Saturday, December 31, 2022

Sự Chết

 Sự Chết


Thực ra chẳng có gì đáng sợ, chẳng có gì đáng buồn. 


Ở nhân cõi thì Chết là hình thức phạt tội nặng nhất, là nỗi buồn đau khổ nhất.


Nhưng trong cõi Tinh Thần, Sự Chết thực ra là đặc ân, là món quà tuyệt diệu nhất dành cho Hồn.


Chết, là một cách giải thoát tối hậu, tức thì!


Không thiếu những trường hợp, đó là cách giải quyết hay nhất và duy nhất cho mọi sự. 


Chẳng có gì sai khi một người muốn được chết. Vì đó là Quyền. Quyền Chết cũng phải được tôn trọng ngang bằng Quyền Sống.


Mà một người luôn sống trong trạng thái sẵn sàng cho sự Chết thì thực là tột cùng của thức tỉnh. 


Cũng không thiếu những đứa trẻ mồ côi, cha mẹ qua đời từ khi lọt lòng, hóa ra lại trưởng thành tốt hơn những cá nhân được dạy bảo búng mớm quá thể chăm chút. 


Thực không thiếu cách để Chết.


Nhưng để Sống, làm sao để Sống cho đáng Cuộc Sống, thì thực sự không đơn giản.


Có những người yêu nhau không đến được với nhau nên thà chọn cái chết vì Tình. Đây là lựa chọn ngu ngốc nhất. Vì thực nếu đã không đến được với nhau khi còn sống thì có chết cũng chưa chắc đã cùng nhau. Mà Tình nếu thực là khắc cốt ghi tâm, trọn vẹn linh hồn cùng nhau, thì thực cái xác chẳng hề quan trọng. Nhất là khi linh hồn luôn hướng về cùng một Ý Chí Tột Cùng, thì xác ở cạnh hay ở xa nhau, hoàn toàn không là điều quan trọng. 


Linh hồn phải mạnh mẽ sống sao cho đáng sự sống thiêng liêng mà nó được định, cho đến khi Nó được đôi cánh tự do của Thần Chết đón đi khỏi vị diện giới hạn này. 


Cho đến khi ấy, mọi sự trong giới hạn vật chất này đều là cực hình cho linh hồn thực hữu.


——


Hôm qua đôi vợ chồng trung niên đến mua củi. Người vợ là giáo viên dạy toán, người chồng là giáo viên dạy vẽ. 


Cô dạy toán rất vui tính, đôi mắt sáng và hay cười. Cô làm mình hứng khởi hơn với môn đặc biệt yếu kém này. Sẽ quyết tâm sang nhà cô học thêm.


Cô bảo: Toán là sự thật, sự chính xác, sự hiển nhiên rõ rệt, như 1+1=2. Chỉ có một đáp án chính xác, không có hai. 


Người tư duy kiểu toán là người thực tế, rõ ràng và mạch lạc. Không kiểu sương mù ảo mộng, mông lung, lạc lối, cảm tính.


Mà người giỏi toán, bao giờ cũng được coi là thông minh.


Không có gì là không luyện được. Mình sẽ vượt qua được điểm mù này. 


Dù có phải học cho đến chết chưa giỏi được... còn sống là còn học. 


Thực ra tính mình rất lãnh cảm, rất lạnh. Có lẽ cũng có thể nhận Thần Chết đại hiệp làm đại ca nếu mình gắng học để giỏi hơn về môn này cũng nên. 


Chết - Vô Thường là sáng tạo tuyệt vời nhất của Sự Sống !











Thursday, December 29, 2022

Vô Dụng Nhân



Mình đã làm gì để trở nên thuần vô dụng một cách tuyệt đối:


  1. Chấp niệm vào cả 3 thời
  2. Vọng tưởng vào cả 3 cõi
  3. Ngắt kết nối với phụ huynh
  4. Chặn liên lạc với thầy bạn
  5. Mơ mộng Uyên ương hồ điệp


Đời chỉ là giấc mộng mà như Trang Chu đã tả: Hồ Điệp chi mộng vi Chu Dư (Giấc mơ của bướm đã làm ra Chu ư?)


Rồi lại nghe lý thuyết hỗn loạn về hiệu ứng cánh bướm 


https://vi.m.wikipedia.org/wiki/Hiệu_ứng_bươm_bướm. 


https://youtu.be/GZ07ymk5q5I


Thấy lòng mề ruột gan tim phổi đều hỗn loạn hết cả, nhất là mấy ngày này. Hôm nay lại được tin Nga đã ném bom quả tiếp vào Ukraine đêm qua. 


Nhiều lúc nghĩ tội nghiệp cho David quá. Phải nuôi một đứa thuần ăn hại như mình. Hôm qua còn khóc ăn vạ đòi tự sát. David luôn than khổ vì phải chịu đựng: Tôi vừa phải làm cha, làm mẹ, làm nô lệ, trâu bò. Vừa chịu hành hạ cả vật chất lẫn tinh thần mỗi ngày vì bạn.


Vì mình thực sự chẳng làm được một cái gì cả ngoài đờ ra hết ngày này qua tháng nọ. Thậm chí có gọi cũng không thưa, hỏi cũng không nghe. Không khác một cái xác lạc hồn là bao.


Phải quên đi chấp niệm về Chàng thôi. 4 năm nay hồn siêu phách lạc vì chỉ ảo mộng đêm ngày như thế. Chàng là ai thậm chí còn chẳng biết. 


Chàng là Phật? 

Chàng là Chúa?

Chàng là Tương Lai hay Quá Khứ?

Chàng là Hy Vọng hay Tuyệt Vọng?


Là Hồng Trần Mộng, Địa Đàng hay Thiên Đàng? Chân Sư hay Chân Sự?


Chẳng thể biết nổi bất cứ một điều gì. Sách vở hàng thuyền mà cũng chẳng thể hiểu nổi, tìm ra Chàng nơi đâu. 


Mình trở nên Thuần Vô Dụng, Vô Năng một cách tuyệt đối như thế. 


Khổ cho người lân cận phải cưu mang đứa như mình. 


Phải quên Chàng đi thôi. Phải quy về Thực Hữu này. Phải sống! Không chết được thì chỉ còn cách sống chứ biết làm thế nào bây chừ. 


Vậy mới hiểu những mối bi tình Hồ Điệp mộng mà xưa nay người ta vẫn hay khóc trong các khúc Ca Thương nó là như thế nào.


Thôi thì, thuần vô dụng cũng có cái hay trong sự dở hơi của nó. 


Vì vô dụng nên chẳng thể hại mình, hại người, hại tất cả thế gian ...


Con của Vô Dụng Tộc Nhân

Viết ngày 29.12.2022 

Gửi Cha Trên Trời - Hư Không Tộc




Big Boss

 HAI VỊ CHÂN SƯ

Trích từ:

Masters of Wisdom, Edward Adbill, 2015.


Đây là nội dung tóm tắt bài chia sẻ ngày 8.5 năm 1955 của bà Dora van Kunz tại chi bộ Philadelphia của Hội Thông Thiên Học.


I. 


Tôi muốn đưa ra vài ý kiến của riêng tôi về các Chân sư và đường Đạo, nó có hơi khác một chút với những điều bạn thấy trong sách vở. Tôi là hội viên TTH cả đời mình, và các Chân sư rất thật đối với tôi từ khi có trí nhớ. Tôi muốn thuật với bạn vài điều theo quan điểm của tôi về các ngài, và sự liên hệ của chúng ta với các ngài.


Chân sư chú ý đến trọn nhân loại và mối quan tâm của các ngài là cho nhân loại. Các ngài không nhất thiết chỉ quan tâm đến chúng ta vì ta là hội viên TTH. 


Kế đó, về một mặt các ngài không chú mục tới quá khứ, trọn nỗ lực của các ngài là cho tương lai. Các ngài chú ý vào hiện tại nhưng chính yếu là vào việc uốn nắn tương lai. Nếu có đọc sách Mahatma Letters to A.P. Sinnett bạn sẽ nhận ra ý tạo hình tương lai này.


Ta có thể thành hữu dụng cho các Chân sư theo cách rất đặc biệt. Các ngài đã vượt ra ngoài karma cá nhân. Đây là điểm rất quan trọng. Các ngài không thể làm điều chi có tính cá nhân, hay điều chi khiến các ngài có liên hệ cá nhân và phải giải quyết. 


Các ngài chỉ có thể can dự vào liên hệ cá nhân nào hướng tới việc làm cho nhân loại. Các ngài thương yêu bạn, nhưng nếu các ngài làm điều chi chỉ vì thương yêu bạn một cách riêng tư, thì việc ấy sẽ lôi cuốn các ngài vào karma và sự tương tác cá nhân. Các ngài ở vị thế hiện giờ vì làm việc cho nhân loại.


Là hội viên TTH, ta có thể hữu dụng vô vàn cho các ngài, vì khối lượng điều chi có thể làm được ở cõi trần tùy thuộc vào việc ta sẵn lòng chấp nhận karma tới đâu. Nếu ta là người tiền phong và hành động nhân danh Ngài, khi ấy ta làm công việc của Chân sư và nhận karma cho hành động ấy. Rất ít người nghĩ như vậy. 


Chân sư không thể có karma cá nhân, các ngài không thể để bị mang trở lại vào xoáy của những liên hệ cá nhân. Hội TTH hữu dụng, và nó chỉ hữu dụng nếu chúng ta, các hội viên, tận tâm với lý tưởng cho nhân loại, và ý thức rằng ta phải sẵn lòng là tác nhân cho karma cho Chân sư trong việc thực hiện công việc của các ngài. 


Có rất ít người trong chúng ta nhận biết liên hệ này. Bạn sẽ thấy, khi đọc những thư của các ngài, là các ngài muốn xem chúng ta như là bạn đồng sự trong một công cuộc vĩ đại.


Khi biết về Chân sư, bạn không thể làm gì khác hơn là tận tâm với các ngài, nhưng các ngài không muốn ta thờ phượng các ngài và hội TTH không phải được lập để thành một tổ chức tôn giáo. 


Tôi nghĩ đôi khi ta đặt Chân sư lên bệ cao và thấy mình như con giun cái kiến nhỏ nhoi bên dưới. Có người nghĩ nếu đầy lòng sùng kính với Chân sư thì họ có thể ngồi yên trong ghế và không cần làm gì khác, giống như ở trong một tu viện. Vậy chưa đủ. Hội TTH không được lập ra theo nguyên tắc ấy, và nó không hoàn thành vận mạng của mình nếu ta vô tình coi nó như một giáo hội. 


[Nói thêm ngay chỗ này là mọi tổ chức hội đoàn, đều như đoạn văn trên, không hề có nơi nào được Tiền Hiền lập ra theo nguyên tắc ấy – cho rằng nếu đầy lòng sùng kính với Chân sư thì họ có thể ngồi yên trong ghế và không cần làm gì khác]


Các giáo hội có công việc hết sức to tát phải làm, nâng cao nhân loại, cho họ niềm tin và gợi lòng sùng tín. Sùng tín là điều tốt, nhưng các Chân sư đòi hỏi nhiều hơn thế. Ta phải cảm biết ý ta là người đồng sự với các ngài, tham dự chung vào một công cuộc lớn lao. Như tôi có nói, càng biết nhiều về Chân sư, bạn không tránh được là có lòng yêu quí và tôn kính, nhưng đó không phải là lý do khiến Hội TTH hiện hữu.


Nếu có đọc đôi chút về đời bà Blavatsky, hẳn bạn biết bà gọi Chân sư mình là ‘Big Boss,’ và có lúc bà không thích chuyện mình phải làm. Bà là người tuyệt vời theo cách của bà, và có nhiều khả năng. Tuy nhiên bà cũng có cá tính sôi động và sai lầm. 


Có người hỏi tại sao bà Blavatsky được chọn làm dụng cụ cho Chân sư khi bà không giống như ý người đời có về đệ tử Chân sư phải là sao. Bà là dụng cụ tốt nhất có thể tìm kiếm được cho Chân sư. Bà tuyệt đối tận tâm với các ngài. Không có gì mà ngài không thể kêu bà làm, dù bà có sức khỏe yếu kém. Bà có thể không muốn làm nó, nhưng không có gì trên đời mà bà không làm nếu ngài kêu bà làm.


Những hội viên ban đầu của hội rất tận tâm, mà họ tận tâm cho nhân loại. Các Chân sư nói rằng hội TTH phải là chiếc cầu nói giữa Đông và Tây. Những người này dốc lòng cho công cuộc bắt cầu nối triết lý của các Chân sư với con người. Điều này, theo cái nhìn của tôi, là điều các Chân sư thực sự mong đợi nơi hội. 


Các ngài mong chúng ta là nhóm những người làm hết sức mình, làm mọi việc chi có thể làm để mang triết lý của các ngài đến kẻ khác, ngay cả khi có đối nghịch lớn lao, và sẵn lòng nhận karma dù sai hay đúng.


Nào, Chân sư có thật. Thường khi rất khó cho ta cảm biết các ngài là thật vì trước tiên, rất ít người trong chúng ta đọc sách vở tài liệu. Có mấy bạn đã đọc những thư trong quyển Mahatma Letters to A.P. Sinnett? Chúng là Theosophy căn bản. 


Chúng ta nói là muốn phụng sự Chân sư mà không chịu tìm xem Chân sư nói gì. Làm như có ít người đã đọc các sách ấy. Ta nên đi tới tận nguồn nguyên thủy, và tôi hay khuyên người ta đọc Mahatma Letters to A.P. Sinnett.


Lời của các ngài làm ta khó nghĩ. Định kiến của ta thường khi là rào cản giữa ta, đường Đạo và các Chân sư. Bạn bắt đầu với tư tưởng nào đó về Chân sư và khi tham thiền bạn tạo nên hình ảnh về thành kiến của mình về hình này, dựa trên hiểu biết cá nhân như là người Thiên Chúa giáo, Phật giáo vv.


Thí dụ, các Chân sư thánh thiện. Nhưng sự thánh thiện thực sự của các ngài có thể hoàn toàn khác hẳn với thành kiến của chúng ta. Việc thực hay làm ta sửng sốt, vậy hãy ý thức về những định kiến của mình. 


Khi bạn tham thiền về Chân sư, luôn luôn giữ óc cởi mở và cảm biết ấn tượng nhận được là gì, thay vì tạo hình ảnh trong trí về ngài. Không chừng bạn sẽ biết được thực tại nhiều hơn. Không có gì đáng công mà dễ dàng cả. 


Hãy học những gì mà các Chân sư đã nói, và đừng sợ nếu bạn không hiểu tại vì nó khó. Cũng như bạn sẽ bị sửng sốt nhiều, vì khi nghĩ tới ai thánh thiện ta hay nghĩ là họ mềm mỏng dịu hiền, chính điều ấy sẽ làm bạn kinh ngạc. Các Chân sư nghĩ gì nói đó bằng chữ rất, rất là rõ ràng. Nếu nghĩ là điều gì sai, ngài nói ngay như thế.


Các ngài gọi ông Hume bằng những chữ nặng lời. Các ngài thấy ông như ông thực sự là. Ông Hume muốn là người tốt nhưng đôi khi ông làm ngơ với khuyết điểm của mình. 


Các Chân sư làm gì? Các ngài thấy suốt con người của ông nhưng vẫn làm việc với ông và viết thư cho ông tháng này rồi tháng nọ. Các ngài không hề bỏ cuộc, bạn có để ý thấy chăng? Ta có khác gì so với cung cách ấy? 


Nếu thấy rõ một ai, thường là ta sẽ nói không còn dính dáng chi tới họ nữa, vậy mà Chân sư tiếp tục với lòng kiên nhẫn vô biên, và cuối cùng ông Hume làm chuyện đáng nói. Tuy ra khỏi hội, ông thành một trong những lãnh tụ của quốc hội Ấn. Đó là một phần của công việc mà các Chân sư muốn tiếp tục. Các ngài muốn Ấn Độ được tự do.


Nào, ta đừng để bị kinh ngạc về chuyện ấy, sao các Chân sư không thể là người thực tế được? Bạn có nghĩ các ngài nhìn chúng ta theo cách ta nghĩ về mình không? Đâu phải thế, đúng không? Không ai trong chúng ta có thể nhìn mình như ta thực sự là. Khi các ngài làm việc với chúng ta, và các ngài sẽ làm việc với chúng ta, các ngài sẽ hiểu trọn các sở trường và sở đoản của ta, và nếu ta nỗ lực cho cùng mục tiêu, ta sẽ có thể tạo sự giao tiếp ấy. Chuyện tuyệt vời nằm ngay trong công việc.


II. 


Giờ nói về đường Đạo, đường Đạo là chuyện thực và nó mở ra cho tất cả mọi người. Nhưng tôi nghĩ điều ta thiếu không phải là đức hạnh, mà là lòng khiêm tốn. 


Tôi xin giải thích. Một trong những nguy hiểm là nhiều người để tâm quá nhiều tới việc họ có kinh nghiệm thực, có là bậc đạo đồ initiate, là đệ tử chela, hay là gì khác nữa hay chăng. Không một điều nào trong số này đáng kể cả. Chuyện thực là liên hệ của ta với hiểu biết của mình, và nhiều người muốn những chuyện trên vì họ muốn mình là gì khác tốt hơn.


Ấy là lỗi lầm rất thông thường của con người. Nó rất nguy hiểm vì thực tế là ta không hề ý thức điều ấy. Nếu bạn nghĩ mãi về nó theo ý cá nhân như vầy, bạn mất đi phần bản chất và cuối cùng mất Chân sư. 


Điều tuyệt vời xảy ra khi bạn tham thiền về Chân sư là khả năng không sợ khi phải hành động, làm, xử sự, và kinh nghiệm. Nghĩ coi bạn có thể trợ giúp cách nào, nếu bạn khăng khăng theo một ý, nếu có thái độ cứng ngắc, nếu luôn luôn muốn duy trì một tình trạng thì từ từ chậm rãi bạn đóng lại cánh cửa giữa chính mình và các Chân sư.


Các ngài hằng làm việc cho tương lai, và hướng về việc có thay đổi tinh thần. Điều quan trọng cho bạn là đừng để mình ‘đóng cửa’ lại. Luôn luôn sống theo điều bạn hiểu để thành điều cao nhất mà bạn đặt ra cho mình, nếu muốn gặp Chân sư. Hãy thành thật với chính mình.


Tham thiền có thể có giá trị cao nhưng bạn không thể nói, ‘Tôi nâng trí lên Buddhi hay lên Atma’ và tới đó’. Ấy hoàn toàn là chuyện vớ vẩn. Chỉ nói không mà thôi thì không đưa bạn tới đó được, mà nó là có kinh nghiệm, sống lời đó mới mang lại thành quả, và khi sự việc thành điều thật cho bạn khi ấy bạn thật sự đạt tới điều chi đó. Ấy là đường Đạo.


Đường Đạo là cho ai thực tâm muốn học hỏi. Bạn không bắt buộc phải hiểu hết từng chữ trong các thư khó hiểu của Chân sư. Nhưng bạn không thể hiểu các ngài nếu bạn không chịu nỗ lực. 


Có thể đọc lần đầu bạn không hiểu thư muốn nói gì. Sự hiểu biết sẽ tới từng chút một nếu bạn thực tâm muốn làm việc với Chân sư. Chuyện quan trọng là có gắng sức, cố công nâng cái trí của mình lên mức cái trí của ngài. 


Lúc bạn nói, ‘Oh, chuyện khó quá,’ thì bạn tự đánh bại mình. Đó là sự khác biệt giữa Hội Theosophy trong những ngày đầu mở đường và hội viên ngày nay. Trong những ngày đầu tiên phong, có việc khó khăn là chuyện vui cho họ. Đừng nói rằng nay vì bạn không hiểu thư nói gì mà không tiếp tục học. Đừng dậm chân tại chỗ. Ta chớ đứng một chỗ vì các Chân sư phải làm việc qua chúng ta và Hội.


Ta không nên nói về những điều mà ta không hiểu, mà hãy nói đôi chút về điều mà ta hiểu. Hãy ráng hiểu nhờ kinh nghiệm, nhờ cá tính, nhờ cách sống của bạn, rồi khi có cảm biết là Chân sư là như thế nào, đừng nói về nó mà hãy sống nó. 


Hãy hiến dâng từ tâm mình cho đến thân xác cho ý tưởng là phụng sự Chân sư, cố công làm việc của các ngài qua Hội Theosophy. Rồi, từ lúc này tới lúc kia khi cơ hội tới hãy nắm lấy. Đừng có quá nhiều định kiến mà hãy có tâm hồn cởi mở, để khi có bất cứ gì đến với bạn, bất cứ loại công việc gì, bạn có thể làm nó theo cách đúng đắn.


Bạn có thể ý thức nó có thể là kinh nghiệm quan trọng, và nếu bạn cố gắng để hiểu đôi điều về các Chân sư, khi ấy bạn sẽ trở thành người mà tôi gọi là người TTH. Có cả mấy ngàn người là hội viên hội TTH, nhưng có rất ít kẻ là người TTH. 


Ký tên vô giấy và nói bạn muốn gia nhập hội TTH và tin vào tình huynh đệ đại đồng là điều thật dễ dàng, nhưng tình huynh đệ là điều mà ta phải sống nó thay vì nói về nó. 


Hội TTH (đích thực) là nơi thử thách cho tình huynh đệ. Nó là nơi cho ta tăng trưởng, cho ta hiểu rằng ta phải không theo tín điều, cho ta học cách sống thuận hòa với hội viên khác dù có thích nhau hay không.


Bạn phải sẵn sàng chấp nhận việc có dị biệt về ý kiến, bạn phải sẵn lòng chịu thử thách chua cay, ngay cả khi bị gọi là thế này thế nọ. Bạn là người chịu thử thách. Nếu rời hội vì ai đó nói điều không hay về bạn, là bạn không qua được thử thách về tình huynh đệ. 


Hãy nhớ là hội Theosophy mở cửa đón tất cả mọi người, nó không phải là một hội kín. Ai theo sát triết lý, ai theo sát các Chân sư mà không màng chuyện cá nhân, là kẻ sẽ có được nhận thức. Họ là ‘chiến mã’ của hội, và đó là lời ngợi khen. Họ là những người vượt qua mặt cá nhân.


Nếu bạn có thể nghĩ đến những cá nhân mà bạn gặp phải như là thử thách chua cay cho cá tính của mình, cho triết lý TTH của mình, thì bạn có quan điểm khác hẳn. Khi có việc gì xảy ra, hãy tự hỏi mình sẽ đối phó ra sao, và tự hỏi mình có điều chi cần sửa đổi. 


Các Chân sư thử thách ta trăm ngàn lần về mặt ấy. Nếu không có hội TTH thì sẽ không có thử thách này, và có lẽ chuyện dễ hơn cho mỗi chúng ta, nhưng ta sẽ không có cơ hội tăng trưởng nhanh như vậy. Các chi bộ của hội TTH đặc biệt đáng nói về điểm chúng là nơi để thử thách.


Nếu người ta là người TTH theo đúng nghĩa thì họ không cần phải nói. Họ mang ý đó trong tâm. Kẻ khác có thể nhận biết rằng bạn là cá nhân có một triết lý sống. Nếu mang trong tâm điều chi làm bạn thành người tuyệt đối vững vàng do có triết lý sống, và có lòng khoan dung lớn lao, và tận tâm phụng sự triết lý của Chân sư, là bạn bắt đầu phụng sự các ngài. Khi ấy chi bộ mà bạn làm việc trong đó sẽ có chút tính chất của các Chân sư. Và rồi bạn có kinh nghiệm về các ngài.


III. 


Tôi ráng cách nào đây để cho ra đôi chút kinh nghiệm về Chân sư? 


Tôi sẽ cố gắng có mô tả ngắn về đặc tính của hai Chân sư mà ta luôn nói về, là Chân sư K.H. và Chân sư Morya. Như đã nói ở trên, không có lúc nào trong đời mà Chân sư không thật đối với tôi, và tôi sẽ ráng mô tả các ngài theo cái nhìn của mình.


Chân sư Morya là Thầy của HPB. Nếu có đọc quyển Mahatma Letters, bạn có được cảm tưởng phần nào về cá tính của ngài. Như bạn biết, ngài là người Ấn Độ; ngài rất cao lớn và thuộc hoàng tộc. Tôi nghĩ nếu đứng trước mặt ngài, bạn sẽ có cảm giác là đứng trước một ai đúng là quân vương. Cảm giác ấy đúng thật vì ngài cho cảm nhận chân thật tuyệt đối. 


Chữ nghe có vẻ lạ. Chân thật tuyệt đối nghĩa là gì. Tất cả chúng ta đều có mặt nạ, tất cả chúng ta đều nghĩ chuyện nhỏ nhặt không thật. Nếu bạn đứng trước mặt Chân sư, trong phút chốc tất cả những điều ấy bị quét sạch. Tất cả những gì nhỏ nhặt mà không đúng thật, không phải là phần mà ta xem là thuộc về con người mình, bị loại hẳn.


Nếu đứng trước mặt Chân sư, bạn gặp một người hoàn toàn ở ngay tâm bản thể của họ, tuyệt đối thật, làm bạn có cảm tưởng rơi trở vào chính trung tâm của mình. Bạn còn có cảm nhận về sự chân thật và vĩ đại của mình. Trước mặt ngài, bạn không thể nghĩ điều chi trẻ con hay tệ hại. Tự nhiên là cũng có cảm giác lớn lao về sức mạnh, và về một sức mạnh cho phép bạn thực hiện điều chi đã bắt đầu tới cuối. Nó là sức mạnh không có tận cùng.


Trong thư của các Chân sư bạn để ý là ngài rất tiết kiệm lời nói. Cũng có tiết kiệm về tình cảm, cử động và mọi chuyện. Ngay cả cái nhìn của ngài. Ngài có gương mặt hết sức thanh cao, nhưng bất cứ điều chi cảm xúc trong lòng thì không lộ ra trên mặt. Đó là gương mặt điềm tĩnh. Bắp thịt trên mặt thay đổi rất ít, vì ấy là gương mặt của người hoàn toàn là một với chính mình, là người có sự hòa hợp, tư cách, sức mạnh cứng chắc như được tạc vào đá hoa cương.


Tôi nghĩ đó là mô tả ngắn ngủi về cá nhân Chân sư Morya.


Chân sư K.H. hoàn toàn khác về nhiều mặt. Cá tính hai ngài khác xa nhau rất nhiều, mà hai ngài có lòng tận tụy lớn lao với nhau, như bạn thấy trong thư. Hai ngài là từng làm việc với nhau trong rất nhiều kiếp, và xem cách hai Vị làm việc chung với nhau là điều thực đẹp đẽ. 


Chân sư K.H. cao nhưng không cao bằng Chân sư Morya. Ngài có gương mặt rất thanh nhã, điều gì ngài cảm thấy sẽ lộ ra trên mặt. Tranh vẽ không sao cho thấy đúng thực con người của ngài, vì nét biểu lộ của ngài thay đổi từng lúc một.


Ngài viết tiếng Anh rất hay trong quyển Mahatma Letters to A.P. Sinnett và có cảm xúc tuyệt vời về nhạc và nghệ thuật. Tôi nghĩ điều mà Chân sư K.H. truyền đạt là cảm xúc về tình thương. 


Bạn có thể nghĩ là nếu đứng trước mặt ngài bạn sẽ cảm thấy rất nhỏ nhoi và e dè. Có lẽ Chân sư Morya cho bạn cảm tưởng đó một chút, nhưng Chân sư K.H. thì không. Bạn sẽ có cảm tưởng tâm thức mở lớn giống như với Chân sư Morya. Nhưng Chân sư K.H. ngài có tài tuyệt diệu là làm người ta cảm thấy như đã biết ngài cả đời rồi. 


Không phải đó là khả năng thương yêu lớn lao sao? Ngài là người thể hiện tình thương nhiều đến mức làm tôi biểu lộ tất cả tình thương mà tôi có thể có được, thành ra ai đến với ngài cảm thấy tình thương trong lòng tuôn ra ngoài. Cảm xúc tuôn tràn tình thương ra ngoài ấy chót hết là cảm xúc rằng bạn là một thực thể hoàn thiện.


Chúng ta có thể nghĩ về các Chân sư, và ta có thể tham thiền về các ngài. Thực vậy ta nên nghĩ tới các ngài. 


Khi gặp cảnh khó xử, ta không nhất thiết hỏi xin được trợ giúp, nhưng nếu bạn dâng hiến đời mình cho Chân sư và cho Hội và công cuộc (nhớ điều ấy trước), thì khi gặp chuyện khó xử hãy nghĩ là mình ở trong hào quang của ngài. Nói cho cùng thì Chân sư có hào quang rất rộng. Nếu có thể tạo được cảm giác là ở trong hào quang của Chân sư, thì bạn có thể cảm biết là phản ứng của Chân sư sẽ ra sao. 


Ta có thể tiếp xúc Chân sư, nhưng không phải để hỏi xin được giúp đỡ. Đây là điều mà tất cả chúng ta có thể thử làm.


Hãy nghĩ tới Chân sư khi bạn cảm thấy rất bực bội về ai đó. Nếu có thể khiến tâm trí mình ‘en rapport’ tiếp xúc với tình thương hoàn toàn và sự hòa hợp ấy, bạn có thể có được đôi chút tình thương và sự hòa hợp trong lòng. 


Ngay cả khi Chân sư thấy cần phải xét đoán một ai, các ngài cũng nhìn thấy sự thật. Các ngài là người vô cùng thực tế, các ngài làm việc với con người và không phán xét họ theo nghĩa tuyệt đối, vì các ngài sẵn lòng làm việc với bất cứ ai. 


Khi bạn thương yêu ai đúng cách, bạn phải sẵn lòng để cho họ được hoàn toàn tự do. Điều ấy cũng áp dụng cho chi bộ. Ta hội họp cùng nhau, nhưng phải tạo một bầu không khí mà trong đó người ta có thể tăng trưởng và trong đó con người được tự do.


Nếu bạn nghĩ không có đủ sự thương yêu trong đời mình và trong sự biểu lộ của mình, thì hãy nghĩ đến Chân sư khi ở trong tình trạng khó xử. Nếu không biết điều mình sẽ làm là đúng hay sai thì hãy nghĩ tới Chân sư Morya, và tôi nghĩ bạn sẽ có được ấn tượng. 


Thường khi ta thấy khó mà biết điều chi là đúng, vì nhiều người trong chúng ta bị giằng co giữa cái tôi và chân ngã liên hệ. Nếu có tiếp xúc với Chân sư, tôi nghĩ bạn sẽ cảm biết điều chi là phải. Ta hoàn toàn đúng khi nghĩ về Chân sư như vậy.


Hãy nghĩ tới ngài như là người đồng sự, nghĩ rằng chuyện tuyệt vời ra sao nếu ta có thể dự vào công cuộc với người mà ta có thể học để hiểu, nếu ta học hỏi và làm việc. 


Tôi nhấn mạnh về chuyện làm việc. Tôi nghĩ chỉ do học hỏi và làm việc mà ta đến gần được các Chân sư. Nếu dự vào công việc của các ngài thì ta ở ngay trong luồng tư tưởng của ngài. Việc ấy sẽ tự khắc hóa thực hơn từ phút này sang phút kia. Ấy là tại sao tôi nghĩ ta phải học tập, làm việc, biết hướng đi, và có sự tin chắc. Cho người TTH và hội TTH, điều quan trọng nhất thì đương nhiên là Theosophy, triết lý và sự thực hiện công cuộc.


Nếu bạn đặt chuyện ấy là ưu tiên một trong đời thì tôi không thấy điều chi có thể làm bạn nao núng. Cá nhân không quan trọng bằng triết lý và việc làm nó thành một phần trong cuộc sống của bạn, một phần của bạn. Khi đó không ai có thể làm bạn nao núng. 


Từ từ, từng chút một, bạn có được lòng tin chắc thiết yếu đó, cái hiểu biết cốt lõi đó. Điều ấy làm tất cả chúng ta thành điều chi rất cần ngày nay, thành giống Chân sư một chút, thành người thật với chính mình, và cũng là người không sợ làm những chuyện hầu thực hiện công việc của Chân sư.

Im Lặng

 https://youtu.be/BhL5y6FpsYI











Wednesday, December 28, 2022

Đại Ngư Hải Đường

 


https://youtu.be/zoK1swTBKXc


Cha ơi! 

Nguyện kiếp sau con có một tương lai tươi sáng hơn, được ra khỏi nấm mộ kim tự tháp này.


Con biết là tại con cả, tại con mọi đàng. Vì ngu nên mới cứ phải học đi học lại một bài học cũ.


Cha ơi! 

Cho con được làm con người soạn nhạc này để con được học bài học mới... Con thèm thuồng lắm rồi Cha ơi. 


Đi mòn con đường rồi mà vẫn chưa đến đích Cha ơi. Mà đích lại ở nơi bắt đầu Cha ơi ... hừ hừ hừ! Cha ơi, con mệt quá lắm, hết hơi rồi ạ. Cơn hen này chỉ Cha mới chữa được Cha ơi ... mà sao con ngu hoài cứ muốn tự chữa Cha ơi ... hừ hừ hừ! Con phó tình con trong tay Ngài.


Cha ơi,

Đừng cho con đi học nữa Cha ơi.

Cho con ở Nhà thôi Cha ơi.


Hừ hừ hừ

Con ốm yếu lắm rồi Cha ơi, 

Cha thương con đừng cho con học nữa.


Càng học càng ngu thôi mà Cha ơi ...


Hừ hừ hừ,

lại lên cơn hen Cha ơi,

Con yếu đừng cho ra Gió Cha ơi ! ...



https://youtu.be/t4799UBSvzY


https://youtu.be/H-pE-QlHBYE



https://youtu.be/y-eEWmYa3sQ

Bá Nha Tử Kỳ

Bá Nha và Tử Kỳ là đôi bạn tri âm thời Xuân Thu Chiến Quốc. Bá Nha làm quan, Tử Kỳ là tiều phu. Do đó, nơi bao lơn Tòa Thánh có đắp bức tranh Bá Nha – Tử Kỳ để tượng trưng TIỀU, một trong Tứ Dân Tứ Thú.


Bá Nha họ Du tên Thụy, người ở Sính Đô nước Sở (nay là phủ Kinh Châu, tỉnh Hồ Quảng). Tuy là người nước Sở, nhưng làm quan cho nước Tấn, chức Thượng Đại Phu.


Tử Kỳ, họ Chung tên Huy, nhà tại Tập Hiền Thôn, gần núi Mã Yên, ở cửa sông Hán Dương, là một danh sĩ ẩn dật, báo hiếu cha mẹ tuổi già nua, làm nghề đốn củi (Tiều).


Một hôm, Bá Nha phụng chỉ vua Tấn đi sứ qua Sính Đô nước Sở, vào triều kiến vua Sở, trình quốc thư và giải bày tình giao hiếu giữa hai nước, được vua Sở và quần thần thiết tiệc khoản đãi. Bá Nha nhơn dịp nầy đi thăm mộ phần tổ tiên, thăm họ hàng, xong vào từ biệt vua Sở trở về nước Tấn.


Khi thuyền trở về đến cửa sông Hán Dương, nhằm đêm Trung Thu, trăng sáng vằng vặc, phong cảnh hữu tình, Bá Nha cho lịnh cắm thuyền dưới chân núi Mã Yên để thưởng ngoạn. Cảm thấy hứng thú, muốn dạo chơi một vài khúc đàn, Bá Nha liền sai quân hầu lấy chiếc lư ra, đốt hương trầm xông cây dao cầm đặt trên án. Bá Nha trịnh trọng nâng đàn, so dây vặn trục, đặt hết tâm hồn đàn lên một khúc réo rắt âm thanh, quyện vào khói trầm, chưa dứt, bỗng đàn đứt dây.


Bá Nha giựt mình tự nghĩ, dây đàn bỗng đứt thế nầy ắt có người nghe lén tiếng đàn, bèn sai quân hầu lên bờ tìm xem có ai là người nghe đàn mà không lộ mặt. Quân hầu lãnh lịnh lên bờ thì bỗng có người từ trên bờ lên tiếng:


– Xin đại nhân chớ lấy làm lạ, tiểu dân là tiều phu kiếm củi về muộn, trộm nghe được khúc đàn tuyệt diệu của Ngài.


Bá Nha cười lớn bảo:

– Người tiều phu nào đó dám nói hai tiếng nghe đàn với ta, sao ngông cuồng thế?


– Đại nhân nói sai quá vậy. Há chẳng nghe: Thập thất chi ấp, tất hữu trung tín (Một ấp 10 nhà ắt có nhà trung tín). Nếu đại nhân khinh chỗ quê mùa không người biết nghe đàn, thì cũng không nên có người khảy lên khúc đàn tuyệt diệu.


Nghe đáp xong, Bá Nha hơi choáng váng, hối hận những lời vừa thốt ra, vội bước ra mũi thuyền, dịu giọng nói:

– Người quân tử ở trên bờ, nếu thực biết nghe đàn, biết vừa rồi ta khảy khúc gì không?


– Khúc đàn đại nhân vừa tấu đó là: Đức Khổng Tử khóc Nhan Hồi, phổ vào tiếng đàn, lời rằng:


Khá tiếc Nhan Hồi yểu mạng vong,
Dạy người tư tưởng tóc như sương.
Đàn, bầu, ngõ hẹp vui cùng đạo,

Đến cuối câu ba thì dây đàn đứt, còn lại câu bốn là:

Lưu mãi danh hiền với kỹ cương.


Bá Nha nghe xong mừng rỡ sai quân hầu bắc cầu lên bờ mời người quân tử xuống thuyền đàm đạo.


Người tiều phu ung dung xuống thuyền, chấp tay vái Bá Nha. Bá Nha vội đưa tay đáp lễ, nói:

– Xin quí hữu miễn lễ cho.


Rồi bắc ghế mời ngồi, phân ngôi chủ khách.


– Quí hữu biết nghe đàn, ắt biết ai chế ra đàn?


– Mong ơn Ngài hỏi tới, kẻ tiểu dân đâu chẳng dám nói hết cái biết của mình.


Khi xưa, vua Phục Hy thấy tinh hoa của năm vì sao rơi xuống cây ngô đồng, chim phượng hoàng liền đến đậu. Vua Phục Hy biết ngô đồng là gỗ quí, hấp thụ tinh hoa Trời Đất, có thể làm đồ nhã nhạc, liền sai người đốn cây ngô đồng xuống, cắt làm ba đoạn để phân Thiên, Địa, Nhơn.


Đoạn ngọn thì tiếng quá trong mà nhẹ, đoạn gốc thì tiếng quá đục mà nặng, duy đoạn giữa thì tiếng vừa trong vừa đục, có thể dùng được, liền đem ra giữa dòng sông nước chảy ngâm 72 ngày đêm, rồi lấy lên phơi khô, chọn ngày tốt, thợ khéo Lưu Tử Kỳ chế làm nhạc khí, bắt chước nhạc Cung Dao Trì, đặt tên là Dao cầm.


Dao cầm nầy dài 3 thước 6 tấc, án theo 360 độ chu Thiên , phía trước rộng 8 tấc án theo Bát tiết, sau rộng 4 tấc án theo Tứ Tượng, dầy 2 tấc án theo Lưỡng Nghi, đầu như Kim đồng, lưng như Ngọc Nữ, trên chạm Long Phụng, gắn phím vàng trục ngọc.


Đàn ấy có 12 phím tượng trưng 12 tháng, lại thêm một phím giữa tượng trưng tháng nhuận, trên mắc 5 dây, ngoài tượng Ngũ Hành, trong tượng Ngũ Âm: Cung, Thương, Giốc, Chủy, Vũ.


Vua Thuấn khảy Dao cầm, ca bài Nam phong, thiên hạ đại trị.


Vua Văn vương bị Trụ vương giam cầm nơi Dũ Lý, con trưởng Bá Ấp Khảo thương nhớ không nguôi, nên thêm một dây nữa gọi là dây Văn (Văn huyền), đàn nghe thêm ai oán.


Võ vương đem quân phạt Trụ, thêm vào Dao cầm một dây phấn khích gọi là dây Võ (Võ huyền).


Như thế, Dao cầm lúc đầu có 5 dây, sau thêm 2 dây Văn và Võ nữa thành 7 dây, gọi là Thất huyền cầm.


Đàn ấy có Sáu kỵ, Bảy không, Tám tuyệt, kể ra:


* Sáu Kỵ là: Rét lớn, nắng lớn, gió lớn, mưa lớn, sét lớn, tuyết rơi nhiều.


* Bảy Không là: Nghe tiếng bi ai và đám tang thì không đàn, lòng nhiễu loạn thì không đàn, việc bận rộn thì không đàn, thân thể không sạch thì không đàn, y quan không tề chỉnh thì không đàn, không đốt lò hương thì không đàn, không gặp tri âm thì không đàn.


* Tám Tuyệt là: Thanh cao, kỳ diệu, u uất, nhàn nhã, bi đát, hùng tráng, xa vời, dằng dặc.


Đàn ấy đạt đến tận thiện tận mỹ, hổ nghe không kêu, vượn nghe không hú, một thứ nhã nhạc tuyệt vời vậy.


Bá Nha nghe xong , kính phục bội phần, hỏi thêm:


– Quí hữu quả thấu triệt nhạc lý. Khi xưa, Đức Khổng Tử đang khảy đàn, Nhan Hồi từ ngoài bước vào, thoảng nghe tiếng đàn u trầm, nghi là có ý tham sát, lấy làm lạ, liền hỏi Đức Khổng Tử. Ngài đáp: Ta đang khảy đàn, bỗng thấy mèo bắt được chuột, liền khởi lên ý niệm tham sát mà hiện ra tơ đồng.


– Nhan Hồi đã nghe tiếng đàn mà biết lòng người khảy đàn. Nay Hạ quan khảy đàn, lòng tư lự điều gì, quí hữu có thể đoán biết chăng?


– Đại nhân thử dạo một khúc xem.


Bá Nha nối lại dây đàn, tập trung tinh thần đến chốn non cao, khảy lên một khúc. Tiều phu khen rằng:


– Đẹp thay vòi vọi kìa, chí tại non cao.


Bá Nha ngưng thần, ý tại lưu thủy, khảy lên một khúc nữa. Tiều phu lại khen rằng:


– Đẹp thay, mông mênh kìa, chí tại lưu thủy.


Bá Nha thấy tiều phu đã thấy rõ lòng mình qua tiếng đàn, lấy làm kính phục, liền gác đàn, sai bày tiệc rượu, đối ẩm luận đàm. Hai người hỏi nhau tên họ, nguyên quán, nghề nghiệp.


Bá Nha lại sanh lòng cảm mến Tử Kỳ về sự hiếu với phụ mẫu, nên xin kết nghĩa anh em với Tử Kỳ, để không phụ cái nghĩa TRI ÂM mà suốt đời Bá Nha chưa từng gặp.


Hai người đến trước bàn hương án lạy Trời Đất, rồi lạy nhau 8 lạy kết làm anh em. Tử Kỳ nhỏ hơn Bá Nha 10 tuổi nên làm em.


Hai anh em đối ẩm cùng nhau tâm sự mãi cho đến sáng mà không hay. Tử Kỳ vội đứng lên từ biệt.


Bá Nha bùi ngùi xúc động, hẹn ước Tử Kỳ, đúng ngày Trung Thu năm sau, hai anh em sẽ hội ngộ nhau tại ghềnh đá nầy. Bá Nha lấy ra hai đỉnh vàng, hai tay nâng lên nói:


– Đây là chút lễ, kính dâng bá phụ và bá mẫu. Tấm tình chí thành, em đừng từ chối.

Hai người từ biệt, lòng đầy lưu luyến.


Chẳng bao lâu, thuyền về tới bến. Bá Nha vào kinh đô tâu trình Tấn Vương các việc, được Tấn vương khen tặng.


***


Thời gian lặng lẽ trôi qua. . . Nhớ ngày ước hẹn với Tử Kỳ, Bá Nha tâu xin vua Tấn cho nghỉ phép về thăm quê nhà.


Bá Nha thu xếp hành trang đến núi Mã Yên kịp ngày Trung Thu ước hẹn. Kìa là núi Mã Yên mờ mờ sương lạnh, tịch mịch, không một bóng người.


Bá Nha nghĩ thầm, năm trước nhờ tiếng đàn mà gặp được tri âm, đêm nay ta phải đàn một khúc để gọi Tử Kỳ. Rồi sai đốt hương trầm, đem Dao cầm ra so dây. Bá Nha đặt hết lòng nhớ nhung của mình vào tiếng đàn réo rắt, bỗng trong tiếng đàn lại có hơi ai oán nổi lên. Bá Nha dừng tay suy nghĩ: Cung Thương có hơi ai oán thảm thê, ắt Tử Kỳ gặp nạn lớn. Sáng mai ta phải lên bờ dọ hỏi tin tức về Tử Kỳ.


Đêm ấy, Bá Nha hồi hộp lo âu, trằn trọc suốt đêm, chờ cho mau sáng, truyền quân hầu mang theo Dao cầm, 10 đỉnh vàng, vội vã lên bờ, tiến vào núi Mã Yên. Khi qua cửa núi, gặp ngã ba đường, chưa biết nên đi đường nào, đành ngồi chờ người trong xóm đi ra hỏi thăm. Không bao lâu, gặp một lão trượng tay chống gậy, tay xách giỏ, từ từ đi lại. Bá Nha thi lễ, hỏi:


– Xin lão trượng chỉ giùm đường đi Tập Hiền Thôn?


– Thượng quan muốn tìm nhà ai?


– Nhà của Chung Tử Kỳ.


Vừa nghe 3 tiếng Chung Tử Kỳ, lão trượng nhòa lệ, nói:


– Chung Tử Kỳ là con của lão. Ngày Trung thu năm ngoái, nó đi đốn củi về muộn, gặp quan Đại Phu là Du Bá Nha kết bạn tri âm. Khi chia tay, Bá Nha tặng hai đỉnh vàng, nó dùng tiền nầy mua sách học thêm, ngày đi đốn củi, tối về học sách, mãi như vậy, sức khỏe hao mòn, sanh bệnh rồi mất.


Bá Nha nghe vậy thì khóc nức nở, thương cảm vô cùng. Lão trượng ngạc nhiên hỏi quân hầu thì biết thượng quan đây chính là Du Bá Nha, bạn tri âm của Chung Tử Kỳ. Chung lão biết vậy lại càng bi thảm hơn nữa nói:


– Mong ơn thượng quan không chê con lão hàn tiện. Lúc mất, nó dặn rằng: Con lúc sống không vẹn niềm hiếu dưỡng, lúc chết không vẹn nghĩa tri giao, xin cha chôn con nơi cửa núi Mã Yên để thực hiện lời ước hẹn với quan Đại Phu Bá Nha.

Lão phu y lời con trối lại. Con đường mà thượng quan vừa đi qua, bên phải có một nấm mộ mới, đó là mộ của Tử Kỳ. Hôm nay là đúng 100 ngày, lão mang vàng hương ra cúng mộ.


– Việc đời biến đổi, may rủi không lường. Xin Lão bá đưa đến mộ Tử Kỳ, bốn lạy cho vẹn tình tri kỷ.


Khi đến phần mộ, Bá Nha sửa lại áo mũ, sụp lạy khóc rằng:


– Hiền đệ ơi, lúc sống thông minh anh tuấn tuyệt vời, nay chết, khí thiêng còn phảng phất, xin chứng giám cho ngu huynh một lạy ngàn thu vĩnh biệt.


Lạy xong, Bá Nha phục bên mồ, khóc nức nở. Sau đó, Bá Nha gọi mang Dao cầm tới, đặt lên phiến đá trước mộ, ngồi xếp bằng trên mặt đất một cách nghiêm trang, so dây tấu lên một khúc nhạc thiên thu, tiễn người tri âm tài hoa yểu mạng.


Bỗng thấy gió rừng thổi mạnh, mây đen kéo lại, u ám bầu trời, hồi lâu mới tan. Có lẽ đó là anh hồn của Tử Kỳ hiển linh chứng giám. Tấu khúc nhạc xong, Bá Nha phổ lời ai oán, thay lời ai điếu, vĩnh biệt bạn tri âm, rồi đến vái cây Dao cầm một vái, tay nâng đàn lên cao, đập mạnh vào phiến đá trước mộ Tử Kỳ, đàn vỡ tan nát, trục ngọc phím vàng rơi lả tả.


Chung lão không kịp ngăn, sợ hãi nói rằng:


– Sao đại quan hủy cây đàn quí giá nầy?

Bá Nha liền ngâm 4 câu thơ thay câu trả lời:

Dao cầm đập nát đau lòng phượng,
Đàn vắng Tử Kỳ, đàn với ai?
Gió Xuân khắp mặt bao bè bạn,
Muốn kiếm tri âm, ôi khó thay!


– Nguyên do là vậy. Âm nhạc là một bộ môn nghệ thuật cao siêu. Nhân đây, xin mời thượng quan đến nhà lão để lão cảm tạ tấm lòng tốt đẹp của thuợng quan đối với con lão.


– Cháu quá bi thương, không dám theo bá phụ về, e gợi thêm nỗi đau lòng. Nay nghĩa đệ vắn số mất rồi, cháu kính dâng lên bá phụ và bá mẫu 10 đỉnh vàng, một nửa dùng mua mấy mẫu ruộng làm Xuân Thu tế tự cho Tử Kỳ, một nửa xin để phụng dưỡng bá phụ và bá mẫu trong tuổi già. Chừng cháu trở về triều, dâng biểu lên vua xin cáo quan, cháu xin đến rước bá phụ, bá mẫu đến an hưởng tuổi già. Nói xong, Bá Nha lấy vàng dâng lên, rồi khóc lạy mộ Tử Kỳ một lần nữa, mới trở về thuyền.


Chung lão cảm động không cùng, nghẹn ngào đứng lặng nhìn theo bóng Bá Nha cho đến khi khuất bóng.


 https://www.nguyenthuychonnhu.net/index.php/bdt/1395-lytbbgbnvtk-dt