Sunday, December 31, 2023

C79: Thần Lôi Sét Đánh


Không biết bao nhiêu mùa trăng đã qua, tròn lại khuyết, những vòng quay Tuế Nguyệt chẳng ngưng nghỉ bao giờ. Công việc của Đấng Vô Cùng phải chăng là như thế? 


Ấy là đêm trăng đông chí, khi đất trời băng giá bao phủ. Hắn mình trần ngồi trong làn sương mờ ảo dưới ánh trăng khuya. Đôi mắt như cười như khóc, như thể nhìn thấu mọi chuyện trong trời đất này...


Duy chỉ có một chuyện hắn vẫn chưa thể thấu, quân tử và tiểu nhân chẳng thể chung đường, rốt cục hắn là tiểu nhân hay quân tử đây? 


Từ khi du nhập hồng trần hắn đã kết giao vô số hạng tiểu nhân, gần bùn thì đen chẳng thể chối cãi. Tuy nhiên hắn vẫn cứ cho rằng những việc hắn lén lút làm khi khuất tất chẳng có gì là tiểu nhân cả. Hắn cho rằng hắn đang làm một đại sự mà đất trời giao phó.


Đợi tới khi hắn ra khỏi được hang động này sẽ tiếp tục hành sự. A Đường vốn cứng đầu cố chấp đến độ ấy. Dù đã lường trước kết cục của chính mình, có thể sẽ phải “hình thần toàn diệt”, hắn quyết tâm sẽ đi đến cùng đường tuyệt lộ.


Vậy là ngay khi kết giới lỏng nhất trong hang động vừa mở, hắn đã chờ đợi giây phút đó không biết bao lâu rồi. Thời cơ đến, hắn lao ra khỏi hang bằng một khẩu quyết dịch chuyển tử sinh nào đó, là “diệu pháp liên hoa” phổ thông nhất mà tiên dược thường dùng. May mắn sao trong hồ nước có đúng một bông sen vừa nở. Lại đúng lúc thiên thời địa lợi ngàn năm có một, huyết phù chú chỉ có thể giải bằng cái chết, song tiên nhân chẳng thể chết nên phải mượn đóa hoa này.


Ngay khi hắn vừa ra khỏi hang, mặt trời vừa chiếu rạng. Một luồng sinh khí bùng nổ khiến lồng ngực hắn choáng ngợp đau đớn. Hắn cất lên mấy tiếng vu vơ rồi ngất đi trong ánh dương ấm áp muôn đời.


Khi tỉnh lại, không ngờ đã bị bắt ra pháp trường xử tội. Một loạt tội danh được hội đồng thiên giới nêu lên với những chứng cớ không thể chối cãi. Hắn cũng không buồn cãi nửa lời. Cứ thế gật đầu chấp nhận bản án 81 lần   Thần Lôi Sét Đánh, mất hết tiên thân, tiên lực và ký ức, đày đến Man Hoang Chi Địa và Vô Cực Chi Không...


Hắn nghe mà như không nghe, chỉ mỉm cười nghĩ về những điều hắn nghĩ, như một cách thôi miên chính mình. Mãi đến khi hành hình, hắn mới bừng tỉnh vì đau đớn. 


Ở hạ giới năm ấy có nghe những tiếng sét nổ đinh tai nhức óc suốt trong đêm giao thừa. Có kẻ nào rảnh rỗi mà đếm xem bao nhiêu lần, thì cũng mỏi quá vì nhàm tai buồn tẻ. 


Trong lúc còn tỉnh táo, A Đường chợt bừng ngộ trong đầu. Chắc chắn một điều là Thiên Đế đã chịu thay hắn 41 tia sét. Bởi vì không lâu trước khi ra khỏi hang, hắn đã từng rảnh rỗi ngồi đếm từng tiếng sét nổ run người. Vừa đếm vừa tự hỏi vì sao bỗng nhiên có dị tượng này?


...


Ở hạ giới có tiếng sét ái tình còn thiên giới, mỗi tiếng sét là một bản tình ca giao hưởng vang khắp các tầng trời, không bao giờ ngẫu nghiên mà sét nổ, càng hiếm khi chỉ nổ vì một ai.


Đặc ân ấy - 81 lần sét đánh - lại đến với hắn, chỉ riêng điều đó cũng khiến hắn thầm vinh hạnh và lấy làm thỏa mãn một đời quy tiên. 


Hắn không biết trong lúc hắn thân tàn ma dại, cháy đen thùi lụi giữa những lần sét nổ vang trời, Ma Quân đã đích thân dẫn quân lên Thiên giới gây chiến, cốt là để cứu hắn đưa đi. Tiên Ma đại chiến đồng lúc Thần Lôi vẫn thực thi nhiệm vụ.


Rốt cục Ma Quân thua cuộc, tháo chạy còn mang theo một sợi tóc cháy quăn queo của hắn. Ma Quân quơ lấy cái xác tiên bất tỉnh định đem theo nhưng chỉ với được một sợi tóc thì tiên thân đã trực tan rã. Hắn cuống cuồng sợ hãi buông tay, bởi biết rằng một khi đem tiên thân về ma giới, ắt hồn kia sẽ hình thần toàn diệt. 


A Đường tỉnh lại sau bao lâu không rõ, chỉ thấy xung quanh hoang vu trống trải, thi thoảng có những con thú hoang làm bạn. Những loài thú lớn ăn thịt thú bé, như một quy luật sống tất yếu có từ thời thượng cổ. Hắn thương sót những con vật nhỏ đến nỗi muốn lấy mạng mình thế thay cho chúng, nhưng khổ nỗi vô minh như thú vật cũng biết lựa chọn thức ăn làm mồi. Thịt A Đường lạ và không thơm, có vẻ thiu thiu độc hại, khí tức toả ra rất ngợp thở chẳng biết là thể loại tiên ma quỷ quái gì, âm dương hỗn độn khí như vậy quả thực không ăn được. Vậy là hắn cứ thế lang thang nơi Man Hoang Chi Địa.


Ngẫm nghĩ về sự khác biệt giữa thú vật và con người. 


Hoang dã thay là những tư lòng tục luỵ, những nỗi niềm lo âu ...


Sợ hãi thay là những truy đuổi chộp bắt của nhu cầu ăn uống ...


Tàn nhẫn thay là những thờ ơ, nghiễm nhiên, mặc niệm, ...


Cứ thế hắn chìm trong hoang vu, chẳng biết sự tình ở hạ giới ra sao, có nơi thờ cúng sợi tóc xá lợi nào? Nghề nghiệp chỉ là hot nhất? 


Chẳng biết nghề làm “Phật” là dễ ăn và được trọng vọng. Nên thiên hạ ai cũng niệm Phật, học để thành Phật. 


Phật được tôn kính quá đỗi lắm lắm, đến cả sợi tóc của Phật cũng được nâng niu chiêm bái. Cũng vì duyên do có kẻ khi xưa hầu cận hàng ngày chải đầu vấn tóc cho Phật. Quen rồi thành thói cho nên khi Phật qua đời vẫn còn lưu luyến ái mộ mà trộm giữ cất làm “của riêng” cái xá lợi tóc đó thôi. Một sợi hay vài sợi thì ai biết đấy là đâu ...


Ai bảo Phật không cạo đầu nhẵn thín đi cho rồi, trong khi bắt tất cả phải cạo ?! ...


Đúng sai, sai đúng

Quân tử tiểu nhân, tiểu nhân quân tử


Biết đâu đến một lúc cũng có thể cùng đường...





Sunday, December 3, 2023

C78: Thế Giới Loài Người

Chương 78: Thế giới loài người

Khi còn ở hạ giới, A Đường từng nuôi hai con dê con màu trắng. Hai con dê non mới sinh được bảy ngày tuổi. Con thứ nhất nuôi được hai ngày, đang khỏe mạnh thì hắn làm chết. Vì tưởng nó ốm, hắn cho thuốc quá liều, chữa trị sai cách, cuối cùng chẳng may khiến nước vào phổi làm ngạt thở tức thì. Hắn hối hận vô cùng rất lâu sau đó, hàng đêm đều hình dung lại những sai lầm của mình đã tước đi một sinh mạng nhỏ.

Con thứ hai bắt cùng một lúc với con kia, nuôi được hơn một tháng thì chết cũng vì lỗi sai của người nuôi. Dê non cho bú bình nhân tạo, vô số điều trái với tự nhiên. Dê con thì bú sữa dê mẹ, bú nhiều lần trong ngày, mỗi lần bú phải chạy theo mẹ, và chỉ được ti ít một vì mẹ còn mải kiếm ăn đây đó. Đằng này hắn cho bú sữa ít lần, mỗi lần bú một bụng căng đến vỡ được. Nó bú hăng, lớn nhanh và có vẻ khỏe lắm, đã bắt đầu tự gặm cỏ ăn lá rồi. Tuy nó vẫn còn bú sữa nhưng đang định cai dần, chưa kịp cai sữa thì nó chết vì sưng bụng. Nguyên nhân là đầy hơi chướng khí trong bụng quá đỗi, bụng phồng lên chèn ép các nội tạng tim phổi, không thở được và thế là chết. Sáng nó còn chạy nhảy tung tăng vui vẻ như thường, trưa đã bỏ xác chút hơi thở cuối. Tính từ lúc có biểu hiện đau đến lúc chết chỉ hơn một giờ đồng hồ.

Hắn buồn lắm vì đã gắn bó với nó, coi nó như con, đi đâu cũng mang nó đi theo, quen nhìn nó mỗi ngày. Nó cũng coi hắn như mẹ vậy. Hắn cứ nghĩ linh hồn nó vẫn quanh quẩn bên hắn một thời gian, thi thoảng hắn lại nhìn vào khoảng không và hình dung con dê non đang gặm cỏ ngay đó, bần thần lại rơi nước mắt.

Phải đến khi đọc được những dòng này trong cuốn sách cổ, hắn mới nguôi ngoai nuối tiếc... 

Kinh Thánh: Sách Gióp

 
Tại xứ Út-xơ có một người tên là Gióp. Ông là một người trọn vẹn và ngay thẳng, kính sợ Đức Chúa Trời và tránh xa điều ác. 2Ông có bảy con trai và ba con gái. 3Tài sản ông gồm có: Bảy nghìn chiên, ba nghìn lạc đà, năm trăm đôi bò, năm trăm lừa cái và rất nhiều đầy tớ. Ông là người giàu có nhất trong các dân tộc Đông phương.

6Một ngày kia, các thiên sứ của Đức Chúa Trời đến trình diện Đức Giê-hô-va. Sa-tan cũng đến với họ. 7Đức Giê-hô-va hỏi Sa-tan: “Ngươi từ đâu đến?” Sa-tan thưa với Đức Giê-hô-va: “Tôi đi nơi nầy nơi kia trên đất, dạo quanh khắp đó đây.” 8Đức Giê-hô-va lại hỏi Sa-tan: “Ngươi có để ý đến Gióp, đầy tớ của Ta không? Trên thế gian nầy chẳng có ai được như Gióp; một người trọn vẹn và ngay thẳng, kính sợ Đức Chúa Trời và tránh xa điều ác.” 9Sa-tan thưa với Đức Giê-hô-va: “Lẽ nào Gióp kính sợ Đức Chúa Trời vô cớ sao? 10Chẳng phải chính Ngài đã dựng hàng rào bảo vệ quanh ông ta và gia đình cùng mọi sản vật của ông ta đó sao? Ngài đã ban phước trên công việc của tay ông ta và làm cho của cải ông ta lan tràn khắp đất. 11Nhưng bây giờ Chúa thử giơ tay đánh vào tất cả những gì thuộc về ông ta, xem ông ta có phỉ báng Chúa ra mặt không!” 12Đức Giê-hô-va phán với Sa-tan: “Nầy, Ta giao mọi vật thuộc về Gióp vào tay ngươi, nhưng không được giết chết Gióp.” Sa-tan liền rút lui khỏi sự hiện diện của Đức Giê-hô-va.

13Một hôm, khi các con trai và con gái của Gióp đang ăn tiệc và uống rượu trong nhà người anh cả, 14một sứ giả đến báo tin cho Gióp: “Khi bò đang cày, lừa đang ăn cỏ bên cạnh 15thì dân Sê-ba xông vào và cướp đi hết. Chúng còn dùng gươm giết sạch các đầy tớ, chỉ một mình tôi chạy thoát về báo tin cho ông.” 16Người nầy còn đang nói thì một người khác đến báo: “Lửa của Đức Chúa Trời từ trên trời đã giáng xuống thiêu rụi cả bầy chiên và các đầy tớ, chỉ một mình tôi chạy thoát về báo tin cho ông.” 17Người nầy còn đang nói thì một người khác chạy đến báo: “Dân Canh-đê chia làm ba toán xông vào lạc đà và cướp đi hết. Chúng còn dùng gươm giết sạch các đầy tớ, chỉ một mình tôi chạy thoát về báo tin cho ông.” 18Người nầy còn đang nói thì một người khác lại chạy đến báo: “Các con trai con gái ông đang ăn uống tại nhà người anh cả, 19thình lình có một ngọn gió lớn từ phía bên kia hoang mạc thổi đến làm bốn góc nhà rung rinh rồi sập xuống, đè chết bọn trẻ, chỉ một mình tôi thoát chết về báo tin cho ông.”

20Gióp liền trỗi dậy, xé áo mình và cạo đầu rồi sấp mình xuống đất mà thờ lạy 21và nói:
“Tôi trần truồng lọt khỏi lòng mẹ
Tôi cũng sẽ trần truồng trở về;
Đức Giê-hô-va đã ban cho, Đức Giê-hô-va lại cất đi;
Đáng chúc tụng danh Đức Giê-hô-va!”

...

Gióp 39

1“Con có biết mùa nào dê rừng sinh nở?
Có quan sát hoàng dương đẻ con không?

2Con có biết chúng mang thai mấy tháng?
Có biết giờ chúng chuyển bụng sinh con?

3Rồi chúng cúi mình sinh đàn con nhỏ,
mong thoát cơn đau quặn thắt.

4Đàn con lớn lên giữa đồng hoang,
rồi rời nhà đi chẳng bao giờ trở lại.

5Ai cho lừa rừng được tự do?
Ai cho nó thoát khỏi vòng cương tỏa?

6Ta ban cho nó hoang mạc làm nhà;
đất mặn đồng chua làm chỗ ở.

7Ồn ào đô thị nó cười chê,
tiếng hò hét của người đánh xe, nó không để ý.

8Các ngọn núi nó coi là đồng cỏ,
là nơi nó tìm các ngọn lá non xanh.

9Bò rừng có bao giờ phục vụ con?
Hoặc chịu ngủ suốt đêm trên máng cỏ?

10Bò rừng có chịu cho con cột vào cày không?
Hoặc ngoan ngoãn kéo bừa trong trũng?

11Mặc dù sức nó mạnh, con có tin cậy không?
Con có tin cậy để giao việc nặng nhọc cho nó không?

12Con có tin rằng nó sẽ trở lại,
và đem ngũ cốc về sân đạp lúa của con không?

13Đà điểu đập cánh oai hùng,
nhưng không xứng bằng bộ cánh con cò.

14Vì nó bỏ mặc trứng mình dưới đất,
để sức nóng của đất ấp trứng.

15Nó không lo lắng có một bàn chân có thể đạp trúng
hoặc thú rừng có thể giẫm lên.

16Đà điểu thật tàn nhẫn với đàn con,
như chúng không phải là con mình.
Chẳng đoái hoài nếu chúng chết đi.

17Vì Đức Chúa Trời tước đi sự khôn ngoan của nó.
Ngài không cho nó sự hiểu biết nào.

18Nhưng bất cứ khi nào nó phóng chạy,
nó cười nhạo cả ngựa lẫn người cưỡi ngựa.

19Con có ban sức mạnh cho ngựa,
hay phủ lên cổ nó bằng một cái bờm không?

20Con có khiến nó nhảy như châu chấu không?
Tiếng hí uy oai nghiêm thật kinh hoàng!

21Vó ngựa xoáy sâu trong đất và tự hào về sức mạnh
khi nó xung phong ra chiến trường

22Nó coi thường đe dọa, bất chấp hiểm nguy.
Trước lưỡi gươm nó chẳng hề né tránh.

23Phía trên nó, bao tên kêu lách tách,
giáo và lao sáng ngời dưới ánh nắng.

24Nó hầm hầm dậm nát đất như điên
và nó liền xông tới khi nghe kèn hiệu lệnh.

25Nó hí vang khi nghe tiếng thổi kèn.
Nó đánh hơi cuộc xáp chiến từ xa.
Tiếng chỉ huy ra lệnh và tiếng ồn của đoàn quân.

26Có phải nhờ khôn ngoan của con mà diều hâu bay vút lên
và tung cánh trực chỉ phương nam không?

27Phải chăng con ra lệnh cho đại bàng,
vượt trên các vách núi cao để làm tổ?

28Dùng vầng đá làm nơi cư ngụ,
lót tổ tận trên vách đá vững vàng

29Từ trên ấy, nó rình mồi săn bắt,
mắt nó nhìn bao quát thật xa.

30Đàn con nó cũng quen tiệc máu.
Vì nơi đâu có giết chóc nơi đó nó hiện diện.”

https://www.bible.com/vi/bible/1638/JOB.39.KTHD

Trong tất cả muôn loài, loài người mất thời gian lâu nhất để trưởng thành. Con dê ở trong thai mẹ 5 tháng, sau khi chào đời nửa năm đã trưởng thành và có khả năng sinh sản. Đến con voi là loài vật to lớn, ở trong thai tượng 22 tháng mới chào đời, 12 tuổi đủ trưởng thành để sinh sản. Còn con người ... tuổi trưởng thành có lẽ nào là cả kiếp?

Loài người nuôi dê hay các con vật chỉ để khai thác chúng. Dê cho thịt và sữa. Con cái thì được giữ lại để sinh con tiếp, còn con đực thì thường bị bán hoặc giết thậm chí chỉ khi còn bú sữa mẹ vì thịt non thì mềm và ngon hơn hẳn. Người ta nuôi dê chỉ để khai thác thịt dê non mỗi mùa lễ hội như một đặc sản. Một đàn dê chỉ toàn dê cái, có độc nhất một con đực thì được nhốt riêng, chỉ thả chung khi đến kỳ sinh sản. Người ta không nuôi nhiều con đực vì chúng hay đánh nhau để tranh giành con cái, và nhiều khi nhiều đực thì hại cái và làm chết cả con non không chừng.

Thế giới loài vật khác xa với thế giới con người. Ngây ngô và chẳng biết đến lừa dối là bao. Chúng không biết tiền là thứ gì bởi tiền không ăn được, cũng không uống được. Chúng chỉ biết mỗi ngày gặm cỏ khi mặt trời mọc và tìm chỗ nằm khi đêm về. Thản nhiên mà tò mò sống cho đến khi chết dù già hay trẻ. Chúng không có nhiều ngôn ngữ khác biệt, không tiếng nói âm vần chữ cái và thơ ca. Chỉ có những nguyên âm nguyên sơ, chẳng hề thay đổi, từ khởi thủy đến vô cùng.  

Đấng Thiên Cổ tạo lập muôn loài vạn vật từ lúc bắt đầu, phải chăng đã tạo nên con người biệt lập và trội hơn tất cả? Để con người mặc nhiên bóc lột tất cả và thuộc địa cả mặt đất lẫn bầu trời? Khinh thường hay lãng phí một bữa ăn làm từ sinh mệnh với bao nỗ lực sống, và cười đùa cạn cợt trong những lễ hội phù phiếm của loài người...

Cho đến tận khi ngày công chính tẩy rửa hồng hoang bằng lửa hay nước, người ta vẫn tiệc tùng và chúc tụng những điều vô nghĩa. Chiến tranh hay thanh bình, hối hả hay nhàn hạ, có phải chăng chỉ là thoáng chốc, như dòng sông khúc lặng, khúc ghềnh...   

Thursday, November 9, 2023

C77: Non Sơ Huy Hoàng

Sự sống và cái chết không khác gì nhau, cho đến tột cùng tất cả đều là Sự Hằng Sống


Sự sinh và sự tử không khác gì nhau, cho đến tột cùng tất thảy đều là Hằng Sinh mãi mãi 


Thiện và ác không khác gì nhau, cho đến tột cùng tất cả đều là Toàn Thiện 


Thiêng và tục không khác gì nhau, cho đến tột cùng tất thảy đều là Thiêng Liêng

Chẳng có một điều gì, sự gì, vật gì không là thiêng liêng, dù là cát bụi hay vi thể nhỏ nhất tưởng chừng vô tri vô giác. Vậy lấy gì để phân định rạch ròi giữa Thiêng và Tục?

Nói không có sự khác biệt giữa sống và chết, thiện và ác, trắng và đen, có phải chỉ là một cách ủi an thiếu minh định rõ ràng?

Nếu có linh hồn tồn tại trong thể xác, thì linh hồn sẽ đi đâu sau khi thể xác chết đi?

...

Những câu hỏi này từng là đề thi cuối cấp bậc trung học tiên giới. Mà cả thí sinh dự thi lẫn giám khảo chấm thi đều phải đau đầu bàn cãi về ba rem điểm chuẩn. Đáp án vô cùng phong phú, có những bài luận dài phải đọc mấy trăm trang chưa hết. Hội đồng giám khảo có hơn trăm vị, đều căn vào thang điểm chuẩn và chấm chéo rất chặt. Ấy là thời xưa, khi mà bộ giáo dục tiên chúng còn nghiêm chỉnh, không có chuyện đạo văn hay ăn cóp bao giờ. Càng không có chuyện chạy chọt đường vòng tình cảm này kia.

A Đường nghe lão tiên kể lại về bài văn kỷ lục của một thí sinh nọ khiến giám khảo mất 1 vạn năm thời gian thượng giới vẫn chưa chấm xong. Nghe đâu còn được xung kho Đại thư viện Akasa và tiểu thư viện trên thiên giới cũng lưu một bản, chỉ có điều văn tự cổ không phải ai cũng đọc hiểu được.

Hắn rắp tâm học chữ cổ chỉ để đọc được bài luận trác tuyệt đó. Dù vậy khi đọc chỉ chữ đực chữ cái, bì bõm chỉ hiểu được vài ý cạn cợt chứ không rõ bề sâu thâm huyền. Ở trong hang u tịch, mê mê tỉnh tỉnh bỗng nhiên hắn thoạt hiểu nhiều điều.

Rốt cục quên xừ mất điều mình vừa hiểu. Hắn cười vì Chân Lý vốn không cần được ghi nhớ, Chân Lý Chân Tri hoàn toàn là vô ngã và quên mình. Như sự sống quên mình từng chết, cũng quên đi vạn trạng lý do của cái chết ngẫu nhiên. Mỗi khi nhắm mắt ngủ, hắn đều tưởng rằng đây sẽ là một lần chết, để rồi khi tỉnh lại, mở mắt thấy non sơ huy hoàng.

- - -

Huyền thoại sáng tạo của dân Ấn Độ:

Ấn độ có nhiều huyền thoại về nguồn gốc con người và vũ trụ. Theo Áo Nghĩa Thư (Upanishad) thì huyền thoại sau đây được ghi vào khoảng 700 năm trước thời đại này:

Thoạt kỳ thủy, vũ trụ này chỉ là cái Ngã (Self) dưới dạng người. Hắn (cái Ngã) nhìn xung quanh và không thấy bất cứ gì khác nên kêu to lên: Chỉ có Ta; từ đó quan niệm về cái Ta khởi giậy.

Rồi hắn cảm thấy sợ hãi. (Đây là lý do con người sống cô độc thường hay sợ hãi). Nhưng rồi hắn suy nghĩ: "Chỉ có một mình ta ở đây, vậy có gì mà phải sợ hãi?" Và hắn hết sợ. (Con người sợ là sợ một cái gì đó).

Tuy nhiên, hắn không lấy gì làm vui (sống cô độc thường không vui) nên muốn có bạn đời. Cái Ngã này bèn tự phân ra làm hai phần, và từ đó cặp tình quân và tình nương đầu tiên được sinh ra, và nhân loại sinh ra bắt đầu từ đó.

Nhưng sau đó nàng suy nghĩ: "làm sao mà chàng ngẫu hợp với ta được vì ta chính là một phần của chàng? Vậy thôi ta hãy trốn đi cho rồi." Để trốn chàng, nàng biến thành con bò cái. Chàng bèn biến theo thành con bò đực, và từ đó các loài trâu bò xuất hiện. Rồi nàng biến thành con ngựa cái, con lừa cái, con dê cái v.v... và chàng biến theo thành những con đực để cặp đôi với nàng. Từ đó tất cả các sinh vật trên thế gian, từ những sinh vật lớn cho đến những con sâu con kiến, xuất hiện. Thế rồi chàng ý thức được rằng chàng chính là đấng sáng tạo vì khởi thủy của mọi vật chính là chàng. Từ đó sinh ra quan niệm về sáng tạo.




 


Sunday, September 17, 2023

C76: Ngoại truyện về Huyền Trang

Chương 76: Ngoại truyện về Huyền Trang

Thực ra cuộc nói chuyện của cha mẹ Trần Huy chỉ là tưởng tượng của cậu bé như một cách khuây khỏa. Lịch sử ghi về thân thế của Huyền Trang không rõ chính xác hay chăng, nhưng người ta tin rằng Huyền Trang mồ côi từ nhỏ. 5 tuổi mẹ mất, 10 tuổi cha qua đời. Huyền Trang và anh được họ hàng nuôi. Cả hai rủ nhau xuất gia đi tu để đỡ tốn cơm áo gia đình. Người anh đã được nhận còn Huyền Trang mới 13 tuổi, chưa đủ tuổi nên phải đợi. Chưa được xuất gia chính thức nhưng cũng được chiếu cố ở lại chùa làm chú tiểu.

Một thời gian sau chùa lại có đợt tuyển chọn thêm tăng nhân chính thức. Huyền Trang không được đưa vào danh sách tuyển chọn nhưng cứ đứng lấp ló ngoài cửa lắng nghe cả buổi dài.

...

Cuối đời nhà Tùy, đầu đời Đường, trong nước loạn lạc, đói kém, chết chóc và bất ổn nhiều vùng. Đô thành là một ổ đạo tặc, miền Hồ Nam thành cái hang mãnh thú, đường phố Lạc Dương đầy thây người. Huyền Trang bàn và anh qua Tứ Xuyên, ngụ ở chùa Không Túc trong 3 năm. Mấy năm sau, nội loạn đã chấm dứt, vua nhà Đường lên ngôi. Huyền Trang về Trường An, đất Phật đầu tiên ở Trung Hoa. Ở Trường An, Huyền Trang ráng đọc hết những kinh điển, tìm những Hòa thượng có danh tiếng để học đạo, nhưng ông nhận thấy rằng họ cũng thờ đức Thích Ca Mâu Ni mà giáo thuyết của họ khác nhau xa quá, có khi phản nhau nữa. Có bao nhiêu tông phái là có bấy nhiêu chủ trương, không biết đâu là đạo chính truyền.
 
Bản tính ham học, Huyền Trang lại đi học đạo ở khắp miền Bắc tại các vùng Xuyên Đông (đông đô tỉnh Tứ Xuyên), qua Hồ Bắc, Hà Nam, Sơn Đông, Hà Bắc. Càng tìm hiểu, ông càng nảy ra nhiều nghi vấn, đã không tin được các vị Hòa thượng mà đối chiếu ngay trong những bản dịch kinh Phật ông cũng thấy nhiều chỗ lờ mờ mâu thuẫn. Vậy muốn hiểu rõ đạo đến cùng thì chỉ còn một cách là đến nơi phát tích của đạo Phật ở Ấn Độ, để học tiếng Phạn rồi nghiên cứu tại chỗ những kinh điển cổ nhất. Ý muốn "Tây Du" phát sinh từ đó.
 
Huyền Trang cùng vài vị tăng nữa dâng biểu lên nhà vua xin phép qua Ấn Độ du học. Truyện Tây Du Ký chép rằng vua nhà Đường sai Tam Tạng đi thỉnh kinh, lại nhận làm ngự đệ, lấy họ Đường, có lẽ để nịnh triều đình mà quy công cho nhà vua. Sự thật thì khác hẳn; vua không những không cho phép đi mà còn cấm. Vì nước mới được bình trị, vương quyền chưa được vững, mà sự ngoại giao với các dân tộc ở phía Tây, tại Trung bộ Á Châu chưa được tốt đẹp.

Hai năm sau khi chờ đợi thời cơ, Huyền Trang lên đường vào năm 629 (28 tuổi). Nhân vì thiên tai Trường An bị mưa đá mất mùa, triều đình xuống chiếu cho phép dân ở kinh đô được đi nơi khác làm ăn. ông theo nhóm người di cư, tiến về phương Tây, mở đầu cuộc du hành vạn lý. 28 tuổi ra đi, đến năm 44 tuổi trở về.  

- - -

Anh trai Huyền Trang nói:

Lúc 8 tuổi Huy thích nghi lễ, rất nghiêm cẩn, có lễ độ, không thích nhảy nhót. Lúc cha đem Hiếu kinh giảng cho nghe, đến đoạn ông Tăng Tử khi nghe giảng bèn đứng dậy nghe thầy giảng kinh. Thấy ông Tăng Tử như vậy, Huy đang ngồi nghe cha giảng cũng đứng dậy sửa áo. Cha ngạc nhiên hỏi tại sao đang ngồi nghe như vậy mà đứng dậy là nghĩa làm sao ? Ngài thưa: Tăng Tử nghe thầy giảng mà còn đứng nghiêm trang thay huống chi con nghe cha dạy mà con không đứng dậy là vô lễ.

Bẩm tính Huyền Trang nghiêm cẩn, ôn hòa, nên rất được nhiều người mến trọng. "Nước da hơi sạm, đôi mắt sáng. Vẻ mặt uy nghiêm, nét mặt tươi sáng rực rỡ. Giọng nói trong trẻo, rõ ràng, ngôn ngữ cao nhã, hoa mỹ, du dương, ai nghe cũng mê..." Nhìn ông, người ta nhận ngay thấy sự dung hòa của đạo Phật và đạo Khổng - lòng từ bi, đại độ của đạo Phật, đức lễ độ, sáng suốt của đạo Khổng. Ông vừa thương người, vừa cương quyết, trang nghiêm như đại giang, mà lại bình tĩnh, rực rỡ như bông sen nổi trên mặt nước".
 
Tánh tình rất nghiêm cẩn mà lại hòa nhã, khiêm tốn là điều rất hiếm. Thường thường người thông minh thì hay kiêu ngạo, kiêu căng khó khiêm tốn, nhu hòa. Người thông minh thì hay cãi. Nhưng ở Huyền Trang không có chuyện đó. Ấy là đức tính của một con người toàn diện, đạo đức, thông minh, cần cù, nghiêm cẩn, nhu hòa, nhẫn nhục ....


Saturday, September 16, 2023

C75: Những Lời Tiên Tri (1)

Chương 75: Những Lời Tiên Tri (1)

Tiên tri là lời nói báo trước một điều gì chưa xảy đến vào lúc nói, nhưng đã xảy đến ngay trong trường tâm - ý - niệm của một hay nhiều người, tính từ thời điểm phát ra lời nói ấy rồi. Vậy tiên tri vốn là một chấp niệm, ám thị, chấp trước với mãnh lực lớn lao. Tùy thuộc vào niềm tin - tín chấp mãnh liệt đó, mà điều được tiên tri sẽ trở thành sự thực.

Ví như: Dân tộc nọ tin rằng sẽ có một Đấng Thiên Chúa làm Người, cứu thế gian bất công và ô trược này, đại diện cho Công Lý và Uy Quyền thưởng thiện phạt ác ... Tín chấp đó có từ thủa các nhà tiên tri giảng đạo chân chính bị hành hình cắt đôi người (tiên tri Ê Sai). Thế là khi có điều kiện thích hợp cho niềm tin nở hoa kết quả, Đấng được gọi là Con Thiên Chúa - Chúa Con ra đời và mang danh "Thiên Chúa ở cùng chúng ta" (Yeshua).

Ở nơi khác có lời về ngài Cầu Danh Bồ Tát - tiền thân của Bồ Tát Di Lặc. Không biết là lời xuất phát từ ai, với hàm ý nói kháy hay nói thật, là hư cấu hay kinh cú điển tích. Bao biến tấu âm sắc vùng miền cũng thêm vào vô số những chấp niệm, tín tâm muôn thủa. Ví như người phụ nữ trẻ, thì được gọi là thiếu nữ - người xưa thích nhấn mạnh vào sự ngây thơ, trong sáng, trinh bạch nên nói thành "trinh nữ". Khi phiên dịch ra tiếng nước ngoài, phiên qua dịch lại, chuẩn xác đến "sợi tóc chẻ làm đôi", thì trinh nữ là phụ nữ còn trinh, chưa chồng. Kinh thánh truyền đời đã ghi vậy là đúng vậy không có gì sai hết. Nguyên tắc nghề nghiệp chữ nghĩa . Bút sa gà chết, có phải là người cẩn thận tỉ mỉ lắm mới theo được. Chứ đâu phải ẩu thả bừa phứa mà nên đâu. Phiên âm, dịch sách không phải là đùa. Dịch giả có tâm thì yếu tố chính xác với nguyên bản lại càng là ưu tiên hàng đầu.


Đa phần tín đồ ngoan đạo khắp nơi trên thế giới từ đó đều phải hiểu theo nghĩa đen: Đức mẹ sinh ra Chúa Con là trinh nữ - đồng trinh chưa chồng mà sinh con, là bởi thụ thai "vô nhiễm", nhờ Đức Thánh Linh Thần Kỳ! Sự thật chứ không phải chuyện bịa. Vì Tinh Thần - Đấng Sáng Tạo - Thiên Chúa thì quyền năng vô song, muốn gì mà chẳng được, tạo ra cả thế giới vũ hoàn này còn được nữa là chuyện kia...

Việc phiên dịch đúng nghĩa - sát nghĩa với gốc, nhiều khi cũng là rào cản ngàn năm như thế. Để rồi hồng trần nơi nào đó có những "Ngọc Trinh" cũng được tôn thờ.

- - -

Chuyện về những lời tiên tri rất nhiều. Trong số đó có chuyện như sau:

Mẹ của Trần Huy vốn là người ham thích môn tử vi bói toán. Cậu bé ra đời đúng lúc ông thầy bói tới chơi nhà. Ông thầy bấm ngày giờ, xem nhật nguyệt trăng sao, năm vận năm hạn đủ cả... rồi phán như đinh đóng cột, sau này đứa bé sẽ làm nên nghiệp lớn, làm rạng rỡ tổ tông, trở thành một nhân vật xuất chúng vĩ đại. Thế là mẹ thuyết phục cha đặt tên cho bé là Huy trong nghĩa Huy Hoàng - Ánh Quang Huy, mong sao lời tiên báo sẽ trở thành sự thật. Sau lại nghĩ: Huy thôi chưa đủ, phải là Vĩ mới hay hơn nữa.

Cha thì không tin mấy trò bói toán tử vi tướng số. Là một trí thức phi thời mẫn cán, ông đặc biệt không muốn cổ xúy sự mê tín đang thịnh hành thời bấy giờ. Song vì chiều lòng vợ, ông cũng ừ à cho êm chuyện. Dù sao cái tên Huy cũng mang hàm ý tốt đẹp. Đến khi bà vợ một mực muốn đổi tên con thành Vĩ thì ông không hài lòng. Đã quen gọi suốt bấy lâu rồi, ông không quen nên vẫn gọi là Huy mãi. Cha thì gọi là Huy, mẹ thì khăng khăng gọi là Vĩ. Chỉ vì cái tên đến nỗi có lần chén bay đũa liệng. Về sau bà mẹ biết ý, chỉ gọi là Vĩ khi nào không có mặt cha mà thôi.

Một hôm, cha mẹ nói chuyện lúc đứa trẻ ra ngoài chơi:

Mẹ: Ông xem thằng Vĩ... à không Huy nhà mình chẳng có vẻ gì xuất chúng cả. Tôi sợ cứ kỳ vọng vào nó quá rồi lại phải thất vọng. Tôi thấy nó chẳng ra dáng gì cả. Con trai con đứa gì mà cứ đi nhẹ nói khẽ như đàn bà ấy. Chưa kể nó có vẻ bị trầm cảm tự kỷ. Chẳng thấy sôi nổi vui vẻ với chúng bạn, cũng ít khi ra ngoài chơi. Ông dạy nó thế nào mà thành ra thế? Hay là ông nghiêm khắc quá với con?!

Cha: Mẹ nó cứ nhiễu sự. Tôi đang đọc sách, bà không thấy à?

Mẹ: Tôi thấy rồi, ông thì chỉ suốt ngày sách sách sách, mà rốt cục có nên cơ đồ gì đâu?! (Nguýt dài)

Cha: (Đặt sách xuống thở dài và cau mày) Vừa nãy bà nói gì?

Mẹ: Tôi nói! Thằng Huy lớn rồi mà chẳng có khí chất nam tử hán đại trượng phu gì cả! Rồi sau này cũng chỉ được như cha nó thôi. Con hơn cha là nhà có phúc mà ... nhà ta không biết bao giờ mới phúc lộc để nở mày nở mặt đây ...

Cha: Nó mới mười mấy tuổi đầu mà...

Mẹ: Bằng tuổi nó, con nhà người ta đã ra dáng ra giàng rồi. Con nhà mình thì ăn không nên đọi nói không lên lời. Hỏi mười câu chưa nói một câu. Lơ nga lơ ngơ, chậm chậm chạp chạp như thế. Hàng ngày ông dạy nó đọc sách, tôi thấy có khi là nước đổ đầu vịt thôi.

Cha: Mẹ nó chẳng hiểu gì cả. "Đại trí nhược ngu, quân tử kiệm lời". "
Quân tử thận ngôn ngữ hĩ, vô tiên kỷ nhi hậu nhân, trạch ngôn xuất chi, lệnh khẩu như nhĩ"(Cười lớn). Trang Tử sống đời ẩn dật, ông ấy cũng rất kiệm lời.

Lưu Hướng thời Tây Hán nói: “Quân tử thận ngôn ngữ hĩ, vô tiên kỷ nhi hậu nhân, trạch ngôn xuất chi, lệnh khẩu như nhĩ”. Ý nói rằng bậc quân tử cần phải chú ý thận trọng lời nói, ngôn từ, đừng chỉ biết nghĩ bản thân trước mà nghĩ người khác sau, lời nói xuất ngôn cần phải có lựa chọn. Có câu: “Một lời nói hoạch định giang sơn“, lời đã nói ra cũng như nước đổ khỏi cốc, muốn lấy lại là điều không thể.

Lão Tử nói: Quân tử đức dày nhưng dung mạo có vẻ khờ khạo. Bậc quân tử có đức lớn, trí huệ lớn, nhưng bề ngoài lại có vẻ ngốc nghếch. Biết kiệm lời và khiêm tốn, người như vậy thường sở hữu trí huệ uyên thâm.

 
Mẹ: Lại trích dẫn! Thôi tôi kệ con mọt sách nhà ông... Lát nữa nó về, ông bảo nó luyện võ để phát triển sức vóc đi. Lớp học võ trong vùng mới có thầy giỏi về dạy, người ta đua nhau đến rồi. Tôi tính gửi cả mấy đứa con nhà mình qua đó...

Cha: Rồi rồi ... võ thì võ. Văn võ song toàn!

Mẹ: Tứ chi nhiều khi quan trọng hơn đầu óc thật. Ông mà khỏe thì sửa lại cái cánh cửa bị mọt kia lâu rồi...

Cha: (Cau mày) Tôi không thay không phải là vì yếu, mà vì tiết kiệm. Mọt nhưng đã sơn sửa nhiều lần rồi, vẫn dùng tốt thì tại sao phải thay mới? Bà không nghe câu "Cần kiệm chi phù" bao giờ à?

Mẹ: ... Nó về đến cổng rồi! Thôi tôi đi xuống bếp nấu cơm đây.


Người đời không biết câu chuyện trên, chỉ biết về Trần Huy khi lời tiên tri đã trở thành sự thật. Trần Huy sau này là Đường Huyền Trang - Đường Tam Tạng. Lịch sử có nhiều ghi chép về nhân vật vĩ đại này. Liên quan đến ông, cũng có một lời tiên tri nữa trở thành sự thật. Chuyện được thêm thắt với mục đích dẫn dắt những thông điệp với nhiều hàm ý. Dựa trên sự thật lịch sử về cuộc Tây Du Thỉnh Kinh của ngài Huyền Trang.

Chuyện rằng: Khi Huyền Trang khổ cực gian nan độc hành sang Ấn Độ, đi qua rất nhiều làng mạc, gặp rất nhiều người, nhiều cảnh, ngủ nhờ nghỉ đậu, xin ăn từng bữa dọc đường. Cướp bóc trấn lột, đau yếu bệnh mỏi, không thiếu lần muốn bỏ cuộc quay về. Đi đến đâu cũng phải lặp lại một lời: "Bần Tăng từ Đông Thổ Đại Đường đi Tây Phương thỉnh kinh ... " đến nỗi ngủ mơ nói mớ cũng cùng một câu đó.

Lần ấy suýt chết vì thổ tả. Ăn phải thứ gì mà mặt xanh mày tái, cả ngày trời gắng gượng lắm mới tới được một thôn làng phía xa. May thay có người tiếp tế cứu bần. Vừa thều thào ca lại hết câu "... đi Tây Phương thỉnh kinh" thì quỵ xuống. Người trong nhà là một ông lão và một cô con gái. Cô gái này vừa gặp đã yêu nhà sư ngay từ cái nhìn đầu tiên.

Qua thời gian được họ chăm sóc và chữa trị hết lòng, Huyền Trang khỏe và quyết định ở lại một thời gian để giúp việc và học hỏi nhiều điều. Chuyện không có gì đáng kể nếu không có một sự cố xảy ra như thế này:

Một đêm nọ kẻ xấu xông vào nhà ông lão và đòi ông lão giao Huyền Trang cho bọn chúng xử lý. Một là chết, hai là quay về. Không được tiếp tục đi qua địa bàn của họ. Ông lão nhất quyết không đồng ý và chống trả đến cùng, ông lão bị chúng đánh tơi bời nhưng vẫn lao vào bảo vệ Huyền Trang. Bao nhiêu của cải trong nhà vốn chẳng đáng là bao đều bị lục tục xới nát. Đến khi chúng nhìn tới cô con gái thì tràn đầy dã tâm và dục vọng. Trong lúc giằng co nước sôi lửa bỏng như thế, Huyền Trang quả quyết xin được đi theo chúng bất kể thế nào. Còn ông lão thì thoi thóp một góc mà vẫn bật dậy nói: "Các vị xin hãy tha cho người này. Hãy đem con gái tôi đi!"

Huyền Trang khóc không nên lời, nước mắt lưng tròng nhìn cô gái, trái tim quặn thắt và thầm niệm Phật, Bồ Tát xin hiển linh cứu nguy ngay lúc bấy giờ. Không ngờ cô gái gật đầu và bình thản đi theo chúng. Trước khi đi còn ngoảnh lại nhìn Huyền Trang và mỉm cười một vẻ không lời nào tả siết.

Sự việc sau đó: Huyền Trang lên đường tiếp tục hành trình. Ông lão hứa sẽ bỏ thân này già yếu để lấy thân khác mà hỗ trợ Huyền Trang hoằng dương Phật Pháp. Huyền Trang sẽ đem Kinh Phật từ quê Phật trở về Đại Đường, vậy hẹn gặp Huyền Trang ở Đại Đường Đông Thổ. Khi ấy ông lão đã già lắm rồi, không thể đợi ngày Huyền Trang quay lại đây thăm nữa...

Còn về cô con gái của ông lão, một thiếu nữ rất lanh lợi và dịu dàng. Bằng cách nào đó mấy ngày sau cô trở về và bọn người kia không tới nữa cho đến khi Huyền Trang lên đường bình an vô sự. Không biết chuyện gì đã xảy ra với cô gái. Và Huyền Trang cũng không dám hỏi nửa lời, ánh mắt chỉ toàn áy náy day dứt đến đau lòng. Cô gái liên tục nói mọi chuyện ổn cả rồi song trái tim trĩu nẵng đến nỗi về sau người ta có Cảm Ứng Thiên mà viết nên lời ca và khúc nhạc: "Tình Nhi Nữ".

Nếu bạn đọc đặt mình vào hoàn cảnh và địa vị của Huyền Trang, nhập vai Huyền Trai trong câu chuyện trên, ắt sẽ cảm nhận vô số cung bậc của tình cảm con người.

Không biết lời tiên tri - lời hẹn của ông lão có thành sự thật? Hay chỉ là một ngẫu nhiên trùng hợp. 15 năm sau khi Huyền Trang trở về Đại Đường Đông Thổ có gặp một cậu bé tên là Khuy Cơ. Vừa gặp đã như tri âm tri kỷ. Linh cảm thiêng liêng ập tới. Suốt đêm Huyền Trang không cầm được nước mắt và lập tức xin vua ban chiếu chỉ xuất gia cho cậu bé nọ. Không dám chắc đó là ông lão khi xưa đầu thai chuyển kiếp, nhưng một nhân tài không thể không giúp sức cho đại cuộc.

Hơn nửa nếu không muốn nói là toàn bộ số kinh sách Huyền Trang mang về là lời lẽ Khuy Cơ dịch hoặc chỉnh dịch. Người đời sau ít quan tâm đến cái tên Khuy Cơ mà chỉ biết về Huyền Trang. Bởi vì mục đích của Khuy Cơ đã hoàn thành, lời tiên tri cũng đã ứng nghiệm, Khuy Cơ qua đời khi tuổi chưa mãn già. Bù lại một đời tâm nguyện Bồ Đề.


Sunday, August 27, 2023

C74: Hắc Bạch Vô Thường

Chương 74: Hắc Bạch Vô Thường

Tiên Giới có hẳn một ủy ban thường trực hỗ trợ các sinh mệnh trong những giai đoạn thay đổi quan trọng của đời sống, khi hồn trần rời khỏi thân xác - chết. Hắc Bạch Vô Thường là vị tiên trưởng quản ủy ban này.

Từ rất lâu về trước, khi ủy ban chưa được thành lập thì chỉ có một mình Hắc Bạch Vô Thường đảm nhận công việc, ngược xuôi tất bật vô cùng vất vả. Hắc Bạch Vô Thường là biệt danh của vị thượng tiên rất tận tâm với công việc này. Khi thấy vị ấy mặc bộ áo trắng có nghĩa là đang hỗ trợ cho linh hồn thánh thiện, khi mặc đồ đen có nghĩa là đang giúp đỡ linh hồn hắc ám. Cũng có khi mặc đồ vừa trắng vừa đen. Thời gian làm việc 24/24, vô thường bất kể lúc nào cũng sẵn sàng hỗ trợ.

Vị tiên này đã đắc đạo từ trước khi Quả Địa Cầu hình thành. Khi số các linh hồn trên địa cầu còn thưa thớt, Hắc Bạch Vô Thường còn nhàn rảnh, thậm chí có thời gian để hỗ trợ cả linh hồn động vật và thảo mộc. Khi dân số ngày một đông đúc, áp lực công việc tăng theo cấp số nhân, bởi không thể tự mình làm hết nên Thần Chết phải đào tạo thêm nhân sự. Đại danh Thần Chết được dùng để tỏ sự kính trọng đặc biệt với vị này, bởi tính ra tuổi đời của vị ấy còn cao hơn cả vị cao tuổi nhất ở Tiên giới.

Tuy đã có tuổi là vậy nhưng Thần Tiên khác với Phàm Trần. Tuổi cao không có nghĩa là sức yếu. Hắc Bạch Vô Thường đặc biệt không thích tiên chúng lễ phép xưng hô với mình, còn một mực muốn được gọi là Đại Ca cho phong độ. Quả thực Hắc Bạch Đại Ca thoạt nhìn trẻ như thanh niên. Vẻ ngoài cũng không hề thay đổi sau bao lâu đi chăng nữa. Không ai biết về đời tư của Hắc Bạch Đại Ca bởi dù có hỏi, đại ca cũng chỉ mỉm cười và hướng câu chuyện về Vô Thường và Sự Chết.

Khi ủy ban hình thành và đi vào hoạt động hiệu quả với số tiên thường trực là 55 vị luôn sẵn sàng khi cần, Hắc Bạch Đại Ca bàn giao mọi việc và biến mất không ai biết tung tích ở đâu. Tiên chúng nói rằng Hắc Bạch Đại Ca đã độ kiếp xong xuôi rồi nên trở về nơi Thiên Cổ. Để tưởng nhớ, kể từ ấy mọi nhân sự trong Ủy Ban Hỗ Trợ Vô Thường đều chỉ mặc đồng phục hai màu đen trắng. Và theo truyền thống, bất cứ thành viên nào của Ban khi làm việc hỗ trợ các linh hồn vừa qua đời, đều phải giới thiệu rằng mình là Hắc Bạch Vô Thường - sứ giả của sự Chết.

- - -

Câu chuyện này từ một vị trong số đó. Chuyện xảy ra không ở tiên giới mà cũng không ở dương gian, trùng trình trong cõi thân trung ấm (âm gian - trung giới - cõi lạc lõng của các linh hồn).

Một hồn vừa lìa xác vẫn đang lưu luyến nhìn những người vây quanh ngôi mộ trong đó có cái xác, mà trước kia chính là mình. Chưa biết sẽ phải đi đâu làm gì tiếp theo đây, bỗng giật mình thấy một vị thanh niên mặc áo trắng vô cùng tuấn tú đang đứng cạnh nói:

- Người ta thường không chấp nhận từ bỏ những gì là thân yêu nhất với mình. Anh đã hiểu đạo bác ái, đã coi cả thế gian đều như một, đều thân yêu như nhau không khác, sao còn lưu luyến mãi?

- Anh là ai?

- Hắc Bạch Vô Thường - sứ giả sự Chết

- Ồ! Tốt quá, đúng lúc tôi cần hỏi đường tới Thiên Đàng. Anh có biết liệu tôi có tới được đó hay không? Chắc anh chính là một thiên thần rồi.

- Thiên Đàng không phải là một nơi đến mà là một Trạng Thái Tâm Hồn. Anh có tới được hay không chỉ mình anh biết, và tôi cũng không biết đường lối tâm hồn của anh.

- Đường lối tâm hồn tôi là Jesus. Tôi tin chỉ một Chúa là Jesus Christ, Đấng Cứu Thế, Thiên Chúa làm người, Đấng Sáng Tạo ra cả vũ trụ này! Ngài chết vì tội lỗi của nhân loại trong đó có tôi. Ngài đã phục sinh trong quyền năng và tình yêu Thiên Chúa. Ngài sẽ trở lại để phán xét trong Ngày Công Phán ... Chỉ trong Jesus, linh hồn tôi an bình và thỏa mãn.

- Thôi thôi, anh học thuộc lòng thế được rồi. Anh bị người ta đánh đến chết mà vẫn không bỏ đạo, như vậy thực là một tín hữu kiên trung. Tiếp theo anh muốn làm gì?

- Làm gì? Chết rồi thì còn làm gì? Tôi chẳng biết làm gì tiếp theo nữa cả. Anh bảo tôi nên làm gì đây? Tôi chỉ biết cầu nguyện Chúa tha thứ cho họ vì họ không biết họ đang làm gì. Cầu nguyện cho thân nhân tôi có đức tin mạnh mẽ hơn qua cái chết của tôi. Cầu nguyện cho mọi sự thay đổi ...

- Anh còn đau không?

- Không! Hết rồi, chết rồi tôi chẳng còn cảm thấy đau gì nữa.

- Vậy giả sử anh chưa chết, thì anh sẽ làm gì tiếp theo?

- Tôi ... tôi vẫn sẽ tiếp tục truyền đạo. Khiến nhiều người khác tin vào Jesus Christ và sống cho Thiên Chúa...

- Vậy tốt rồi! Đi theo tôi, tôi kiếm chỗ này cho anh ngủ tạm một giấc đỡ mệt rồi tỉnh lại thì tiếp tục làm việc anh muốn làm.

Người nọ lưu luyến thở dài nhìn lại quê nhà và những gì thân thuộc, rồi với ánh mắt buồn bã mỏi mệt nhưng quyết tâm, anh gật đầu quả quyết: "Được!"

Thanh niên áo trắng bằng một phép dịch chuyển tức thời đưa người đó tới một nơi ngập ánh sáng, có một chiếc giường - là một tấm ván dường như cũng làm bằng ánh sáng. Người nọ ngả lưng và lập tức chìm vào giấc ngủ sâu nhẹ nhàng thanh thản.

Thanh niên áo trắng kết thúc công việc bằng một cử chỉ lạ, chạm tay lên chỗ trái tim người nọ trong giây lát. Như có phép lạ, luồng sáng rực phát ra nơi trái tim và cả linh ảnh người nọ tụ lại thành một khối sáng nhỏ chói lóa trong lòng bàn tay lạ. Điểm linh quang từ từ hòa vào ánh sáng chung trong không gian nọ. Mắt thường chỉ thấy một sắc chói lòa.

Thanh niên áo trắng ra khỏi nơi tràn ngập ánh sáng đó và lập tức tới một nơi khác, để hỗ trợ một linh hồn khác. Áo trắng đã thần kỳ đổi thành màu đen từ lúc nào. Và đây là vài lời khác với linh hồn hắc ám:

- Anh muốn làm gì tiếp theo?

- Cút mẹ anh đi! Sao anh cứ phải ngăn cản tôi?! Liên quan gì đến anh? Tôi muốn kéo lũ chúng nó chết cùng.

- Chết cùng rồi làm gì tiếp theo?

-  ... Lúc đấy hẵng tính!

- Chẳng phải gia đình đã tốn bao nhiêu tiền cầu siêu cho anh suốt thời gian qua rồi sao? Sao anh vẫn cố chấp như vậy?

- Tôi không tin! Không tin có cái nơi *éo* nào là Tây Phương Cực Lạc hay Địa Ngục Vô Gián. Nếu có anh thử dẫn tôi đến đó xem.

- Được, bây giờ anh chọn đi, chỉ được chọn một trong hai thôi. Cực Lạc hay Khổ Đau, rồi tôi sẽ đưa anh tới xem thử một nơi. Tới rồi thì anh phải ở lại đó một thời gian, tôi sẽ không theo anh nữa vì tôi còn việc của tôi.

- Tốt! Chỉ mong anh bớt lải nhải dạy khôn đi. Bớt lo chuyện bao đồng đi. Bây giờ tôi nói tôi muốn tới chỗ Khổ Đau, để biết còn ai đau khổ hơn tôi không đó. Anh có giỏi thì làm ngay đi.

- Nhắm mắt lại, tập trung vào sự khổ đau mà anh đang cảm thấy, những điều làm anh đau khổ nhất. Tôi cần thực hiện một phép thuật nhỏ.

Khi người nọ nhắm mắt, một luồng sáng chợt lao vào một nơi đen tối sâu hút. Có đầy những ánh lửa to nhỏ lập lòe, bập bùng trong không gian đen tối rùng rợn. Cứ chốc chốc một ngọn lửa lại ánh lên hoặc lụi tắt bất chợt. Những ngọn lửa ở cạnh nhau nhóm vào nhau thành từng khóm lửa lớn với nhiều màu sắc hư ảo.

Người nọ mở mắt và cố thoát ra khỏi cảnh rùng rợn này. Anh ta hỏi:

- Đây là nơi nào?

- Địa Ngục! Hỏa Ngục.

- Nói dối, tôi không tin! Làm gì thấy ai ở đây?

- Mỗi ngọn lửa mà anh nhìn thấy đó chính là các linh hồn cũng đau khổ giống như anh hoặc hơn anh.

- Hừ! Dọa trẻ con thì được!

- Tôi không dọa đâu. Là sự thực, nếu anh đến gần một ngọn lửa kia, anh sẽ nghe thấy họ khóc và nói chuyện. Đừng sợ bỏng, vì bản thân anh cũng là một ngọn lửa rồi.

Người nọ nhìn chính mình thấy bản thân đang bốc cháy, ngạc nhiên và sợ hãi nhưng không nói gì hơn.

- Anh hãy ở đây đến chừng nào ngọn lửa trong anh dịu lại, khi ấy tự khắc sẽ ra khỏi nơi này. Tôi phải đi rồi.

Nói xong thanh niên biến mất.

Hai câu chuyện nhỏ trên đại khái miêu tả công việc của các vị đại diện cho Hắc Bạch Vô Thường, hỗ trợ các linh hồn qua những giai đoạn thay đổi. Kể ra thì có nhiều chuyện dài và hấp dẫn hơn. Đặc sắc là những chuyện cải tử hoàn sinh - là những trường hợp ngoại lệ, mà Hắc Bạch Vô Thường theo nguyên tắc chung xưa nay:

Hễ một linh hồn vừa rời khỏi thể xác, nội trong thời gian hạn định với những điều kiện thích hợp, mà có một người hay nhiều người với tín tâm mãnh liệt và Tình Yêu Vô Hạn, cầu nguyện tới Đấng Thiên Cổ giúp người đó sống lại. Thể theo ý nguyện của linh hồn chủ thể đó, Hắc Bạch Vô Thường sẽ đưa hồn nhập lại vào thể xác. Đây là những trường hợp hi hữu, mà người hộ niệm có Đức Tinh tuyệt đối, từ trường trái tim rộng lớn, sự chân thành và đức độ lắm. 

Friday, August 25, 2023

C73: Dòng Chảy Vô Ngã

 Chương 73: Dòng Chảy Vô Ngã


Tình Yêu là gì? Phải chăng là một Sự Tình Kỳ Dị mà Luân Hồi Đời Đời mãi mãi? Phải chăng là Khổ Đau hay Cực Lạc phương nào?

Chẳng ai nói cho ai, cũng không ai có khả năng và thẩm quyền giải thích cho ai về Bí Mật Sự Sống, về Đấng Thiên Cổ Hằng Ngự trong Tình Yêu Công Bình Tuyệt Đối. Tình Yêu này khiến một cái cây ra hoa kết hạt, và mỗi một hạt lại chứa toàn bộ sự sống tiếp nỗi mãi mãi. Hạt rơi xuống, con người thu hoạch, con chim tìm ăn, con kiến tha về. Con kiến có khi lượm được những hạt to mẩy nhất, còn con người chỉ thu được những hạt bé xíu để làm giống cho mùa vụ sau. Vậy là Tình Yêu Công Bình không hề thiên vị, dù là con người hay con kiến, mọi hạt Tình vẫn được thiên nhiên ban phát hào phóng và bình đẳng những gì là tốt nhất, không kể tầng lớp hay thứ bậc. Không phải những vật phẩm tốt nhất thì dành riêng cho một loài. Đối với Tình Yêu Công Bình Tuyệt Đối, tất cả đều như nhau.

Một vòng sinh hay diệt của Quả Địa Cầu hay hai vầng soi sáng, phải chăng là khởi đầu hay kết thúc, đầu tiên hay cuối cùng của Thế Giới Hồng Trần? Không phải!

Trong Khoa Học Thực Nghiệm, người ta đã quan sát thấy "Dòng Chảy" vật chất vận động không ngừng, dù vật chất lớn hay nhỏ, có cấu trúc tạm thời đặc và rắn chắc đến đâu. Tinh thần chung của Khoa học vật lý hiện tượng là chỉ tin, chỉ xem những gì rành rành thực chứng là chân lý. Có nhà khoa học khẳng định rằng mọi vật chất hay tinh thần luôn không ngừng vận động, không ngừng chuyển biến từ dạng này sang dạng khác. Mọi sự tồn tại "vật chất" chỉ là tạm thời ở dạng này hay dạng khác. Như vậy cũng tương tự, nếu coi Tâm Linh - Tinh Thần là một dạng vật chất khó thấy bằng mắt thường (vật chất không thể thấy không có nghĩa là nó không tồn tại, người duy tâm còn cho rằng Tâm Linh là tột cùng tối thượng, sinh ra trước vạn vật và sinh ra vạn vật...) thì tinh thần chỉ tạm thời ở dạng này hay dạng khác, và luôn không ngừng chuyển biến vận động. Thế giới vật chất phong phú một, thì thế giới tinh thần phong phú gấp một trăm, một nghìn lần...

Sự sống này chỉ thay đổi mà không mất đi. Vậy thử hỏi sau bao lần sự sống vật chất hay tinh thần của vạn hữu thay hình đổi dạng, đại tạ tân trần, thông thường gọi là "chết"... thì vạn hữu có thể và có nên nhớ về dĩ vãng, biết về chuỗi quá khứ đã bao lần thay đổi, bao sự đã qua hay không?

Vô Ngã tức là không có bản thể tồn tại "của" mình - là bài học cơ bản trong mọi vật chất nguyên tử, mọi sự mọi vật từ Khởi Thủy cho đến Vô Cùng đều mang bản chất và chân lý này. Quả Địa Cầu vô ngã khi tan rã hết một kiếp của nó, sự sắp đặt và ý muốn của những Đấng Cao Cả sẽ khiến nó phục sinh theo một cách nào đó, thậm chí trở thành một Mặt Trời hay Mặt Trăng cho hành tinh nào khác. Mãnh lực kéo nó vào một quỹ đạo mới, chỉ có những bậc thượng tiên mới liễu hiểu.

Thế giới vật chất hồng trần được tạo ra để chúng chúng sinh linh học hiểu nhuần nhuyễn bài học Vô Ngã - Vô Kỷ, ở mọi cấp độ và dưới mọi hình thức. Bất kể thời gian là bao lâu, không gian là nơi nào. Quả Địa Cầu tan rã thì lại có một nơi khác, một Tinh Cầu khác, môi trường học tập khác. Như thế sự học trong thế giới hồng trần cứ kéo dài vô tận.

Ấy là phỏng đoán và dự trù của những vị tiên đã có tuổi sánh cùng trời đất!

Còn đối với phàm nhân, thường thì một người không mấy khi nghĩ đến chuyện trời ơi đất hỡi như vậy. Những suy nghĩ quanh quẩn từ sáng đến tối chỉ là hôm nay ăn gì uống gì, làm gì để sinh kế qua ngày hay xa hơn thì làm sao để "tích" Đức cho giàu có Phúc Đức. Để rồi còn được: Có Đức thả sức mà ăn tiếp...

Cái ăn đã trở nên quan trọng hơn tất thảy. Dĩ nhiên, nhu cầu thải ra những gì đã ăn cũng là lẽ sống. Chỗ thải làm sao để cho tiện, cho đẹp, cho "vệ sinh" sạch sẽ cũng là cả một lĩnh vực đòi hỏi nhiều cái đầu suy nghĩ. Rồi ăn khôn hay ăn dại, ăn nhanh hay ăn chậm, cũng là phong tục, theo mốt mỗi vùng, theo thị hiếu mỗi thời. Những món ăn chơi bời cũng khác với những món ăn chính yếu. Nhiều món ăn xong thì quay cuồng lộn lạo, không tốt cho sức khỏe chút nào, nhưng người ta vẫn cứ ăn, bởi vì bầy đàn ai cũng ăn thế. Nếu người ta ăn mà mình không được ăn thì thèm, thì bứt rứt không yên. Những món đơn giản, tốt lành, ăn vào là thấy khỏe liền, thì người ta kêu chán. Vì quả thực những điều giản đơn bao giờ cũng dễ nhàm.

Thần Tiên thì không nói tới chuyện ăn uống, bởi vì mọi vật chất hữu vi trong Đại Thiên Thế Giới Hồng Trần đã trở thành một dòng linh khí tuôn chảy không ngừng xuyên qua mọi tầng không. Dòng khí này chính là dinh dưỡng đặc thù mà bất cứ một vị tiên nào một khi đã ăn đủ, thì không bao giờ còn cảm thấy đói khát hay thèm thuồng bất cứ thứ gì nữa. Bởi nguồn dinh dưỡng chất lượng và vô hạn này mà Thần Tiên bất tử.

Và dĩ nhiên, không hề có suy nghĩ tích "đức" để đời sau, đời sau và sau hơn nữa còn được ăn cho thỏa, được hưởng cho sướng, cho đỡ khổ cái thân mình hay con cháu mình... Đây là suy nghĩ rất "trẻ con" và "nông cạn" của phàm nhân mà thôi. Nói thế không có nghĩa là Tiên Chúng bài xích hay chê cười những nỗ lực hành thiện tích đức kim cổ. Chỉ là Đức vốn không thể tích, vốn là vô kỷ, vốn là vô ngã, vô hạn ... quả thực là vô sở mà thôi.

Những chuyện Vô Lý xưa nay trong trời đất, có thể hiểu chung quy một cách nhanh gọn và dễ dàng là "Lý Vô" - Lý Không. Chính bởi bản chất là Không cho nên mọi sự rối rắm vốn không cần thiết phải là chấp chi nhất nhất.

- - -

Những chuyện thần tiên này quả thật nhảm nhí huyễn tưởng, quả thật khó mà tin được. Chỉ là sự vô căn hỗn hào, chắp nối nào đó. Nhưng cứ coi 99,9% những gì được nói đến là bịa đặt đi, thì cũng có thể lắm chứ 0.1% ấy biết đâu lại là sự thật. Kỳ lạ hơn nữa, biết đâu 100% mọi sự thật tồn tại trong thế giới Hồng Trần này lại là một Đại Hư Cấu của Tạo Hóa Vô Biên nào đó. Sinh ra từ Hư Không Vĩnh Diệu thì cũng sẽ trở về Không Hư - Không Mất - Không Thế Giới - Không Cùng đó.
 
Có lẽ chỉ vài người trong vạn người tin nổi việc: Thiên Đế - Thượng Tiên Nhất Phẩm đầu thai nơi Hồng Trần cũng chính là giáo chủ mở đường cho hàng loạt các tôn giáo đã và đang dựa trên tín ngưỡng cổ xưa để tổ chức làm ăn sinh lợi ở trần gian: Phật Giáo, Công Giáo, Hồi Giáo ... và tới đây có khả năng là "Dị Giáo" ...

Chuyện cơ mật đến độ nhảm nhí xằng bậy này quả thực không nên truyền bá. Nếu người đời mà biết được thì thử hỏi thiên hạ sẽ đại loạn đến đâu? Nếu giả như 0,1% điều được nói ở đây là thật, ông vua xây Taj Mahal có nhiều tai tiếng kia lại chính là Thiên Đế rảnh rỗi sinh nông nổi đã hack nick "đăng nhập" vào tài khoản hồng trần. Mà với điều kiện là phải chịu khế ước "vô minh" bất khả kháng của Ma Đạo trong Ma Trận Hồng Trần. Thiên Đế ở thiên giới, ăn đòn chịu tội thay cho một kẻ lân cận thì đã đành, khi tới hạ giới lại ăn đòn "chịu tội thay", để xóa tội cho cả nhân loại như theo Đạo Thiên Cổ ở trần gian tin chắc! ...

Đau quá hóa cuồng, yêu quá hóa dại .. Chứ năm xưa Thế Tôn lúc còn "tỉnh táo" đã hùng hồn tuyên thuyết về việc chấm dứt diệt trừ "Ái Dục" vì nó là nguồn gốc khổ đau. Cơ mà ngẫm ra phương án diệt trừ đó cũng có nhiều muâu thuẫn bất cập. Vấn nạn giáo dục cũng không phải một sớm một chiều giải quyết xong béng được.

Nếu bạn đọc có trí tưởng tượng liên hệ kết nối thêm một "kiếp" hay "vài kiếp". Hoặc thậm chí làm phép "phân mảnh linh hồn" theo kiểu siêu tưởng, siêu thực: Coi Chân Thần ai đó trong khoảng thời gian không gian hạn hữu nào đó, phân chia làm 10 hay 100 sinh mệnh con người đồng tồn tại một lúc, ở khắp nơi, dưới vô số danh sắc hình hài. Thì sự rối rắm rách việc còn đi tới đâu?

Kiểu tri kiến này tuyệt nhiên khó chấp nhận đối với những ai có cái nhìn đóng định, dập khuôn, hạn hẹp. Có khi họ còn cho rằng chỉ những kẻ tâm thần, "bệnh điên" mới suy nghĩ như vậy. Cố chấp vốn là quán tính và duy niệm của sinh mệnh hồng trần. Khi đăng nhập vào thế giới vật chất này, linh hồn đã mặc định khoác lên mình những chấp niệm từ tổ tông. Cũng mặc nhiên u mê vô minh trong trùng trùng điệp điệp tín điều đan xen giăng mắc.

Hồng Trần vốn như những lớp màn che vô minh - mù mờ khó tỏ. Che linh hồn hay mắt thịt khỏi thấy Sự Thật Tột Cùng. Mọi sự, mọi tri kiến, ý hiểu nơi này vì thế đều không là tròn đầy trọn vẹn. Chỉ cho đến khi người ta thức dậy sau giấc ngủ Hồng Trần - có nghĩa là rời bỏ xác thân vật chất và vía trí hạn hẹp, những tri kiến trí thức "tích lũy" được sau bao kiếp đời lăn lộn ... Chỉ cho đến khi ấy, những bức màn che nọ mới dần được vén mở.

- - -

Mấy chương sau sẽ nói về những lời tiên tri, những huynh đệ hắc đạo, Đại Ca Hắc Bạch Vô Thường và "sự cứu chuộc" của Sáng Thế Chủ thông qua sự kiện - sự cố đóng đinh "chịu tội thay cho cả nhân loại". Bởi đây là tiểu thuyết huyền huyễn thể loại thổ tả khó tỏ nên mong bạn đọc thông cảm cho mọi sự chậm chễ hay cẩu thả ra lò.

Lưu ý: Tác giả không phải là thần tiên mà chỉ là phàm nhân bình thường. Mọi dữ liệu nơi đây chỉ mang tính hư cấu tham khảo.





Saturday, August 12, 2023

C72: Dĩ Vãng Vô Thường

Chương 72: Dĩ Vãng Vô Thường

Mấy mươi năm sau khi ông vua xứ nọ qua đời, có một nhà sư bất đắc dĩ "sinh vì Phật, sống vì Tình". Chuyện đời nhà sư si tình ấy nhuộm chất ngôn tình khiến hậu thế có kẻ còn đùa rằng: "Khi bạn sinh ra là một thằng đàn ông bình thường nhưng đời lại bắt làm Lạt Ma..."

Ở đây xin không đề cập tiếp đến Thương Ương Gia Thố - vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 6 ở đất Tạng, mà vẫn xoay quanh câu chuyện về ông vua xứ Ấn: Shah Jahan, người đã chủ tâm xây dựng lăng mộ Taj Mahal như trong chương trước.

- - -

Ngoài việc nổi tiếng về sự giàu có và quyền lực bậc nhất thế giới lúc bấy giờ, Shah Jahan còn nổi tiếng về những đàm tiếu và bê bối đời tư. Ai cũng biết lúc người vợ yêu qua đời, nhà vua khi ấy mới 40 tuổi, độ tuổi còn trẻ đối với một ông vua. Sau khủng hoảng vì cái chết của người vợ, Shah Jahan đã hóa cuồng theo nghĩa đen mà nói.

Sử sách ghi lại một cách bóng gió, nói giảm nói tránh, chỉ nói là vua yêu người con gái ruột này nhất, và nàng nắm quyền kế vị hoàng hậu. Cả thiên hạ lúc bấy giờ bán tín bán nghi, cả hậu cung sục sôi mâu thuẫn. Lời đồn sớm được công nhận là sự thật, về hôn sự "không chính thức" giữa nhà vua và con gái ruột của mình - Jahanara. Vị công chúa này là con gái lớn của Shah Jahan và người vợ yêu đó. Khi mẹ qua đời, công chúa vừa tròn 17 tuổi, và đặc biệt xinh đẹp giống hệt người mẹ quá cố ... từ dáng vóc đến khuôn mặt, tính tình, trí tuệ.

Không lâu sau, Jahanara trở thành thế thân của mẹ, tức là vợ của cha mình. Không ai dám bàn cãi sự việc này bởi những ai hé răng thì đã tự chuốc họa vào thân theo cách nào đó. Khi ấy có nhà sử học người Pháp du lịch tới xứ nọ, rất ngạc nhiên và đặt câu hỏi thì vua biện luận rằng: "Sao người trồng cây lại không được ăn trái quả do chính mình đã gieo hạt?!" Người ấy cứng họng không biết nói gì hơn, đành ghi lại vào cuốn sổ du ký nguyên văn câu nói đó. Mấy trăm năm sau vẫn có người tin người nghi, người nói rằng tất cả những đồn đại loạn luân đó chỉ là hư cấu để bôi nhọ vị vua vĩ đại của đất nước họ, xỉ nhục văn hóa của nước họ, hạ thấp nhân cách của dân tộc họ...

Có bột mới gột nên hồ. Nếu không có quan hệ mờ ám nào đó giữa Shah Jahan và con gái ruột thì ai dám bịa đặt sự việc động trời đó. Sự thật là công chúa Jahanara cả đời không xuất giá, luôn ở bên cha mình cho tới tận lúc ông qua đời. Kể từ năm 17 tuổi tuổi, Jahanara là nữ vương có thực quyền và tài năng hơn tất thảy những anh chị em còn lại. Ở tuổi đôi mươi bà được sở hữu cả con dấu của vua, ngân khố quốc gia một tay bà quản lý. Bá quan văn võ phải xin ý của bà trước khi xin ý của vua nữa. Tóm lại vua đã giao toàn bộ quyền hành cho bà. Jahanara không lấy chồng cũng vì không muốn vương quyền lúc bấy giờ bị phân tán và li khai vào tay "người ngoài". Tuy bà vẫn mua thuyền và buôn bán xuất nhập khẩu với nhiều nước Châu Âu và là một nhà tài trợ rất hào phóng cho giáo dục và từ thiện.

Bê bối tình cảm và tình dục giữa Shah Jahan và con gái không ảnh hưởng đến việc xây lăng mộ Taj Mahal. Công trình này rốt cục cũng hoàn tất, chứng minh cho "tấm lòng" hay "tình yêu" của vua với hoàng hậu, trơ trơ cùng tuế nguyệt. Hai năm sau khi hậu qua đời, vua vẫn đau buồn và chìm đắm trong ảo giác, ai nấy biết việc này và đành tặc lưỡi thông cảm cho mọi chuyện khác. Không thể trách một vị vua quá si tình, vì quá nhớ thương người vợ cũ, lại luôn nhìn thấy hình bóng ấy trong con gái ruột kề cận mỗi ngày...

Chuyện gì tới cũng tới, khi Jahanara mang thai. Nhà vua đã ngang nhiên đề xuất hôn lễ cho chính mình và con gái ruột, song hội đồng nguyên lão và tòa án kịch liệt ngăn cản. Hôn lễ chính thức không bao giờ được tổ chức song ai nấy đều đổ mồ hôi hột về tương lai của đứa trẻ. Sự lo xa không cần thiết, bởi nội cung đã dậy sóng từ lâu. Những bà vợ còn sống của vua đã phải cắn răng chịu đựng từ thời mẹ của Jahanara được độc sủng. Nay đến cả con gái ruột của bà ta cũng càn rỡ như thế... Thê thiếp có phải là thiếu đâu mà lấy cả con mình?

Cây kim trong bọc còn có ngày tòi ra nữa là một sự rành rành như thế. Bao âu yếm ôm hôn ngay trước đại chúng, có mù cũng thấy đây không phải tình cha con bình thường. Vậy là đứa con do Jahanara sinh ra, vốn khỏe mạnh nhưng chết ngay sau đó ít lâu.

Làm cách nào để khiến một đứa trẻ sơ sinh chết yểu thì không quá phức tạp, và ai là người trực tiếp hay gián tiếp giết hại nó cũng không phải chịu truy cứu, bởi trong ngoài đều thở phào nhẹ nhõm như vừa trút được gánh nặng tày đình. Vua cũng buồn nhưng còn người còn đẻ tiếp... Hậu cung chỉ ghi chép đại khái, cũng chẳng nói tên đứa trẻ, mà chỉ nói "một hoàng tử qua đời khi vừa sinh, không rõ mẹ". Một vài hoàng tử hay công chúa khác cũng chết yểu, không rõ mẹ... Chuyện giết con vì ghét mẹ, giết con để mẹ mất địa vị ... là chuyện thường tình như cơm bữa ở hậu cung vua. Giết một người trưởng thành mới khó chứ giết trẻ con non nớt thì khó gì!

Có lẽ sau hai năm đau buồn, ông vua nọ cũng nguôi ngoai đi nhiều. Bao nhiêu công việc cần dàn xếp, bao nhiêu thê thiếp cần chu toàn, bao nhiêu trách nhiệm làm chồng làm cha đặt lên vai, còn cả một giang sơn mỹ nữ... quên đi người cũ cũng không phải là không thể. Xây lăng mộ cho đẹp thì cứ xây đó, chứ sống là sống mà chết là chết, không thể sống cũng như chết được.

Về Jahanara vị nữ vương quyền lực, ngay khi tròn 30 tuổi, có một ngọn lửa lớn bùng lên và thiêu cháy bà, gần như suýt chết. Dung nhan từ đó trở đi không còn như xưa nữa. Tuy thuốc hay thầy giỏi khắp nơi được mời tới, cơ thể bị bỏng 90% bởi ngọn lửa lớn không thể phục hồi toàn bộ. Không rõ tai nạn này là tình cờ hay cố ý sắp đặt của kẻ nào, chỉ biết là rốt cục mối quan hệ vừa cha vừa chồng kia cũng không thể kéo dài mãi mãi.

Jahanara vẫn kiên trung, thành ý với cha không hề thay đổi. Ngay cả khi cuối đời cha bị giam một chỗ trong suốt 7 năm trời, chính bà là người duy nhất chăm sóc và bầu bạn với cha mỗi ngày. Mặc dù cha luôn nói nhìn thấy hình bóng mẹ nàng qua nàng, và luôn ca ngợi người ấy, nàng đã sớm không để tâm. Đã tin rằng mình và mẹ mình là một. Nước mắt sớm ngừng rơi khi nghĩ về Tình Yêu hay Tình Dục trong đời.

Jahanara chìm trong cõi Tinh Thần cùng Thượng Đế, trong những lời kinh luân trầm của đời khổ đau hòa cùng cực lạc. Nàng sớm đã coi thiện và ác, đúng và sai là đồng minh hòa hợp, cũng như cha và con ... là một sự hợp nhất theo nghĩa đen chẳng kể ngại ngùng.

Này phải chăng là Tình Yêu và Tận Hiến? Cuộc đời nàng là bi kịch hay hài kịch, quyền lực hay con rối, bổn phận hay nghĩa vụ, hay một sự tự nguyện trao phó vào quyền năng cao cả nào? Ai cứu rỗi những kẻ như nàng, giàu sang tột bậc nhưng nghèo khó một sự tự do khỏi thân phận nữ nhi, thân phận vô thường? ...

Xin để phần còn lại của cuộc đời Jahanara cho người đọc suy ngẫm và truy tìm. Không ai có quyền lựa chọn nơi sinh ra, hoàn cảnh sinh ra? Biết đâu, dù không lựa chọn cũng đã là một lựa chọn.

Sự thật lịch sử Jahanara chọn không lấy chồng, vì không tìm được ai ưng ý, vì lý do chính trị, ... hay vì cha đã là chồng luôn rồi... Truyền thuyết, huyền sử hay chính sử vốn bùng nhùng, như một giấc mơ ly kỳ, đan xen bởi nhiều mộng cảnh, ước mơ rời rạc hay nối kết, liền mạch.

Khi người ta tỉnh mộng thì mấy ai lưu tâm còn nhớ? Dù có cố để nhớ thì cũng vẫn chỉ là mờ ảo đã qua một thời, chẳng còn sinh động hay chính xác. Liệu có đáng để tự hào hay xấu hổ, đáng để tôn vinh hay ngợi ca những gì là dĩ vãng? Taj Mahal cũng chẳng phải là kỳ quan hằng sống.

Chỉ có một Sự, một Điều, đáng để ngợi ca vinh quang mãi: là Đấng Hằng Sống trong hiện thực, hiện tại, hiện diện khắp cùng ...

Chỉ những ai yêu Ngài, mới xứng đáng nói về Tình Yêu - một phẩm tính chân thực, cao thượng, giản dị và Thiêng Liêng Vô Hạn...


 


 
 



Thursday, August 10, 2023

C71: Taj Mahal

Lăng Mộ Tình Yêu


Tình Yêu của các bậc vua chúa thì bao giờ cũng đi kèm với những gì là thượng đẳng sa sỉ. Tốn kém bao nhiêu, một khi đã quyết là làm đến nơi đến bến…


Taj Mahal là một kỳ quan nổi tiếng đại diện cho Tình Yêu kiểu bất khả tư nghì như vậy. 


Khoan nói về các khoản phí, vốn được lấy từ thuế má của mọi tầng lớp từ quý tộc đến dân đen con đỏ đói khổ nghèo hèn … để ông vua yêu vợ, xây lăng dựng mộ cho vợ trong suốt 22 năm. (Khởi công xây dựng lăng mộ ngay khi hoàng hậu qua đời năm 1631 - hoàn thành cả công trình Taj Mahal năm 1653). Lăng mộ này trở thành kiệt tác “di sản thế giới” bởi kết tinh những đặc sắc kiến trúc và nghệ thuật …


20.000 công nhân, thợ thủ công khắp thế giới và hơn 1.000 con voi chở vật liệu đã tham gia xây dựng, khắc tạc nên từng nét tinh tế cho ngôi đền. Lúc đầu, lăng mộ có tên là Tat Bibica Rauza, nghĩa là “nơi chôn cất Nữ hoàng của trái tim”, sau này mới có tên là Taj Mahal, tiếng Ba Tư có nghĩa là “Vương miện của người Mogol”.


Công trình kiến trúc Taj Mahal được coi là hình mẫu tuyệt vời của thời đại Mughal với phong cách tổng hợp từ kiến trúc Ba Tư, Hindu, Hồi giáo và được coi là biểu tượng của thế giới Hồi giáo.


Toàn bộ công trình được xây dựng bằng đá cẩm thạch trắng, được chạm trổ tinh xảo từng chi tiết, thể hiện trình độ kiến trúc điêu khắc bậc thầy thời bấy giờ.


Có truyền thuyết kể rằng nhà vua đã chặt tay toàn bộ những người thiết kế và giám sát thi công để không bao giờ họ có thể thiết kế ra kỳ quan thứ hai kỳ vĩ như thế này nữa. Mồ hôi và máu của biết bao con người xây dựng nên “cung điện vương miện” này phải gánh chịu để cho ánh hào quang của ngôi đền tượng trưng tình yêu thiêng liêng lung linh mãi mãi. Vua Shah Jahan vì quá yêu vợ mà tạo nên một kỳ quan cho nhân loại. Lúc cuối đời, năm 1658 vua ngã bệnh và bị con trai ruột giam lỏng cho đến lúc chết vào năm 1666. 


Mặc dù Shah Jahan là tín đồ Hồi giáoẤn Độ giáo rất được ưa chuộng; hội họa và văn học phát triển. Có thể thấy điều này ngay trong quần thể lăng mộ Taj Mahal.


Các trang trí bên ngoài đền Taj Mahal được đánh giá là những trang trí đẹp nhất thời vương triều Mogul. Một chi tiết trang trí nổi bật chính là các dòng chữ pishtaq nổi tiếng. Các chữ pistaq phía dưới được viết nhỏ hơn phía trên để khi từ dưới nhìn lên, ta có cảm tưởng là các chữ này to bằng nhau. Chúng được viết bằng sơn, hoặc bằng vữa, hoặc bằng đá khảm hoặc đơn giản hơn là chạm khắc thẳng vào vách tường.

Các đoạn văn trên tường đền Taj Mahal được viết theo kiểu Thuluth, một kiểu chữ rất đẹp và bóng bẩy do Amanat Khan tạo ra. Chúng được khảm bởi các loại đá quý như đá hoa và cẩm thạch, đặc biệt các đoạn chữ viết trên bệ đá cẩm thạch của đài tưởng niệm trong đền lại càng chi tiết và thanh nhã hơn. Một số đoạn văn bản trong kinh Koran cũng được trang trí trên tường đền, tương truyền rằng đích thân Amanat Khan đã chọn những đoạn này.


Khi bước vào cổng Taj Mahal, có một dòng chữ viết như sau: O Soul, thou art at rest. Return to the Lord at peace with Him, and He at peace with you. (tạm dịch là: Này linh hồn, bạn đang yên nghỉ. Hãy trở về bên Thượng đế, bình yên với Ngài, và Ngài sẽ bình yên với bạn.)


Nằm giữa một bệ đá cao 7 mét, lăng mộ bằng đá cẩm thạch trắng này phản chiếu màu sắc theo cường độ ánh sáng mặt trời hoặc ánh trăng. Nó có 4 mặt tiền gần như giống hệt nhau, mỗi mặt có một vòm trung tâm rộng cao tới 33 mét ở đỉnh và các góc nghiêng kết hợp các vòm nhỏ hơn.


Mái lăng hình vòm tròn bằng đá cẩm thạch trắng, xung quanh là 4 vòm tròn nhỏ. Bốn góc là 4 tháp nhọn cao 40m. Trong lăng được trang trí bằng nhiều tấm thảm khảm ngọc. Có những đường viền được trạm khảm bằng 12 loại đá quý. Lăng cao xấp xỉ 80m.


Taj Mahal được xây trên một thửa đất ở phía nam của thành phố cổ Agra. Khu vực có diện tích gần 3 acre (khoảng 12.000 m2) được đào lên, lấp đầy bụi để giảm thấm, và ở độ cao 50 mét (160 ft) so với bờ sông. Ở khu vực mộ, các giếng được đào lên và lấp đầu cuội sỏi để tạo móng cho mộ. Thay vì dùng tre chống đỡ, những người thợ đã xây dựng một giàn giáo bằng gạch lớn phản chiếu ngôi mộ. Giàn giáo rất to lớn theo ước tính mất khoảng vài năm để những người thợ tháo dỡ nó.


Theo truyền thuyết, Shah Jahan ra lệnh rằng bất cứ ai cũng có thể giữ những viên gạch lấy từ giàn giáo, và do đó nó đã bị những người nông dân tháo dỡ chỉ trong một đêm. 15 km (9,3 mi) đường dốc bằng đất đầm nện được xây dựng để vận chuyển đá cẩm thạch và các vật liệu khác đến để xây dựng công trình và các đội gồm 20 hoặc 30 con bà được dùng để kéo các khối đá trên các toa xe có cấu tạo đặc biệt.[27] Một hệ thống ròng rọc phức tạp được sử dụng để nâng các khối đá lên đến vị trí thiết kế. Nước được lấy từ sông bằng một loạt các purs, theo cơ chế dùng sức kéo của súc vật, đổ vào một hồ chứa nước lớn và đưa lên các bồn phân phối lớn. Nó được đưa qua 3 bồn chứa nhỏ hơn, từ đó cấp đến các phức hợp.


Các trụ và ngôi mộ mất khoảng 12 năm để hoàn thành. Phần còn lại của khu phức hợp mất thêm 10 năm và đã được hoàn thành theo thứ tự tháp, nhà thờ Hồi giáo và Jawab, và cổng. Vì phức hợp được xây dựng trong nhiều giai đoạn, nên có sự khác biệt về ngày hoàn thành do những quan điểm khác nhau về sự "hoàn thành". Ví dụ, riêng lăng mộ, về cơ bản hoàn thành năm 1643, nhưng công việc vẫn còn tiếp tục để hoàn thành những phần còn lại của khu phức hợp. Dự toán chi phí xây dựng có sự khác biệt do những khó khăn trong dự toán chi phí theo thời gian. Tổng chi phí đã được ước tính là khoảng 32 triệu Rupees tại thời điểm đó.[28]


Vật liệu xây dựng Taj Mahal được lấy từ nhiều nơi trên khắp Ấn Độ và châu Á và có hơn 1000 con voi được sử dụng để vận chuyển vật liệu xây dựng. Đá cẩm thạch trắng mờ được mua từ Makrana, Rajasthan, jasper từ Punjabjade và pha lê từ Trung Quốc. Turquoise từ Tây Tạng và Lapis lazuli từ Afghanistan, trong khi sapphire từ Sri Lanka và carnelian từ Ả Rập. Tổng cộng có 28 loại đá quý và bán quý được khảm vào đá cẩm thạch trắng.


Việc xây dựng Taj Mahal đã được giao phó cho một hội đồng quản trị của kiến trúc sư dưới sự giám sát của triều đình, bao gồm Abd ul-Karim Khan Ma'mur, Makramat Khan, và Ustad Ahmad Lahauri. Lahauri là kiến trúc sư trưởng. Quản đốc chính là nhà vua.


20.000 lao động được sử dụng từ khắp miền bắc Ấn Độ. Các nhà điêu khắc từ Bukhara, nhà thư pháp từ Syria và Ba Tư, người xếp lớp đá từ miền nam Ấn Độ, người cắt đá từ Baluchistan, một chuyên gia trong việc xây dựng tháp pháo, một người chỉ chuyên khắc hoa trên đá cẩm thạch, trong tổng số 37 người tạo ra tuyệt tác này. Một số thợ xây tham gia xây dựng Taj Mahal là:

  • Ismail Afandi (a.k.a. Ismail Khan) - trước đó làm việc cho Ottoman Sultan và được xem là một trong những người thiết kế mái vòm.[29]
  • Ustad Isa, sinh ở Shirazđế quốc Ottoman hoặc Agra – có vai trò quan trọng trong việc thiết kế kiến trúc và mái vòm chính.[30]
  • 'Puru' từ Benarus, Ba Tư – là người giám sát kiến trúc.[31]
  • Qazim Khan, người Lahore – cast the solid gold finial.
  • Chiranjilal - nhà điêu khắc trưởng và khảm đá.
  • Amanat Khan từ Shiraz, Iran – thư pháp trưởng.[32]
  • Muhammad Hanif – giám sát phần xây nề.
  • Mir Abdul Karim và Mukkarimat Khan của Shiraz – phụ trách tài chính và quản lý sản xuất hàng ngày.


Xem thêm các chi tiết khác tại: https://vi.m.wikipedia.org/wiki/Taj_Mahal


https://m.baophapluat.vn/den-taj-mahal-bieu-tuong-cua-tinh-yeu-bat-diet-post360547.amp


Có thể thấy ông vua này đã không hề tiếc tay vung tiền xây mộ cho người vợ quá cố, để thể hiện tình yêu có một không hai của mình.


Mộ của hoàng đế Shah Jahan và hoàng hậu Mumtaz Mahal màu hồng nhạt được đặt trong phòng lớn ở tầng hai và được trang trí bằng đá quý cùng nhiều hoa văn độc đáo. Trên khắp các bức tường và cánh cổng cầu kỳ, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy những đoạn văn ca ngợi người vợ quá cố và các đoạn kinh Koran nhà vua yêu thích cũng được lữu giữ lại.

Lăng tẩm vĩ đại này được xây bằng 35 loại đá quý cùng với những nguyên liệu đặc biệt đã được quy tụ về nơi đây, góp phần xây dựng nên đền gồm: ngọc bích và pha lê ở Trung Hoa, đá cẩm thạch ở Rajasthan, ngọc thạch anh ở Punjab cùng nhiều loại đá quý khác từ Tây Tạng, Sri Lanka, Afganistan và Ả Rập. Toàn bộ các bức tượng của lăng tẩm đều được lát đá cẩm thạch, tượng trưng cho sự thanh khiết của hoàng hậu. 


Sự tinh xảo trong lối kiến trúc xây dựng đền Taj Mahal được thể hiện trong chi tiết nhỏ với những cột đá cứ 3cm vuông là được chạm khắc 50 viên đá quý, sàn nhà được lát đá cẩm thạch chia ô bàn cờ đen trắng, 4 tháp cao khoảng 40m ở góc và vòm ở trung tâm, khu vườn rộng mênh mông (320m x 300m) với hồ nước ở giữa cũng được lát bằng đá cẩm thạch như một tấm gương phản chiếu hình ảnh lúc ẩn lúc hiện của đền Taj Mahal.

Đó là sự kết hợp hài hòa giữa tổ hợp của kiến trúc Ba Tư, Trung Á và Hồi giáo, gồm 5 khu: Darwaza (cổng chính), Bageecha (không gian vườn), Masjil (nhà thờ Hồi giáo), Naqqa Khana (nhà nghỉ) và Rauza (lăng Taj Mahal).


Chính vì thế, màu sắc ngôi đền biến đổi kỳ ảo trong ngày nhờ sự biến màu của các loại đá quý theo những thời điểm khác nhau tùy thuộc vào sắc nắng. Bình minh, ngôi đền phản chiếu ánh bình minh rực rỡ như được dát vàng. Trưa nắng, Taj Mahal ngời lên trong sắc ngọc trắng long lanh. Vào đêm trăng, những phiến đá cẩm thạch phát ra thứ ánh sáng bạc kỳ ảo mê hoặc lòng người hệt như viên pha lê giữa không trung.


Tất cả như đi đang phiêu lưu cùng vòng quay cung bậc cảm xúc, từ ngỡ ngàng với sự sang trọng và quyến rũ, ngẩn ngơ về sự lặng lẽ và kiêu hãnh, đến choáng ngợp bởi sự tráng lệ và trang nghiêm của ngôi đền.


Bên trong đền không lắp hệ thống ánh sáng, nhưng vẫn không thể nào lu mờ được nét tinh xảo từ đường cong mềm mại của những vòm cửa thanh thoát, nét thẳng thanh tú của những ngọn tháp tròn trịa và biến ảo khôn lường ở những họa tiết chạm khắc hoàn mỹ, tinh tế.


Và điểm đặc biệt riêng của đền Taj Mahal mà không nơi nào sánh được chính là dáng dấp và hình bóng của Hoàng hậu Mumtaz Mahal trong từng đường nét kiến trúc. Thiết kế của khu vườn dài như dáng người của Hoàng hậu, mái vòm như tấm khăn che mặt của bà, hình dáng ngôi đền như giọt nước mắt long lanh – biểu tượng cho tình yêu vĩnh hằng.


Tình yêu mãnh liệt khiến cho con người có thể làm mọi thứ để thể hiện tình yêu. Taj Mahal là minh chứng cho một trong những câu chuyện tình bất diệt. Bất kỳ ai từng có dịp tới thăm Taj Mahal, khi bước chân ra khỏi cửa, trong lòng sẽ vấn vương mãi và ao ước được trở lại đây một ngày nào đó với người mình yêu.


https://pystravel.vn/tin/4018-doi-dong-tan-man-ve-y-nghia-cua-den-taj-mahal-an-do.html



https://vnexpress.net/dieu-khien-taj-mahal-tro-thanh-kiet-tac-the-gioi-4044962.html



https://designs.vn/5-su-that-dang-kinh-ngac-ve-taj-mahal-mot-bieu-tuong-cua-an-do/



Cả trong Thế chiến thứ hai và chiến tranh Ấn Độ-Pakistan, giàn giáo đặc biệt đã được dựng lên để ngụy trang cho tòa nhà và bảo vệ nó khỏi các cuộc tấn công trên không.


Để giúp bảo vệ công trình trước các tác nhân từ môi trường, vốn đang biến Taj Mahal từ màu trắng sang màu vàng nâu, một khu vực rộng 4000 dặm vuông có tên gọi Khu Taj Trapezium (TTZ) đã được thành lập. Khu vực này có tiêu chuẩn khí thải nghiêm ngặt và phán quyết năm 1996 của Tòa án Tối cao Ấn Độ đã cấm sử dụng than trong các ngành công nghiệp nằm trong TTZ. Các công ty này hoặc được yêu cầu chuyển sang sử dụng khí đốt tự nhiên hoặc di dời ra khỏi khu vực được bảo vệ.


Taj Mahal là một trong những di tích được yêu thích nhất trong lịch sử. Trên thực tế, trong những năm gần đây, số lượng du khách đến Taj Mahal đã lên tới 8 triệu khách du lịch hàng năm.


Vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi nó nằm trong danh sách 7 kỳ quan thế giới mới, thay thế cho Bảy kỳ quan thế giới cổ đại. Cuộc thăm dò công khai để tạo ra danh sách đã thu hút được hơn 600 triệu phiếu bầu và khi người chiến thắng được công bố vào năm 2007, Taj Mahal đứng cạnh các kỳ quan khác như Vạn Lý Trường Thành của Trung Quốc, Petra và Machu Picchu như một Kỳ quan mới của thế giới.