https://phatgiao.org.vn/amp/cuoc-doi-thanh-tang-a-nan-a-sau-khi-uc-phat-nhap-niet-ban-ii-d38292.html
Cuộc đời Thánh tăng A Nan Ða sau khi Ðức Phật nhập Niết bàn (II)
Qua phần phụ hội, các Sa môn nghiêm tinh đã phàn nàn rằng: Thứ nhất có một khuyết điểm liên quan đến Tạng Luật. A Nan Ða không hỏi Phật điều luật nào là điều luật cần thiết. Khuyết điểm ấy bây giờ A Nan Ða nên sám hối! Và thứ hai, A Nan Ða, lúc Phật còn tại tại tiền, thường dậm lên y Phật, căng ra để vá.
A Nan Ða vui vẻ trả lời rằng: "Khuyết điểm thứ nhất, khi đức Thế Tôn lâm trọng bịnh, bần đạo tâm tư quá bối rối, nên quên mất. Thứ hai, lỗi lầm đứng lên y Phật vì sơ ý muốn tiện lợi để vá, chứ không vì bất kính đối với đức Phật. Tuy nhiên, nếu như chư đạo huynh đã nhắc nhở, thì bần Tăng xin sám hối.”
Rồi liên quan đến cách đối xử của A Nan Ða cuối cuộc lễ Hỏa táng của đức Phật, các vị Sa môn nghiêm túc nói tiếp: Thứ ba A Nan Ða khi ấy đã dành ưu tiên cho phái nữ đến lễ bái Xá Lợi Phật trước cả hàng cao đồ Phật giáo.
A Nan Ða liền vui vẻ trả lời: "Vì lúc ấy bần Tăng chưa đắc quả Giải thoát, và đối với một người còn phàm tính, khi những tín nữ muốn được chiêm bái Phật mà bắt họ chờ lâu, là một điều tội nghiệp. Giờ đây bần Tăng là bậc Giác ngộ vậy xin sẵn sàng nhận lỗi.”
Sau cùng, một số Thánh Tăng cũng không quên nhắc cho A Nan Ða nhớ rõ: hành động không thỉnh Phật “Khoan Nhập Niết bàn” của ông là một lỗi lầm vô cùng quan trọng.
A Nan Ða tự biết lỗi, nên thành thật tỏ bày rằng: "Chính Ma vương (Mara) đã ám ảnh ông, khiến cho tâm trí tăm tối. Chứ trên thực tế ông mới là người đệ tử sợ Phật sớm nhập Niết bàn nhiều hơn ai hết.”
Cử chỉ của A Nan Ða đối với những người phê bình ấy, quả thật đáng kính trọng. Ông đã phục tùng trước những sự phán quyết của chư Thánh Tăng, mà không một mảy may bất mãn. Dù trong thâm tâm, ông tự biết rằng: Những lỗi lầm do vô tình phạm phải thì luôn luôn đáng tha thứ.
Sau đó, A Nan Ða thuật tiếp, đến một di chúc khác mà đức Phật đã dạy, ngay trước khi Ngài nhập Niết bàn. Di huấn này có liên quan đến thẩm quyền của Giáo hội về việc trừng phạt Tỳ kheo Channa, một người đã bất tuân nghiêm giáo của đức Bổn sư.
Nghe A Nan Ða trình bày xong, đại hội đồng Thánh Tăng liền yêu cầu A Nan Ða đích thân áp chuyển Di giáo lệnh ấy đến Channa. A Nan Ða thực thà nói rằng "Ông không thể một mình làm được công tác này, vì Channa là một người cộc cằn và vô kỷ luật!”
Ðại hội đồng thanh ủy nhiệm cho A Nan Ða dẫn theo một số Tỳ kheo để áp đặt giáo lệnh Phật đến Tỳ kheo Channa.
Thế là A Nan Ða vâng lời, dẫn một đoàn Tỳ kheo tăng, lên đường đi Kosambi, nơi Channa ẩn ngụ, để công bố giáo lệnh cuối cùng của đức Phật. Giáo lệnh ấy ấn định rằng: "Nếu Tỳ kheo Channa tiếp tục chống lại Giáo hội, thì ông sẽ bị khai trừ ra khỏi Phật giáo.” (Lời thêm của dịch giả: Theo nguyên văn trong kinh Ðại Niết bàn, thì Tỳ kheo bất tuân Phật huấn sẽ bị "khai tử" khỏi Giáo hội. Tức là xem như đương sự đã "chết" rồi, không còn kể trên cộng đồng Tăng chúng nữa).
Sự trừng phạt này, đức Phật lúc sinh tiền cũng đã từng giải rõ: Ngài lấy thí dụ như một người tập ngựa kiên nhẫn và đầy kinh nghiệm, nhưng không huấn luyện nổi một con ngựa. Cuối cùng người tập ngựa phải đem nó bán vào lò sát sinh, vì giữ nó không lợi ích chi cả. Một con ngựa mà không chịu kéo xe, không biết kéo cày, không muốn mang bất cứ cái gì trên lưng hết, thì chỉ có lò sát sinh chờ đợi nó. Tương tự như thế: Nếu một bậc xuất gia mà không chịu thuần thục trong thiện pháp ví chẳng khác nào họ tự "khai tử" gạch tên họ, trong danh sách Tăng già Giáo hội.
Trường hợp một Tỳ kheo mất dạy như thế cứ ở lỳ trong cộng đồng Tăng lữ thì Phật ra lệnh cho chư đệ tử không được nói chuyện, không được tiếp xúc, không được khuyên nhủ hay dạy dỗ chi cả. Tất cả đồng tẩy chay kẻ cố ý sống vô kỷ luật ấy.
Channa nghe A Nan Ða thuật xong Di giáo của đức Phật thì kinh cảm và hoảng sợ vô cùng, ông kinh sợ đến phải ngất xỉu. Lúc ông tỉnh dậy, một niềm hổ thẹn sâu xa lại dày vò tâm tư ông. Nhất là ông xấu hổ vì sự trừng phạt ấy đã do chính đức Phật đã giao lại cho Giáo hội thi hành, trước khi Ngài Viên tịch.
Và cũng vì sự hổ thẹn sâu xa ấy, mà ông càng lúc càng thức tỉnh, đồng thời quyết lòng phục thiện. Người ta không ngờ sự cứng đầu của một Channa ương ngạnh, trước lời di huấn trừng phạt của đức Phật, đã nhường chỗ cho một tinh thần phục thiện, mạnh mẽ đến mức, kể từ đó ông chỉ biết chăm lo tu hành, để chẳng bao lâu, ông đã đắc quả A la hán.
Bởi thế sự trừng phạt cuối cùng của đức Phật, tự nó đã chứng tỏ rằng: Vào phút chót, trước khi nhập Niết bàn, đức Phật đã để lại di huấn tối hậu, có thể chuyển hóa nổi một âm hồn si mê, tăm tối, mà ít ai ngờ được. Từ đó, trong Phật giáo, chỉ có một Channa Thánh Tăng, rất thanh tịnh, lúc nào cũng sống với sự an lạc, chứ không còn một Tỳ kheo tên Channa ngoan cố nữa!
Sau khi quả Thánh đã đạt rồi, một hôm Sa môn Channa đến yêu cầu A Nan Ða triệu tập hội đồng Giáo hội để ông sám hối và xin A Nan Ða hủy bỏ lệnh trừng phạt. A Nan Ða liền thân thiện trả lời rằng: "Tất cả Tăng chúng đều hay tin sư đệ đắc quả Bất lai rồi. Sư đệ chỉ cần đến lễ bái trước Xá Lợi của Bổn sư, hầu tăng lên phúc đức. Có lệnh trừng phạt tự nó đã hết hiệu lực kể từ khi hiền đệ chứng quả Giải thoát.”
Và câu chuyện của Channa đã kết thúc một cách toàn thiện như thế.
Kế đến, là thời gian hậu Phật bắt đầu: Các thứ bậc lãnh đạo trong Giáo hội Tăng già tự nhiên được hình thành như sau:
- Trưởng lão Ðại Ca Diếp (Mahà Kassapa) là vị thượng thủ cao nhất, lớn tuổi nhất và đầy đức hạnh nhất được tín nhiệm vào vai trò lãnh đạo toàn thể Giáo hội. Chúng ta có thể gọi Ngài là vị Tăng thống đầu tiên trong Phật giáo. Còn đức Phật là bậc Giáo chủ, sáng lập ra Phật giáo. Xin chớ lầm lẫn.
Bởi thế những kẻ thiện tâm sau này, khi muốn nhập đạo Phật giáo, họ sẽ xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng (đại diện là Giáo hội), chứ họ không quy y với vị Tăng thống. Chính Ðại Ca Diếp khi nhận lãnh sự tối cao đã xác nhận điều đó.
Theo lời Phật dạy thì Trưởng lão Ðại Ca Diếp có đủ mười chi để đóng vai trò một bậc lãnh đạo cao cả. Mười chi ấy là:
1. Ðức hạnh giữ đúng Tạng Luật và hoàn toàn trong hành vi cử chỉ.
2. Học rộng và nhớ nhiều.
3. Ðầy đủ pháp tri túc.
4. Vững chắc và thuần phục trong bốn bậc Thiền.
5. Nhiều khả năng phi thường đối với cõi người và cõi trời.
6. Ðắc Thiên nhĩ thông (nghe xa vạn dặm)
7. Ðắc Tha Tâm thông (biết chuyện kẻ khác đang suy nghĩ)
8. Ðắc Túc mạng thông (biết quá khứ, vị lai)
9. Ðắc Thiên nhãn thông (thấy xa vạn dặm)
10. Tâm không còn tham, sân, si, phiền não nữa. Trưởng lão Ðại Ca Diếp quả là biểu tượng xứng đáng của một đại tông đồ hộ pháp vậy.
No comments:
Post a Comment