhóc!

Mấy ai tự nguyện và thích thú được nghèo khó khổ cực? Mấy ai nhớ rằng khi sinh ra, mình chỉ là một mớ thịt èo uột, yếu ớt, trần trụi, chẳng thể làm gì ngoài khóc. Nếu không vì được mẹ cha hay ai đó chăm bẵm từng ngày thì chẳng có mảy may sinh tồn được hay chỉ tự hào về bản sự, sự nghiệp, tài sản những vật ngoài thân?

Mấy ai vui trong cảnh nghèo, vui trong cảnh khổ? Người ta luôn sợ cái nghèo, phòng bị, tìm cách tích trữ, dành dụm bằng cách này hay cách khác đất đai, vàng bạc, cơ ngơi, ... để còn thừa kế, truyền lại cho con cháu.

Có một thí nghiệm rất thú vị liên quan đến nỗi sợ hãi. Chứng minh rằng mọi sinh vật đều thừa hưởng những ADN cảm xúc (thọ tưởng) từ tổ tiên mình. Người ta thử nuôi những con giun đất và khi cho ăn thì làm điện giật chúng chỉ đủ đau chứ không giết chết, cùng lúc ấy họ bật sáng bóng đèn. Qua vài lần điện giật đồng thời bóng đèn sáng, đến một lúc dù không giật điện nữa mà chỉ bật đèn, giun vẫn có phản xạ giật nảy người và co quắp như bị điện giật. Họ quan sát thấy những lứa giun sau được sinh ra bởi những con giun ấy cũng có phản xạ giật y như thế khi chỉ bật đèn. Thậm chí khi họ nghiền chúng thành thức ăn và cho những con giun khác ăn cũng khiến chúng hình thành phản xạ co giật tương tự chỉ với bóng đèn.

Kết luận rằng có sự liên hệ vô cùng mật thiết giữa thể xác và thể vía (cảm xúc) chứ chưa nói đến trí khôn hay trí tuệ. Khi những con giun bị điện giật chúng cũng biết đau và nỗi sợ đau hình thành (sợ là một dạng cảm xúc cơ bản nhất đến thực vật cũng có). Khi thế hệ ông bà cha mẹ có những nỗi sợ hoặc nỗi đau nào, tất nhiên đời con cháu sẽ có cùng một dạng cảm xúc ấy từ trong vô thức - di truyền dạng thể này không phải là di truyền thể xác nhưng còn đặc thù hơn nhiều những di truyền vật lý.

Nếu cả một quốc gia từng chịu cảnh nghèo đói, chiến tranh, khổ cực... nếu cả một thế hệ chịu cảnh nô lệ không có sự tự do, bị bạo hành vũ lực đàn áp, bị giận dữ la hét đánh đập thì đời con cháu cũng mang theo những mã gen như vậy.

Lại nói đến thịt động vật, có cái chết nào mà dễ chịu nhẹ nhàng, chẳng hề đáng sợ, không đau đớn khi trở thành thức ăn cho kẻ khác. Con người hay con gì ăn vào những sự đau đớn sợ hãi thì cũng dần trở nên đầy sợ hãi như loài vật vậy.

Con người luôn có vô vàn những nỗi sợ. Sợ hãi dẫn đến lo lắng. Lo lắng rồi lại sợ hãi, quẩn quanh trong những vòng lặp lo sợ ... đến nỗi mụ mị đầu óc, chẳng còn tâm trí đâu nghĩ tới những gì là vô hạn, những gì trong thế giới tinh thần hào phóng ra hoa.

Có những kẻ không sợ gì, chẳng sợ trời chẳng sợ đất, không sợ chết, cũng chẳng sợ giết người, phạm tội xấu ác bất kể. Những kẻ ấy thực ra là rất gần với Thiên Cổ Đế, rất gần với Tình Yêu Thương không ngăn ngại, không sợ hãi ... nếu xa lìa mọi mộng tưởng điên đảo...

Vậy nên Thiên Đế Con mới nói: "Ta đến không phải vì những người công chính mà cho kẻ có tội"

Rồi mới có phép - lễ "rửa tội" tổ tông - tội từ thủa hồng hoang xa lắc xa lơ có hai người đầu tiên phạm phải !

Đời này đời nọ, A Đường luôn lo sợ rằng hắn là kẻ vô dụng, sống đời vô nghĩa. Hắn cứ chăm chăm làm sao để khỏi trở nên bất tài vô dụng, phải chăng bởi ông bà cha mẹ hắn cũng từng có nỗi sợ dai dẳng ấy trong những đời sống mỏi mòn ở trần gian... Hắn nghiên ngẫm thiên kinh vạn quyển, cốt chỉ mong tìm được một diệu kế cho giấc mộng tang bồng, giấc mộng tái sinh vô ưu nào.

Song không thể! Chừng nào thiên hạ còn ưu sầu, hắn còn ưu tư, quằn quại, co quắp, hệt như những con giun trong thí nghiệm kể trên. Chỉ vì đã quen với những cơn đau nên phản xạ vô điều kiện!   



 




Monday, June 3, 2024

C84: Thiên Nhiên Không Vội

 C84: Thiên Nhiên Không Vội


Lão Tử có câu: “Tự Nhiên không vội vàng nhưng tất thảy đều toàn thiện.”


Lú lẫn thế nào mà ở đời phàm là chuyện gì quan trọng hắn đều vội vội vàng vàng làm cho xong. Để rồi lại lẩn thẩn nhẩm đi nhẩm lại câu nói ấy. 


Những gì của Thiên Nhiên đều toàn thiện trọn lành, còn những gì do con người đều bất toàn khiếm khuyết.


Ví dụ về nước: Nước chảy liên tục trong sông ngòi thì sạch và an toàn ở mức nhất định cho muôn thú cũng như con người uống.


Con người ngăn dòng tích nước, làm thủy điện hay bể chứa. Rồi lại dùng hoá chất để làm sạch nước. Bởi nước tù đọng chứa chất một chỗ thì luôn có vi khuẩn sinh sôi. Chưa hết, phải bơm lên bơm xuống liên tục biết bao công suất cho sự lãng phí tiện dùng ...


Bệnh tật nảy sinh thì phần nhiều đều liên quan đến nước.


Lại nói về sữa: 


Sữa mẹ thì sẵn sàng vốn được tạo hoá mặc định là để con bú thẳng. Loài nào cũng thế, chỉ riêng loài người. Con người nghĩ ra máy vắt sữa, tay cầm vắt sữa bằng silicon. Vắt ra rồi đong vào chai lọ, cho con bú từ chai lọ ấy. Lợi bất cập hại, bao nhiêu vi khuẩn sinh sôi, bao nhiêu công đoạn rửa sạch tiệt trùng đồ nghề. Rửa không sạch, con liền đau bụng. Rồi lại còn trữ sữa trong ngăn đá. Sữa mẹ vốn nhiều kháng thể sống (tế bào bạch cầu di chuyển liên tục) khi làm đông lạnh rồi thì nó là tế bào chết. Còn gì tốt nữa?


Chưa hết, còn sữa bột, sữa đặc có đường, sữa bò tiệt trùng, ... con người vốn vẫn luôn nghĩ và tạo ra được rất nhiều thứ rồi đua theo nhau như một lối sống thời đại. Mặc kệ việc cơ thể người có được thiết kế để hấp thu chúng hay không. Loài người là động vật ăn uống tạp đáng gờm nhất. Cà phê - sữa đá làm tim đập nhanh, máu tăng lên não, dạ dày cồn cào, gây tác dụng tỉnh táo tức thời, tưởng là tốt nhưng bất cứ thứ gì phụ nữ có thai và cho con bú không nên dùng thì thứ ấy không phải là thứ tốt cho sức khỏe. Tuy nhiên các nhà buôn cà phê thì luôn phải quảng cáo những điều tốt để bán hàng.


Bao nhiêu thứ thuộc về thiên nhiên thì đều trọn hảo, bao nhiêu thứ thuộc về con người thì lệch lạc bất toàn. 


Đến đỗi con người biệt lập khỏi tất thảy thiên nhiên và khoá mình trong những vách tường chật hẹp, coi đó là tiện nghi sung sướng an khang. Mở rộng thêm những đô thị để lại phải tích thêm nhiều bể chứa, dùng thêm điện năng, thắp sáng đêm cũng như ngày ...


Những ngọn gió bị tù đầy nơi phố phường đưa thêm bệnh dịch, ma đạo biết điều này nên trong chiều không gian khác đã sáng chế ra nhiều vi khuẩn. Vi khuẩn là sự sống. Vi khuẩn có khắp mọi nơi, khoa sinh vật học còn nói con người vốn là một loại vi khuẩn cao cấp. Ấy vậy mà cao cấp lại phải sợ thấp cấp hay sao?


Muôn sự vạn vật đối với Đấng Thiên Cổ chỉ như hằng hà sa số vi khuẩn nhỏ bé vô cùng. Tuy bé nhỏ nhưng sinh sôi vô hạn... Ai độ cho tất thảy Hồng Trần? 


A Di Đà Phật! 

Allah!

Amen!


A Đù (một Ma đã tu thành chín quả) từng nói với A Đường: “Tiên Ma vốn đồng đẳng, Phật kia cũng là chúng sinh mà thôi. Đến tột cùng đều không hề khác biệt. Chỉ là ai nấy đều đang đi những đạo lộ cung đường.


Lưu ý: Đường ở đây là Đường Tâm Thức. 


Tại sao người ta có thể đi hàng ngàn hàng vạn cung đường trần gian (như dân vận tải, chuyên chở - transport) nhưng không thể đi một con đường tâm thức thiêng liêng nào trong suốt cuộc đời?


Là bởi vì những chuyên chở của họ chỉ là hàng hoá “Trần gian”, là tục sự “Hồng trần”, là những gì “Hữu hạn”, giới định trong khuôn khổ tải trọng “Phàm ngã”.


Nhưng khi hướng mọi phương tiện vận tải, mọi chuyên chở, chú ý vào “con đường” Tình Yêu Thương Vô Hạn - Vô Điều Kiện, để ngày ngày đi lại trên cung đường ấy, thì ta trở thành một khí cụ, vận chuyển Tình Yêu - Sự Sống. 


Thậm chí không cần ai biết tới, không một bạn đồng hành cộng sự. Một mình ta đi đi về về, độc lai độc vãng trên đường tâm thức. Thì sự chuyên chở, vận tải ấy có ảnh hưởng gì? Lặp đi lặp lại những lối mòn đi tới Tình Thương như thế, có gì là mệt mỏi? Khi việc này là hoan lạc, tự lợi, thực chứng duy nhất trong mọi cuộc đời. Cần gì phải chứng minh, tỏ lộ với bất kỳ ai nếu không được hỏi.”


Hắn lơ mơ nghĩ về những tập đoàn vi khuẩn đi đi về về trong không trung, đất và nước, trong phân và trong bụng hắn... về những cơn sốt khi các Tình Yêu giao tranh, thắng thế hay lui dần... về sự sinh ra và biến chuyển của những con vi khuẩn... không bao giờ chết...


Rồi thương sao sự sống muôn trùng ...









C83: Cao Thượng Nao Nào

 C83: Cao Thượng Nao Nào


Con người thường nhìn vào lỗi sai và tiêu cực của kẻ khác mà không phải chính mình. Và bởi vì từ trong vô thức ai cũng có bản ngã - cái tôi, coi mình là quan trọng nhất, người ta thường tập trung vào nỗi đau của bản thân mà quên đi nỗi đau của kẻ khác. Ấy là bản năng mà thú loài cũng có. 


Sau khi than thở nói xấu sau lưng hay trước mặt với một người bạn phương xa về việc phải ở chung với một người độc tài, gia trưởng ... thì A Đường bỗng thấy day dứt áy náy vô cùng. Bởi nhẽ chỉ nên nhìn những điểm tốt của người. Dù có vài điểm không tốt thì cũng nên hiểu vì sao mà thế. 


Người “độc tài” thường do đã tôi luyện, ép buộc cảm xúc hay thân thể của bản thân lâu đến độ cực đoan hoá (ngôn ngữ hiện đại gọi nhanh là stress). Như khi xưa Đức Phật Thích Ca đã độc tài đến độ chế hàng trăm giới cấm cho tăng đoàn, bắt phải tuân thủ. Còn “gia trưởng” đến độ bản thân mình thì để tóc trong khi yêu cầu tất cả tăng đoàn phải cạo trọc!


Ấy nhưng thật, cũng phải có người gia trưởng thì gia quy, gia phong, gia đình mới được nề nếp theo đúng tác phong của người lãnh đạo. 


Hắn xưa nay không hợp làm lãnh đạo bởi cá tính mềm mỏng dễ chiều. Tuy nhiên bởi đời này đời nọ luôn theo hầu những vị độc tài nên thâm sâu cũng bị ảnh hưởng tính cách đáng sợ đó. Quả thực thậm chí đến độ coi những kẻ độc tài rất ngầu, rất có khí chất, hay ho, đáng ngưỡng mộ. Dĩ nhiên độc tài điều ác thì khác, như Hitler vậy ...


Hắn luôn muốn lười được và được lười. Bởi coi không gì sướng bằng sự lười chỉ việc ăn rồi ngủ ngày dài qua tháng rộng, chẳng bận lo toan bất cứ việc gì. Hắn đã quả quyết kết thân với một người luôn ép bản thân bận tối mắt tối mũi, trách nhiệm đầy mình! Cốt là để cho có kẻ lo hộ mọi chuyện. Đời ấy kiếp ấy đã được thỏa nguyện!


Lười được và được lười cũng là một nghệ thuật sống. Tuy nhiên đến một độ lười không thể hơn được nữa thì hắn ngộ rằng sự lười biếng là chết chóc. Hắn đã nằm dài trong mê mê tỉnh tỉnh về thế giới ảo, mặc cho thực tại hiện tiền bề bộn những buộc ràng ai ai. 


Muốn ăn thì phải làm, muốn có tiền thì phải kiếm, muốn gặt hái thì phải trồng trọt. Chứ không làm, mà cứ ăn cứ hưởng thì cái “lộc” cái “phúc” đó đâu thể bền lâu. Người đồng hành cứ rên lên mỗi ngày vì việc hắn lười đến nỗi chỉ ăn rồi ngủ kể từ khi về cùng một nhà.


Hắn áy náy vô cùng vì dẫu sao quả thực lười biếng là một trong 7 trọng tội ở đời. Tuy biết sai nhưng vẫn không sửa, ấy lại là một tội nữa. Vậy nên khi sen kia bưng đến tận lều cốc cháo vào mỗi sáng với câu nhắc quen tai: “Jesus comes to serve, not to be serve.” Hắn lại mắt nhắm mắt mở gào lên không ăn, đừng serve nữa! Song kẻ độc tài nọ vẫn kiên quyết bắt ăn để có sữa cho con. 


Luôn bén duyên và có hấp dẫn lực với những kẻ độc tài, mẹ đẻ hắn cũng độc tài đến cao độ. Có lẽ chăng hắn còn thiếu trong chính mình một sự dứt khoát và kiên định nào đó? 


Điều gì đó cứng cỏi như kim cương hay sắt đã tôi rèn? Như khí cụ để làm gì đó cho thỏa chí một đời! ... Một đời xa xăm nào?!


Chẳng biết, thôi thì một kiếp ấy đời này, cứ trong thân nữ “kém phúc”, “hèn mọn”, “hạ tiện” như có lời kinh sách nói. Quanh đi quẩn lại một xó bếp góc lều...


Biết đâu tất cả mọi sự hạ tiện ấy lại sinh ra những cao thượng nao nào ...




Tuesday, May 7, 2024

C82: Tình Yêu Vô Hạn

Chương 82: Tình Yêu Vô Hạn

Thực ra linh hồn vốn vô tính. Giới tính được quy định chỉ khi đăng nhập hay đăng xuất vào cõi vật lý hồng trần. Bởi vì từ thủa hồng hoang vạn vật đã mang trong mình hai khí âm dương. Khí âm thịnh thì giới tính là cái, khí dương thịnh thì giới tính là đực. Bông hoa đực hay bông hoa cái cũng được tạo hóa phân định rạch ròi nhằm mục đích thụ phấn cho nhau.

Kỳ lạ làm sao, chỉ một hạt của một cây bất kỳ, sẽ cho ra hàng ngàn hàng vạn hạt, rồi cứ thế nhân lên mãi mãi... Mỗi hạt lại là một hạt giống cho mai hậu. Hào phóng thay là Tình Yêu Vô Hạn. Trong thiên nhiên điều gì cũng thật hào phóng. Cây hào phóng ra lá, ra hoa, ra hạt. Muôn loài sống nhờ đó. Động vật có vú thì hào phóng cho sữa. Nguồn sữa mẹ tuôn chảy bao đời cứ thế nuôi lớn bao sinh linh. Tự nhiên luôn hào phóng tưởng như đến nỗi dư thừa.

Sữa - ở cây chính là nhựa sống - ở đất chính là mạch nước ngầm. Ma đạo biết điều này và đã không ngừng triển khai kế hoạch hủy hoại của chúng bằng nhiều cách. Khi sự cân bằng trong thiên nhiên bị phá vỡ, mạch nước nghẹt ngòi, nhựa sống nuôi dưỡng vạn vật và con người sẽ cạn kiệt. Dầu mỏ tưởng như là vô hạn, khai thác hàng trăm năm vẫn chưa hết? Ấy là vì người ta chưa biết rằng dầu khí chính là máu của mẹ đất. Hút mạch máu mãi, đến một lúc nhất định thì sẽ ra sao? Những cơn địa trấn, những đại hồng thủy, những gì là thảm họa cho muôn loài? Điều gì xảy ra trong quá khứ cũng sẽ lặp lại trong tương lai, nhưng quá khứ thì quá xa xưa nên người ta không nhớ tới, còn tương lai quá xa xôi nên ít kẻ quan phòng. Chỉ có Đấng Thiên Cổ là quan phòng mọi sự.

Từ thời vô thủy cho đến bây giờ, con người đã mang hàng vạn thân hình trong những lần hiện thành nhục thân trong quá khứ, chỉ có thể so sánh với tổng số những hạt cát trong Vũ trụ. Tuy nhiên, con người hiếm khi sử dụng những thân tướng này cho mục đích nào xứng đáng, thường chỉ lãng phí bằng cách làm những việc như động vật vẫn làm, lặp đi lặp lại nhiều lần.

A Đường cũng như mọi sinh linh trên đời, vốn không có giới tính, vốn đã sinh ra với thân nam và nữ trong vô số thời kỳ và ở mọi bình diện,
và trong mỗi hiện thân phải có cha và mẹ, như vậy y đã tạo mối liên hệ cha mẹ một cách không thể tránh được với tất cả chúng sinh. Vì niềm tin quyết về mối quan hệ thân thuộc này của tất cả chúng sinh mà Tâm Bồ-đề và Đại Bi của hắn phát khởi.

Bồ-đề (Bud-dha) hay Phật Đà, là phiên âm từ tiếng Ấn Độ, nghĩa là Giác Ngộ. Có vị Phật nói: "Ta là Phật - người giác ngộ, chúng sinh (tất cả mọi sinh linh) cũng sẽ giác ngộ." Đơn giản thế thôi, nhưng đời sau tôn kính và sùng mộ quá đỗi nên biến Phật thành một địa vị độc tôn, rồi dịch ra thành: "Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành." Nghĩ rằng Phật là một ai đó, một QUẢ VỊ kinh khủng khiếp, cao tột độ, khó với tới lắm. Mặc định là phải tu - phải học - phải hành vô lượng kiếp mới đạt được.

Quả thực là như vậy, không dễ mà "giác ngộ"- hiểu được sâu sắc chân lý hay một điều gì. Giác ngộ rồi thì để đó hay làm gì mới là vấn đề sau nữa. Giác ngộ rồi thì "giải thoát" khỏi mọi khổ đau hay chăng? Niết bàn tuyệt đối sung sướng vô hạn hay chăng? Có lẽ vậy ... chỉ những ai đã giác ngộ mới biết Giác Ngộ thực chất là gì. Cũng như, chỉ những ai đã Sống mới biết thực ra Sống là gì? Sống có vô hạn kiểu cách, cũng như vô số dạng thức mà...

Trong kiếp sống ấy, A Đường đã được làm mẹ. Hắn đăng nhập vào cuộc đời này bằng thân nữ, để hiểu hay giác ngộ về Tình Yêu Vô Hạn. Để hiểu những đam mê, đớn đau, hy sinh, nỗ lực nào đã sinh ra và dưỡng nuôi chính hắn cũng như tất thảy hồng trần. Kiểu mẫu và cách thức nào mà Thiên Cổ Đế tạo dựng trần gian? Cưu mang nào đi cùng năm tháng? Gắn bó nào mãi chẳng chia lìa?

Dịu dàng, kiên nhẫn, bao bọc thay là Tình Yêu Vô Hạn có trong mỗi bà mẹ sẵn sàng mọi lúc khi con khóc. Như dòng sữa xoa dịu mọi cơn khát luân hồi, như sự hiện diện làm an tâm giấc ngủ, như giác ngộ nào bình dị đến phi thường!


[ Tán thán Tứ Đại Trọng Ân Đất Nước Gió Lửa ]


Tứ Đại Đồng Ca


☆ Đất…

Đất đai đá ngọc… Sữa Ngà Nguồn Thiêng gieo chủng sinh!

Bao kiếp âm thầm lặng lẽ miên trường…

Tình thương chan chứa suốt thinh không!

Đức Ân Vô Tận Vô Cùng ai thấu tri?


Âm thầm vòng quay…

Không quãng hao gầy!

Hoán Luân Nhật Nguyệt đêm ngày mật miên yêu thế nhơn!


☆ Nước…

Có khi tĩnh lặng khi bồng bềnh khi tuôn láng linh!

Chuyên chở trong mình non nước hữu tình… 

Phù sa mang đến khắp nơi nơi…

Lắng sâu tâm mạch suối nguồn yêu thương chí chơn!


Suối Nguồn Hồng Ân

Trong suốt vô ngần!

Chứa chan vô tận Cội Nguồn Tình Yêu nhất như! 


☆ Gió…

Có khi thinh lặng khi nhàn ru khi bão giông…

Da diết tự mình tha thiết ân tình!

Người nơi nhơn thế có hay chăng?

Gió miên thinh vọng Chơn Nguồn Thiêng thẳm sâu!


Con Đường Tình Yêu 

Không ít không nhiều.

Trước sau như một vỗ về yêu thương không giới ranh!


☆ Lửa…

Nấu nung tinh luyện hững hờ liu riu khi hãn hung!

Dung chứa tâm tình khi ấm khi nồng…

Vầng Dương lan tỏa khắp không gian!

Lửa mang năng lượng vĩnh hằng yêu thương chẳng nguôi!


Vô Thường Nhơn Gian

Thay thế Chơn Thường!

Hiểu ra… 

Huynh Đệ Đại Đồng Càn Khôn không cách xa!


☼ Thể theo điệu lý Trăng Khu Dạ Khúc


   

Friday, April 26, 2024

C81: Be Still My Soul

 Chương 81:

Ngây thơ vô tội khi sinh ra và rồi ngây ngô vô số tội lìa đời. Đời này tiếp nối đời nọ, con cái tiếp nối mẹ cha... Cứ thế phải chăng quả địa cầu được Thiên Cổ Đế dựng nên để làm quán trọ miễn phí cho vô số tội tình? Tội tình nào khiến sinh linh cứ mãi khổ đau?

Thế giới hồng trần cũng như thế giới trẻ thơ. Thế giới tâm linh cũng như tuổi mới lớn. Thế giới vĩnh hằng cũng như tuổi trưởng thành.

Một đứa trẻ sơ sinh thì chỉ biết khóc và bú sữa. Bú nhiều quá thì cũng khóc vì đau bụng. Chưa tiêu hóa hết mẻ sữa này đã tiếp mẻ sữa khác thì đầy hơi trớ ọe. Ti rồi thì ỉ đùn đái dầm cũng chẳng thể tự lo. Tuổi mới lớn thì đẹp đẽ và mơ hồ. Tuổi trưởng thành, một khi đã bước vào ngưỡng cửa ấy, thì mọi sự hoàn toàn khác.

Phải chăng một khi đã bước chân vào cõi Vĩnh Hằng thì bản thể sinh mệnh sẽ bất tử bất diệt, quá cả sinh diệt của một quả địa cầu, của một kiếp đời? Sống vĩnh viễn mãi mãi như vậy phải chăng là nhàm tẻ buồn chán, già nua?

Vất vả làm sao để chăm sóc bú mớm từng chút cho một Đứa Trẻ?
Vất vả thế nào để các Đấng Thiên Cổ tạo nên Hồng Trần?
Vất vả bao nhiêu để các Bậc Tiền Hiền kiến thiết Nhân Gian?

Bao nỗ lực, bao công sức, bao minh triết, bao kinh nghiệm? Vậy mà để rồi con cháu lớn lên "ăn cháo đá bát", láo toét xấc xược, khinh rẻ cổ nhân, những ai, những gì đã sinh ra và tạo nên mình? Để rồi tự phong hay được phong những chức sắc địa vị tâm linh nào? Đấng Vô Danh cười ngài "Cầu Danh Bồ Tát" quá ư câu nệ? Đấng Thiên Cổ cười Phật thế gian chỉ như thiếu niên sốc nổi bốc đồng?

A Đường cũng cười chính hắn một đời đa mang cơ sự trời đất. Để rồi hắn lại tung hê tất cả vào thực tại phiêu diêu bồng bềnh, nơi hắn tưởng Thiên Cổ Đế trong từng điều, từng điều ...

Đã từ lâu hắn mất đi sự KINH TỞM và SỢ HÃI. Bởi bất cứ điều gì hắn ghê tởm hóa ra cũng nằm trong chính hắn vậy, chỉ là hắn không hề phát giác. Hắn rất sợ rắn. Song khi bước chân vào Ma Đạo đã làm bạn với thú cưng này thân thiết đến nỗi có thể gối đầu lên nó mà ngủ. Hắn cũng sợ rất nhiều điều, sau đó nhận ra những nỗi sợ đều không thực đáng sợ như vậy.

Khi ở trong Vô Cực Chi Không, rảnh rỗi đến nỗi hắn đã tự mình sáng tác một ngàn lời ca cho một ngàn khúc nhạc, tự hát tự nghe. Để sau này có dịp, có ai phù hợp thì hắn lại lôi ra ca lại. Nhạc cũ ca lại cũng chẳng sao, miễn chính hắn tự mình tâm đắc là được. Nhiều lời đến nỗi quên lời, đôi khi phải bịa ra cho phù hợp giai điệu cũ. Mà chất giọng trầm ấm ngân vang khiến toàn cõi vắng lặng cũng xao động.

Lời kẻ tình si thì bao giờ cũng ngọt ngào tha thiết. Hắn lại si tình với cuộc đời đến vậy. Bảo sao giọng nói cất lên không có sức lay động vô cùng...

Be Still My Soul

https://youtu.be/S2dWpkAuFyw?si=CWIb1xWqL8_ReIBA

https://youtu.be/hqgC1tqifV8?si=TcmtGhhI3RGUHD0b

https://youtu.be/CmNXeReZqAg?si=9_L7sComVCy_1BfC

https://youtu.be/QYbX9wmQTlI?si=LxsNjiN0ZcHdQGSh 

https://youtu.be/pwkPsKe-39Y?si=jQ4fba4k2UQ4ysIP


Tuesday, January 9, 2024

C80: Bóng Mây Sinh Tử

Chương 80: Bóng Mây Sinh Tử

Sinh Tử chỉ như đám mây trôi, thoáng có thoáng không một đời.

Tất thảy hữu tình đều đến và đi như những đám mây ngang trời như thế. Bất biến - duyên tùy ... Nào ai biết trước được sự hội ngộ hay chia lìa bất kỳ của những đám mây? Mỗi cơn gió thổi là một sự gặp gỡ và chia xa. Khi linh hồn theo gió bay đi, bỏ lại xác thân không nuối tiếc. Có hay chăng một hành trình mới bắt đầu, sẽ có những bạn đường mới và thân thương mới?

Hắn thường mơ về vô số những bóng mây khi ngước nhìn bầu trời xanh vời vợi. Rồi lại nhớ bầu trời không một gợn mây khi vô số những đám mây kết tụ. Trong những đám mây có hắn và những người bạn, chim chóc, cỏ cây, hoa lá, núi sông, tất cả ... đều gặp gỡ và chia xa. Những hạt mưa là nước mắt mừng vui hay buồn rầu... Liệu tất cả sẽ gặp lại nhau vào một lúc nào đó, ở đâu đó, dưới hình hài nào đó? Có phải đấy chính là luân hồi? Có phải luân hồi là khổ? Sinh tử là đáng chán, và Đau Khổ là chân lý của Đời Sống Hiện Hữu này? Như một vị "Phật" đã nói...

Đại Giác Giả mà cũng chỉ nông cạn đến thế...

Người ta thường coi lời nói hay một sự lặp lại theo thói quen nào đó là chân lý, rồi mặc nhiên đời này tiếp đời nọ tôn thờ, sùng bái những điều huyễn hoặc. Sự thật tột cùng chẳng mấy ai đoái hoài khắc khoải. Người ta muốn ăn liền một món "giả lý" được dọn sẵn và gọi món đó là "chân lý". Chân Lý vô hạn và Sự Thực bao la thì chỉ có thể tự thân thấu hiểu.

Thời trang tín ngưỡng của con người cũng thay đổi theo thời gian và không gian. Nơi này có mốt sùng đạo Phật, nơi kia có mốt sùng đạo Hồi, đạo Chúa, ... Nào ai biết thời trang chỉ là quần áo mặc ngoài thân, khi bỏ thân rồi thì chẳng còn thời trang gì cả ngoài linh hồn bản thể trần trụi.

Cứ như động vật thì thật đơn giản, suốt đời chẳng mặc gì ngoài lớp da lông. Ấy vậy mà khỏe nhẹ vô cùng. Phải chăng ấy là địa đàng hay thiên đàng nào đó, khi mọi sự xấu hổ về bản thể chân thật chẳng hề tồn tại. Từ khi sinh ra đến lúc chết đi chẳng gì che giấu, như thể chẳng có lỗi lầm hay khiếm khuyết gì...

Con người và muôn loài trần truồng như vậy, có phải là khỏe nhẹ lắm không? Đâu cần may mặc khâu vá, đâu cần dệt vải, trồng bông làm áo quần. Da được tối đa hô hấp và sức đề kháng mạnh mẽ với mọi điều kiện tự nhiên nóng lạnh bất kỳ. Không phải là không có người từng sống thật như vậy, trần truồng trên đỉnh núi tuyết ...

- - -

Ở hạ giới có kẻ vì muốn ích kỷ lợi thân, muốn thỏa mãn nhu cầu đực cái mà suốt ngày suy ngẫm về thời trang Hồi Đạo. Vốn được nhà tạo mẫu khi xưa vô tình tô vẽ bằng những chất liệu sẵn có của thời đại ấy. Chuyện lấy 12 vợ hoặc hơn thế đơn giản là vì chiến tranh không mong muốn khiến đực chết, mà cái nhiều. Số đực còn lại phải lấy cái để lo cho cái có chỗ ăn, chỗ nằm,
chỗ dựa. Không phải thế là hay, là thích. Bởi vì các cái cùng nhà cũng ghen ghét tị hiềm nhau sứt đầu mẻ trán. Như từ thủa xưa bao đời con của các vua và các cái cũng đánh lộn bất hòa, giết nhau như ngóe ... Song lịch sử vẫn thường được tô hồng cho hậu thế suýt xoa.

Khi thiên giới muốn mở rộng bờ cõi, hạ giới ngày càng xuất hiện nhiều tiên nhân đầu thai. Song có câu ngu dốt cộng nhiệt tình bằng phá hoại. Những vị tiên non trẻ nhiệt tình quả thực gây không ít chướng ngại và tai tiếng. Ngay đến cả những vị đại thượng thủ còn mắc phải những sai lầm nghiêm trọng không thể sửa chữa, huống chi là ...

A Đường đã phải trả giá cho sự lạm quyền và tự ý quyết định chuyện đại sự trong trời đất. Hình phạt cho hắn không chỉ về thể xác mà cả tinh thần. Phải vô cùng lâu mới hóa giải được những rắc rối mà hắn đã gây ra. Khi tà khí ma chướng ngập tràn thiên hạ, hắn chỉ có thể hối tiếc chính mình đã mở đường cho hươu chạy, mở đường cho trùng trùng duyên khởi vô minh. Dẫu hắn tưởng rằng chẳng có gì là đáng sợ... khi nhân tố đủ đầy, vô số trái ác này nở ... Vậy mới hay: tác nhân - hạt nhân - hạt giống gây trồng quan trọng đến nhường nào.

Dẫu sao dù đúng hay sai, hắn chính là nhân tố mở đường cho bao sự triển khai gấp rút chẳng thể chậm trễ. Các vị tiên tửu xưa vốn quan liêu chỉ tìm vui tiên cảnh thì nay nghiêm túc hạ phàm liên tục để thực nghiệm độ nhân. Bao cơ sự biến đổi chóng vánh trong 1 vạn năm thời gian thiên giới khiến thiên giới thay hình đổi dạng chẳng thể nhận ra. Kỳ vĩ trên địa hạt tinh thần ảo diệu hơn những gì mắt thấy tai nghe vô cùng.

Trong lúc đó, A Đường vẫn bị giam trong Vô Cực Chi Không, vô cùng nhàm chán và tẻ nhạt. Hắn còn tưởng rằng đó là Vô Dư Niết Bàn - Chân Phúc Vĩnh Hằng - Chân Lý Vô Ngã gì đó kinh khủng lắm. Mỗi ngày đều suy ngẫm về Tính Không đến nỗi đầu hắn chẳng có một điều gì khác ngoài chữ số 0 to đùng. Đâu hay rằng "Chân Không" kia thực có chí ít cũng là một mình hắn đang tồn tại.

Luẩn quẩn loanh quanh trong những cái chân - lý cũ rích giới hạn và quan trọng hóa nó, cho rằng đó là tối hậu, số rách, chẳng còn gì hơn thế nữa ... để rồi AQ tự hào về chính mình, là một loại bệnh lý mãn tính mà thiên hạ hiếm ai tránh khỏi. Ở tiên nhân thì điều đó thể hiện trong suy nghĩ và lời nói, ở phàm nhân thì hành động và việc làm.

Mục Đích dẫn tới Con Đường. Mục đích của con vật chỉ đơn giản là sinh tồn - duy trì sự sống thể xác. Con Đường đơn giản là bản năng sống: ăn uống ngủ nghỉ, bài tiết chất thải, và giao phối. Còn mục đích của con người là gì?

Phải chăng là Tinh Thần? Là vươn tới và ôm lấy điều gì vĩnh hằng, vô hạn, nằm ngoài thân xác? Là Tri Thức hay Tình Yêu Vô Hạn, là Thiên Cổ Đế sáng tạo ra vô vàn hết thảy sự sống sinh loài?

Hay chẳng là gì ngoài ngụ ngôn đực cái như trong câu chuyện về sáng thế ký ngày xửa ngày xưa?

Mục đích của con người là sống và sống thật ngây thơ vô tội, tò mò về tất cả cuộc đời ...