Chương 67: Bạch Dương Thâu Viên
Trường quay có rất nhiều cảnh mà Đạo Diễn thường cận cảnh, đặc tả... Những phim hút khách ở hạ giới thì rất hay có những cảnh "nóng" như hôn hít gì đó. Thiên giới thì không thế. Cảnh nóng nhất trong chuyện liên quan tới A Đường đã qua rồi. Chính là cảnh uống máu ăn thịt. Mà cảnh đầy máu và nước mắt như thế thì chỉ khiến người ta rùng rợn lạnh gáy chứ chẳng thấy nóng ở chỗ nào.
A Đường vốn âm tính. Mỗi khi Thái Âm (Mặt Trăng) vào lúc cực thịnh, âm khí trong hắn bộc phát khiến cả hang động càng tràn ngập một vẻ lãnh khốc u tịch, tưởng như chẳng một hồn ma bóng quế nào dám bén mảng lui tới. Hôm ấy là ngày trăng tròn thứ bao nhiêu không rõ, một huyễn cảnh trong cơn mơ của hắn như thế này:
Trong Vô Cực Chi Không, mọi sự trống rỗng hoàn hảo. Không một sự hay vật gì hiện diện trong tâm hay trí hắn dù cố gắng hình dung hay nghĩ tới bất kỳ một điều gì, sự hay vật, hoặc người nào đó. Trống Không kia lớn lao quá đến nỗi gây sợ hãi. Không một bóng hình, không một hiện hữu, tuyệt đối đơn độc. Hắn khóc lớn, bởi không nhớ được bất cứ một điều gì đã từng xảy ra trong cuộc đời trần gian hay thiên thượng. Không biết hắn là ai, vì sao lại ở đây. Ai đã tạo nên linh hồn trống rỗng của hắn...
Tiếng khóc câm nín trong thinh lặng tột cùng, nên chẳng nhiễu phiền tới một cọng cỏ nào. Hắn ngồi dưới ánh trăng vằng vặc, mắt mở lớn nhìn chằm chằm vào hư không, nhưng không thấy bất cứ một điều gì hết cả. Toàn thân hắn đã lạnh băng và hơi thở cũng không có. Mái tóc rối tung đầy bụi đất và lá cỏ. Ở trong hang có hồ nước nóng nhưng hắn không tắm rửa đã bao lâu rồi không biết.
Bởi không nghe hay thấy bất cứ một điều gì trong cơn "nhập định" đó, hắn không biết Thiên Đế đã xuất hiện ngay trước mắt hắn khá lâu rồi. Ngài chờ hắn tỉnh lại song hắn đông cứng như cá đông lạnh, tròng mắt con ngươi cũng giãn ra như chết rồi. Thiên Đế bèn vứt hắn vào hồ nước nóng. Trực tiếp truyền sóng vi ba - hỏa quang tam muội khiến mặt hồ sôi sùng sục, đến cả hòn đá trong hồ cũng đỏ lên như tôm luộc.
Khí công cao tầng là thế, tầng công phu truyền nhiệt chỉ là tầng thứ bậc thường mà thôi...
Khi hắn tỉnh lại thì đã thấy Thiên Đế ngồi trên bãi cát, còn hắn ướt sũng trong hồ. Bèn cứ vậy áo quần ướt như chuột lột, bộ dạng lếch thếch mà bước tới. Vừa ngồi xuống, cả bãi cát nóng ran như đổ lửa. Chưa kịp nhúc nhích thì đã nghe Thiên Đế quát: "Ngồi im!"
Sức nóng hầm hập hong khô quần áo chỉ trong phút chốc. Bóng đêm dần qua nhường chỗ cho bình minh ló rạng. Hắn yên lặng ngắm nhìn Thiên Đế đang ngồi nhắm mắt như say ngủ. Mãi khi ngài mở mắt và bình thản nói: "A Đường, đúng đắn hay sai lầm của ngươi cũng là đúng đắn hay sai lầm của ta. Từ đây trở đi, bất kể ngươi làm gì, phải nhớ kỹ điều đó."
Hắn vẫn chưa hiểu đầu cua tai nheo thế nào. Còn đang nghĩ hôm nay là ngày sẽ được thả tự do, Thiên Đế sẽ giúp hắn ra khỏi nơi này... Bất chợt, thấy Thiên Đế ngay trước mặt hắn cất người bay bổng lên, bóng trắng từ từ ra khỏi vòm hang trong ánh nắng mới. Hắn sửng sốt không nghĩ ngợi được gì, cố tập trung tâm ý, niệm niệm bay lên bằng được, nhưng vô ích. Cứ thế lại một ngày dài nữa trôi qua vô vọng.
- - -
Văng vẳng lời nào đó như kể lể một huyền thoại xa vời, ở hạ giới đã có lần hắn từng thoáng đọc mà cười cho rằng không "khoa học":
Kể từ thuở mênh mông mờ mịt chưa chia, Trời Đất còn là một khối hỗn độn, Mặt Trời Mặt Trăng chưa phân, lúc đó Khí Tiên Thiên vô tận, Thánh Phật Tiên hòa cùng một thể, tỏa chiếu vô lượng hào quang xoay chuyển hư không.
Bởi vì địa vị tối cao nên được gọi là THƯỢNG ĐẾ. Vận chuyển tới mức tròn đầy, thì khí tự nhiên phân hóa thành “tam thanh” gồm: Ngọc thanh Nguyên Thủy Thiên Tôn, Thượng Thanh Linh Bảo Thiên Tôn, Thái Thanh Đạo Đức Thiên Tôn. Ba nhân tố “Huyền, Nguyên, Thủy” cùng chung một thể.
Ba cấp bậc khi đã nên sự, thì “tam thanh” phân chia biến hóa sanh hữu hình, khí thanh nhẹ thì bay lên cao, hội hợp làm Trời, mặt trời, mặt trăng và sự xuất hiện này đã hoàn thành tam bảo.
Thiên Tôn, vị ở tam thanh lại biến hóa Ngũ Lão: Đông Hoa Mộc Công, Tây Hoa Kim Mẫu, Nam Hoa Hỏa Tinh, Bắc Hoa Thủy Tinh, Trung Hoa Hoàng Lão, năm lão đã thành, ngũ hành lập xong, khí trược nặng lắng xuống, ngưng tụ thành đất.
Trời đất đã làm nên, nhưng còn thiếu loài người. Vua Trời thuở ban sơ, sinh ra Trời Đất hóa công, cố gắng vận dụng chân khí một cách âm thầm, để phân lập năm phương, thành hình thế giới, nhưng nếu không có con người, thì không thể nối liền tam tài, cho nên Ngài mới ra lệnh cho Ngũ Lão, đem các nguyên linh gieo trồng. Ngũ Lão sau khi nhận lãnh trách nhiệm, liền thúc đẩy Kim Mẫu, Mộc Công lo việc thai nghén các nguyên linh.
Hoàng Lão còn tuyển chọn vùng đất Đơn Khâu, thuộc núi Tu Di, mà kiếm hang động để Hoàng Thổ làm chỗ thụ thai. Thế là việc chế lọng tròn (Trời) đệm vuông (Đất) hay Trời che Đất chở xong xuôi. Mộc Công bèn nấu “ngũ kim”, lọc lấy tinh chất đúc đỉnh ba chân, Kim Mẫu nung “ngũ thổ” lọc lấy thần khí nặn lư Yển Nguyệt.
Sau khi núi nứt nẻ, tinh chất của nước đá Huyền Anh rỉ ra ứ đọng trong lư, liền bỏ chõ đất vào trong, úp đỉnh vàng lên mặt, rồi kiếm củi dâu phương Nam cùng vận dụng chân hỏa nung nấu, lát sau hơi nước ở giữa chốn thái hòa trong đỉnh, ngưng động biến thành nước rơi xuống đáy, khí thoát ra từ dưới bụng chõ lại bay lên, do đó mà nước luôn luôn thăng giáng, đầy ắp cả trong ngoài. Ngũ Lão có thể lặng lẽ mở đóng cửa huyền vi, ngưng kết đơn đầu chuyển đỉnh ấp chõ, ánh sáng tỏa ngập tứ phương, bảy ngày mới thâu hồi Hoàng Lão, Xích Tinh, Thủy Tinh tại chốn cao vời trầm mặc, đưa mắt thần theo dõi.
Kim Mẫu, Mộc Công lại tái lập bếp, đặt chõ lên trên đuổi khí lạnh giá đi, tỏa khí ấm áp xuống. Để thi hành cái tinh túy của Thái Ất, Mộc Công. Kim Mẫu dùng đạo “Kim Dịch luyện hình” để gìn giữ tĩnh dưỡng tinh thần, quên lo toan, bỏ tính toán sống hòa hài, phân định kỳ hạn của các tiết và mùa trong mỗi năm xong, thì mây ngũ sắc phủ đỉnh đầu, sương giọt tưới ướt đẫm mình núi Tu Di. Chợt nghe tiếng động cựa trong đỉnh Mộc Công, Kim Mẫu biết là đơn đã chín, mở nắp xem thấy có hai vật ấp nhau, liền đưa tay nhấc một vật lên xem, thì ra là tượng một hài nhi nam. Mộc Công nhấc vật còn lại lên coi, thì ra là một hài nhi nữ, hai người mỉm cười ra khỏi đỉnh luyện ngũ hành.
Hai con đỏ đó là Bàn Cổ và Thái Huyền Ngọc Nữ, cũng gọi là Á Dương hoặc Hạ Giai ở vào giai đoạn diễn hội giáng trần.
Con người vốn từ đất làm nên, đất nuôi đất dưỡng, cho nên khi chết lại trở về nguồn cội đất. Tạo lập cõi trần xong, anh nhi hài nữ giáng phàm thân thể vốn thanh tịnh, song vì ăn phải trái cấm, tính dục phàm trần kích động, âm dương giao hợp, cho nên loài người từ đấy sinh sản không ngừng.
Lúc chính khí của ngũ hành sinh ra người, khí của nó tiết ra ngoài phân tán khắp gầm Trời, mà sinh ra các loài sinh động, thực vật cùng các giống bay, lặn. Còn như ngũ kim, thảo mộc, nước sông biển, điện quang thạch hỏa, các loại động vật, bụi đất đó đều là nguyên do sự tích nặn đất thổi khí thành người.
Lý do Vô Cực Nguyên Thủy chỉ nhất động mà sinh ra Thái Cực. Thái Cực bao hàm lưỡng nghi âm dương rồi biến thành tam tài (trời, đất, người), tứ tượng, ngũ hành v.v… nhất bản tán vạn thù, cho nên gọi là chúng sinh. Cũng còn kêu là chín mươi sáu ức nguyên linh, ý nói Trời là chín, Đất là sáu bao la vô cùng vô tận, không chỉ giới hạn có chín sáu ức mà thôi.
Ngũ Lão thai nghén sinh sản ra các nguyên linh, cũng vận chuyển chân khí thành ra người đầy đủ ngũ tạng, ngũ khí thịnh được là nhờ công của Ngũ Lão. Loài người trên trái đất màu da không giống nhau, là do ảnh hưởng bởi năm sắc của năm phương: Đông màu xanh, Tây màu trắng, Nam màu đỏ, Trung màu vàng, Bắc màu đen. Cho nên màu sắc giống như đất nung trong lò, vì lửa không đều mới sinh ra các màu khác nhau.
Nguyên linh giáng phàm, ban đầu tính tình thuần phác, lấy lá cây che mình, tâm hồn nhiên như lúc ban đầu, không thắc mắc, không ham sống sợ chết, cho nên lúc chết, dễ dàng siêu thăng cõi Trời. Sau chỉ vì nguyên linh chủng tử sống với đất lâu ngày, thay chất đổi giống, từ thời trung cổ tính linh bắt đầu bị ô nhiễm nặng, cho nên có nhiều kẻ chết không được về Trời, khí ô trược nặng nề chìm xuống, nên Địa Ngục được tạo lập từ đây.
Ngũ Lão ở cõi Trời thấy vậy quá đau lòng, liền triệu tập hội nghị, để họp bàn kế sách thâu hồi. Ngũ Lão mới phân thân giáng phàm, đầu thai đủ năm phương, làm năm vị giáo chủ của năm tôn giáo (Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo, Hồi Giáo, Nho Giáo, Đạo Giáo), bắt đầu truyền pháp thâu nhận môn đồ. Tới lúc các giáo chủ ngưng phổ độ, rời bỏ trần gian trở về Trời, đa số giáo đồ bỏ kinh bỏ đạo, khiến cho nguyên linh phân tán đạo tâm, sinh linh tương tàn làm thương tổn hỏa khí của Trời Đất.
Kim Mẫu tại cõi Trời Ngũ Lão, xót thương các nguyên linh chủng tử một đi không trở lại, cho nên nay ban lệnh phổ giáng Chân Đạo, quảng độ những người có phước duyên. Qui y Đại Đạo, trở về quê hương xưa nơi Vô Cực Lý Thiên.
- Bạch Dương Thâu Viên
...
Khi ấy hắn chợt thấy một linh hồn nhỏ ở trần gian đang ngước mắt lên trời, thành khẩn nguyện cầu:
"Xác thân này đã là mơ.
Đời sống luôn là một giấc mơ lớn, một giấc Diễm Mộng Huyền Tình
Thật, đã là mơ, thì sẽ đến lúc tỉnh.
Tinh cầu này sẽ được đặt tên.
Đặt lại tên, một cái tên tuyệt đẹp để gợi nhắc chúng sinh sống trong nó về giấc mơ vĩnh hằng mà họ hướng tới.
Là Tình Yêu ...
Đấng Sẽ Đến đang không ngừng bước tới trong ý chí của Tình Thương Vĩnh Hằng. Ngài chờ đợi con người tỉnh dậy khỏi giấc mơ bản ngã chia tách của mỗi người.
Ngài là Âm và Dương đồng hiện. Là Người Bạn, Người Cha, Người Mẹ của Thế Giới.
Và là Người Con của Chân Thường.
Thời gian...
Ôi thời gian! Xin đưa tôi đến gần Ngài không bằng thời gian trần thế mà bởi thời gian tỉnh thức trong tâm khảm vĩnh hằng."
No comments:
Post a Comment