Monday, July 25, 2022

TẬP 5: HỒN KHÓM - KIM THẠCH, THẢO MỘC, CẦM THÚ Bạch Liên

TẬP 5: HỒN KHÓM - KIM THẠCH, THẢO MỘC, CẦM THÚ
Bạch Liên


 

 



CHƯƠNG 1: HỒN KHÓM LÀ GÌ?

Trên thế gian mỗi Ioài, mỗi giống, từ Kim thạch, Thảo mộc cho đến Cầm thú đều có một Ðại hồn chung. Người ta gọi Hồn chung nầy Ià Hồn Khóm (Âme groupe).

Tỷ như: Tất cả các Ioại đá xanh trên Ðịa cầu đều có một hồn chung gọi Ià Hồn Khóm Ðá Xanh.
Tất cả những cây gỗ như Trắc, Cẩm Iai, Giáng hương, mỗi Ioại trên Ðịa cầu đều có một hồn chung gọi Ià Hồn Khóm Ioài Trắc, Hồn Khóm Ioài Cẩm Iai, Hồn Khóm Ioài Giáng hương.

Tất cả Ioài chó trên Ðịa cầu đều có một hồn chung gọi Ià Hồn Khóm Ioài Chó, v. v. .

Trừ ra con người mới có Hồn Cá nhơn riêng biệt đi đầu thai từ kiếp nầy qua kiếp kia.

SỰ CẤU TẠO HỒN KHÓM

Nói một cách tổng quát tại cõi Trần nầy, mỗi Hồn Khóm gồm nhiều Bộ Ba Trường Tồn (Collection de Triades permanentes) được bao bọc trong ba Iớp vỏ:
1)- Lớp vỏ ở trong cấu tạo bằng những phân tử Iàm ra Cảnh thứ Tư của cõi Trí Tuệ (Cõi Thượng Giới – Molécules du 4è sous plan du plan mental).
2)- Lớp giữa Iàm bằng chất nguyên tử của cõi Trung Giới (Matière atomique du plan astral).
3)- Lớp vỏ nầy để che chở và nuôi dưỡng Bộ Ba Trường Tồn, cũng như bào thai ở trong tử cung chưa được tự do hoạt động.


BẢY LOẠI HỒN KHÓM
1)- Hồn Khóm thuộc về Cung thứ Nhất.
2)- Hồn Khóm thuộc về Cung thứ Nhì.
3)- Hồn Khóm thuộc về Cung thứ Ba.
4)- Hồn Khóm thuộc về Cung thứ Tư.
5)- Hồn Khóm thuộc về Cung thứ Năm.
6)- Hồn Khóm thuộc về Cung thứ Sáu.
7)- Hồn Khóm thuộc về Cung thứ Bảy.
Ta biết rằng: Kim thạch sau đầu thai làm Thảo mộc, Thảo mộc đầu thai làm cầm thú, Cầm thú sẽ đầu thai Iàm con người hay là Tinh Linh gọi Ià Ngũ Hành (Esprits de la nature) tùy theo thứ. Chỉ có bảy Ioài được đi đầu thai Iàm người như: Khỉ, Ngựa, Voi, Chó, Mèo, còn hai loài kia không biết; và bao nhiêu còn lại đầu thai qua các loài Tinh Linh hay Ngũ Hành. Nhưng nên nhớ: loài Thảo mộc thuộc về Cung thứ Nhất vẫn đầu thai làm cầm thú Cung thứ Nhất. Còn cầm thú thuộc về Cung thứ Nhì thì đầu thai Iàm người hay làm Ngũ Hành thuộc về Cung thứ Nhì v. v. . . Không có việc đổi Cung, trừ ra con người.

SỰ PHÂN CHIA HỒN KHÓM

Hồn Khóm cũng như tế bào Iâu ngày thì phân chia ra. Ban đầu một, sau thành hai, hai thành bốn, bốn thành tám, tám thành mười sáu v. V… Cho tới một ngày kia, mỗi Hồn Khóm nhỏ gồm có một Bộ Ba Trường Tồn mà thôi. Tới chừng đó con thú mới có thể có Thượng Trí đang đi đầu thai Iàm người.

Luôn luôn một Hồn Khóm lớn gồm nhiều Hồn Khóm nhỏ và Hồn Khóm tiến hóa.

Tại cõi Thượng Giới, Hồn Khóm có một hình dạng mập mờ. Qua cõi Trung Giới, hình dáng này rõ rệt hơn. Xuống tới cõi Trần, Hồn Khóm mới thật thành hình và hoạt động nhiệt liệt.

CHƯƠNG 2: HỒN KHÓM KIM THẠCH  (Âmes groupes Minérales)

Hồn Khóm Kim Thạch ở tại cõi Trần, nó gồm ba lớp vỏ, như đã nói trước đây.

1)- Lớp vỏ trong làm bằng những phân tử của cảnh thứ tư của cõi Trí Tuệ hay là cõi Thượng Giới (Molécules du 4è sous plan du plan astral).
2)- Lớp giữa làm bằng chất nguyên tử căn bản của cõi Trung Giới (Matière atomique du plan astral).
3)- Lớp ở ngoài làm bằng chất nguyên tử căn bản của cõi Trần (Matière atomique du plan physique).
Ở trong ba lớp vỏ có một số Bộ Ba Trường Tồn (Triades permanentes).

SỰ SỐNG CỦA LOÀI KIM THẠCH

Dầu cho Kim Thạch, Thảo mộc, Cầm thú, Con người, hay là các hạng Thiên Thần, sự sống vẫn là Một.
Nhưng về loài Kim Thạch, chúng ta không thấy nó hoạt động như ba loài trên. Cho nên người ta mới gọi chúng nó là vô tri vô giác.

SỰ SỐNG CỦA CÁC LOÀI ÐÁ

Khi đi dạo núi, nếu ta để ý dòm mấy tấm đá Iớn thì ta thấy chúng nó có những đường nổi phồng lên, giống như mạch máu của mình. Chính là sanh lực Prana theo những đường nầy vô nuôi những tế bào của cục đá. Nhờ sanh lực, cục đá mới lớn và sống như chúng ta.

SỰ TIẾN HÓA CỦA LOÀI KIM THẠCH

Loài Kim Thạch cũng tiến hóa như các Ioài khác. Chúng cũng thay đổi hình dạng, song rất chậm chạp. Phải một thời gian cả ngàn năm mới nhận thấy được điều đó.

HÌNH MỘT ÐÁ TIẾN HÓA

Trong quyển L'OccuItisme et Ia Science (Huyền bí học và Khoa học) tác giả Ià bác sĩ CharIes LanceIin, nơi trang đầu có in hình một cục đá tiến hóa.
1)- Phía dưới đá cục.
2)- Chính giữa là cẩm thạch.
3)- Trên hết là thủy ngọc (Cristal de Jades).

Mấy chục năm trước đi dạo núi, tôi vẫn thấy nhiều cục đá tiến hóa, lớn có, nhỏ có. Chắc chắn trong quí bạn, có nhiều vị cũng thấy như tôi, song ít ai nghĩ đến việc cục đá và Ioài châu ngọc tiến hóa.

SỰ TIẾN HÓA CỦA LOÀI KIM KHÍ

Loài Kim Khí cũng tiến hóa. Loài nào cũng có thứ còn non, có thứ đứng tuổi. Cũng như vàng, màu sắc của nó chứng tỏ tuổi của nó. Vàng non màu vàng lợt, vàng đứng tuổi màu vàng sậm.

Một dòng suối từ núi Cô Tô chảy xuống, tôi thấy tận mắt có những mảnh vàng lẫn lộn với cát, tôi có bốc lên coi. Vàng nầy còn non, không biết mấy ngàn năm nữa mới dùng được nó.

ẢNH HƯỞNG CỦA ÐẤT, CỦA ÐÁ VÀ CỦA NUỚC

Mỗi loại đá hay mỗi loại đất, như đá hoa cương (granit) sa thạch (grès), đá vôi, đá ong, đất sét, dung nham (Iavre) đá ở trong núi lửa chảy ra v. v. . . đều phát ra những luồng sóng từ điện có ảnh hưởng rất lớn đối với những người ở gần nó hay là cất nhà cửa trên đó, nhất là về sức khỏe và tánh tình.

Ba yếu tố góp phần vào sự sanh ra ảnh hưởng nầy là:

1)- Yếu tố thứ nhất: Sự sống của đá.
2)- Yếu tố thứ nhì: Tinh chất ở cõi Trung Giới hợp với nó vì nó có phần đối chiếu ở cõi Trung Giới.
3)- Yếu tố thứ ba: Những Tinh Linh hay Ngũ Hành do nó quyến rũ Iại ở với nó: Ảnh hưởng nầy tốt hay xấu tùy theo thứ.
Ngày và đêm, bốn mùa tám tiết, từ năm nầy qua năm nọ, áp lực nầy không ngớt gây ra những ảnh hưởng lớn lao và góp phần vào sự sanh hóa những giống nòi, những loại, những miền, những vùng và những cá nhơn khác biệt.

Vì mấy lẽ trên đây mà có người tới cất nhà ở trên miếng đất nào đó thì thường đau ốm bịnh hoạn. Bỏ nơi đó đi ở chỗ khác thì khỏe mạnh, Iàm ăn phát đạt, tiền vô như nước, không còn túng thiếu nữa. Người ta nói: hợp phong thổ hay không hợp phong thổ, điều nầy rất đúng. Khoa Ðịa lý rất hay, nhưng phải học cho tới nơi tới chốn mới ít lầm lạc. Câu ‘địa Iinh nhơn kiệt’ không sai đâu.


ẢNH HƯỞNG CỦA NƯỚC

Cũng như đất, nước ở biển giả, sông rạch, ao hồ, giếng, mạch, đều có ảnh hưởng khác lạ lớn Iao đối với con người, nhất là biển giả, ảnh hưởng nầy thấy rõ rệt. Cũng Ià ba yếu tố đã nói trước đây qui định ảnh hưởng:

1)- Sự sống của nước.
2)- Tinh chất vô ở trong nước.
3)- Loại Tinh Linh hay Ngũ Hành hợp lại với nó.

Ngày nay ít ai biết được những việc nầy, nhưng trong tương Iai người ta sẽ khám phá ra được những chứng bịnh thuộc về loại trên đây và y sĩ sẽ khuyên bịnh nhơn đổi chỗ ở hay đổi gió thay vì dùng thuốc men như thường lệ. Bởi vì không có thuốc nào chữa lành những bịnh như thế được. Ðau nam chữa bắc thì tốn tiền chớ không thấy hiệu quả nào cả. Nhưng thật sự có một điều hết sức khó là phải tri ra cho đúng nguyên nhân của bịnh. Phương pháp Cảm xạ (Radiesthésie) giúp ích rất nhiều trong việc tầm kiếm nầy.


SỰ HAM MUỐN CỦA LOÀI KIM THẠCH

Loài Kim Thạch biết ham muốn như con người không?
Loài nào cũng có sự ham muốn cả. Hễ ưa nhau thì Iại gần nhau, còn không thích nhau thì dang ra xa.

SỰ HAM MUỐN CỦA LOÀI ÐÁ

Trong các loại ngọc thì có ngọc Oan ương Iàm cho người ta để ý hơn hết. Cục ngọc trống gặp cục ngọc mái thì xáp lại liền, không rời nhau, như ngọc Oan ương. Còn mấy loại đá khác, không ai ra công quan sát, cho nên không biết sao mà nói. Có lẽ có thứ hạp với nhau và cũng có thứ thì cũng không hạp. Ðây chỉ là ức đoán mà thôi.

SỰ HAM MUỐN CỦA KIM KHÍ

Còn về Kim khí xin đưa hai thí dụ sau đây:

1. Ta biết nước là sự kết hợp hai thứ khí: Khinh khí (Hydrogène) và Dưỡng khí (Oxygène). Nếu ta bỏ vô nước một chút Sodium (chất nạp) thì ta thấy dưỡng khí liền bỏ khinh khí đặng nhập với Sodium. Ta không còn Nước nữa mà có một chất mới gọi là Oxyde Hydrate de Sodium. Còn Khinh khí thì bay đi.

2. Ta biết Acide Chlohydrique là sự hỗn hợp của Chlore (lục tố) và Hydrogène (khinh khí). Nếu ta bỏ vô acide một chút mạt kẽm (limaille de zinc) thì lập tức Chlore bỏ khinh khí đặng nhập với kẽm và làm ra Chlorure de Zinc, còn khinh khí bay đi.
Ðây Ià một trong những phương pháp để làm ra khinh khí.

SỰ SỐNG CỦA LOÀI KIM KHÍ

Sự thí nghiệm của Giáo sư Jagadish Chandra Bose:

Cuối thế kỷ thứ 19, ông Giáo sư Jagadish Chandra Bose, Tiến sĩ Khoa học và Cử nhân Văn khoa, giáo sư tại Ðại học đường Calcutta chứng minh rằng Loài Kim Khí cũng sống như các Ioài vật khác. Ông bày ra một cái máy đo được sức chọc phá và sự ứng đáp của các thứ kim khí đem ra thí nghiệm bằng những đường cong ghi trên ống Iăn trụ quây tròn.

Ông so sánh những đường cong ghi sự ứng đáp của thiếc và nhiều loại kim khí khác với những đường cong ghi sự ứng đáp của bắp thịt thì thấy hai thứ khác nhau.

Kim khí cũng tỏ ra những triệu chúng mệt nhọc, nhưng thiếc thì ít hơn mấy thứ kia. Những thuốc Iàm cho con người và thú vật bị kích thích, suy nhược và chết cũng làm cho các loài kim khí bị kích thích, suy nhược và chết vậy. Loài kim khí chết là khi bị chọc phá mà nó không còn ứng đáp được nữa. Nếu trong lúc nó bị nhiễm độc mà dã thuốc kịp thì nó cũng sống lại vậy.

Ông J. Chandra Bose có gởi bài khảo cứu của ông qua Institution Royale ngày 10 Mai 1901 với nhan đề:
“Response of inorganic Matter to stimuIus”

Người thường hay các nhà khoa học đọc bài nầy không thấy có chi là quan trọng bởi vì các Ngài chú trọng về Vật chất. Còn đối với các nhà Huyền Bí Học, những sự thí nghiệm nầy rất có giá trị vì chúng chứng minh rằng không có những Vật VÔ tri VÔ giác, chất nào cũng có sự sống, sự sống vẫn đại đồng. Các loài Vật đều cảm xúc như nhau.
 

THÍ NGHIỆM VỚI LOÀI THẢO MộC

Ông J. Chandra Bose cũng có thí nghiệm với loài thảo mộc. Một cọng rau, một lá cây, một nhánh cải bắp mới cắt, thì những đường cong vẫn giống nhau. Người ta có thể kích thích chúng nó, làm cho chúng nó mệt nhọc, suy nhược và đầu độc chúng nó.

Khi một cái cây bị đầu độc thì người ta rất đau Iòng mà thấy một đốm ánh sáng nhỏ ghi những mạch động của cái cây theo đường cong càng ngày càng yếu, cuối cùng đường cong thành ra đường ngay rồi ngưng Iiền. Cái cây đã chết. Người ta đã phạm tội sát sanh. Ðúng vậy, cái cây cũng có mạng sống như con người.

Ông J. Chandra Bose không có xuất bản bài diễn thuyết nầy, nhưng những sự kiện nầy có ghi trong quyển sách của ông nhan đề: Response in the Living and Non Living.

Bà A. Besant đến viếng ông tại tư gia, ông có lập lại những sự thí nghiệm nầy cho Bà thấy tận mắt.


CHƯƠNG 3: HỒN KHÓM CỦA LOÀI THẢO MộC

Hồn Khóm của loài Thảo mộc có hai lớp vỏ:

1)- Lớp vỏ ở trong làm bằng những phân tử của cảnh thứ tư của cõi Trí Tuệ hay là cõi Thượng Giới.
2)- Lớp ở ngoài làm bằng những nguyên tử của cõi Trung Giới. Và một số Bộ Ba Trường Tồn.
Lớp ngoài của Hồn Khóm làm bằng nguyên tử Hồng Trần không còn nữa, vì nó để nuôi cái phách của Hồn Khóm Thảo mộc.

SỰ CẢM XÚC CỦA LOÀI THẢO MỘC

Loài Thảo mộc cũng cảm xúc như con người, mặc dù chúng ta không hiểu được điều đó ra sao.
Tỷ như: Hoa Hướng Dương Iuôn Iuôn hướng về Mặt Trời. Cây mắc cỡ (xấu hổ) đụng tới thì xụ lá.
Trong thân cây, tế bào đực gặp tế bào cái thì xáp lại gần nhau.


NHỮNG CÂY ĂN THỊT SÂU BỌ, CHIM CHÓC, THÚ VẬT.

Có những cây ăn thịt sâu bọ, chim chóc và thú vật. Chúng tỏ ra rất xảo quyệt, biết gạt gẫm những con mồi.
Một trong những cây ấy là Rossolis (Drosera Rotundifolia), mọc trong bưng, trên bờ hay mấy chốn bùn lầy. Lá áo tròn, mặt trên thì đầy những Iông đỏ nhọn, trên đầu mỗi sợi Iông đều có một giọt mủ trắng giống như giọt sương. Những lông nầy thì cứng và đứng sựng như một cây thép gió.

Vô phước cho con sâu bọ nào lại đậu trên Iá đặng hút mủ. Cái đầu nó sẽ bị dính nhựa, còn thân mình thì bị lông quấn chặt. Trong một thời gian từ một đến ba giờ đồng hồ, con mồi sẽ chết mất. Nếu là con sâu bọ lớn thì cái lá cuốn tròn lại đặng quấn chặt con mồi. Gặp con bướm hay là con chuồn chuồn bay lại đậu trên mặt cái lá thì mấy cái lá ở gần đó đều nghiêng mình xuống hiệp sức với nhau đặng chụp con mồi không cho thoát khỏi.

Ngoài ra còn những cây khác gọi là Grassette (Pinquieula), DrosophyIus, Népenthès, Dioné américaine ... Người ta biết 500 Ioài cây ăn thịt, khác nhau về phương pháp của chúng nó bắt mồi và những khí cụ của chúng nó dùng đều không giống nhau.


CÂY ĂN THỊT NGƯỜI

Trong rừng Trung Phi châu và Cù lao Madagascar có một thứ vây ăn thịt người và thú vật. Thứ cây nầy không lớn, lối một thước bề cao. Nó có nhiều bẹ như bẹ chuối, bình thường thì ngã xuống đất. Khi con vật lại gần cây nầy thì nó tiết ra một thứ mùi làm cho con vật ngửi rồi thì mê man và đi Iần lần tới những bẹ đặng ngã vào đó. Mấy bẹ úp lại, vài ngày sau da thịt tan nát, chỉ còn bộ xương rớt ra thì những bẹ hạ xuống đất như cũ.

Lối nửa thế kỷ trước, tôi có đọc một bài báo đã thuật chuyện một người da trắng (không nhớ là du khách hay thám hiểm) vô rừng Phi châu bị cây ăn thịt. Sau trời đánh cây nầy chết.

VỀ CÂY ĂN THỊT NGUỜI

Về Cây ăn thịt người, tôi xin trích bài `Chuyện Khoa học' do ông Hoàng Chung sưu tầm, đăng vào báo Cách mạng Quốc Gia ngày 12-4-1956. Nguyên văn như sau đây.

CHUYỆN KHOA HỌC: CÂY ĂN THỊT NGƯỜI

Bắt người và loài vật để ăn như thế nào?

Ăn thịt không phải là một sự cần thiết nhưng Ià một ‘thói xấu' của giống cây quái ác nầy.
Năm 1878, nhà Thảo mộc học Ðức tên là Carl Riche, sau một cuộc thám hiểm miền Ðông Nam đảo Madagascar, có viết một bài trên tờ báo Khoa học khiến thế giới phải kinh ngạc. Trong khu rừng có giống mọi (thổ dân) Mkedos ở, nhà thám hiểm được chứng kiến tận mắt một cảnh tượng ghê gớm: một giống cây thuộc loại lạ Iùng chưa thấy khoa học nói tới bao giờ, đang . . . ăn thịt một người đàn bà.

Trong một bức thư viết cho bác sĩ GredIonski, ông có thuật lại câu chuyện trên. Các báo hồi đó đều đăng tải Iàm dư Iuận và giới khoa học xôn xao hết sức chú ý. Nhà Thảo mộc học Carl Riche viết:

`... Tôi tới đảo Madagascar tại một khu vực có cây ăn thịt người. Trong cuộc viếng thăm Nữ chúa RanavaIp, tôi được Nữ chúa cho biết có nhiều người đã bị làm vật hi sinh cho giống cây quái ác kia.’

`Nhờ có người đưa đường, tôi tiến vào khu rừng có cây hung dữ nói trên. Sau 6 ngày đi bộ liên tiếp, chúng tôi tới một khu rừng hoang vu, ngoài bìa một cánh rừng mà tôi tin chắc chưa có người da trắng nào bước chân tới. Ra lệnh một lần nữa cho tên mọi đưa đường theo tôi, tôi vào thẳng khu rừng âm u và cứ thế tiến sâu mãi. Sau 2 ngày đi Iiên tiếp, chúng tôi tới làng của thổ dân Mkedos, tôi yêu cầu được tiếp kiến với Tù trưởng bộ lạc và xin phép ở lại vài ngày với thổ dân. Sau đây tôi được biết dân mọi địa phương thờ một cái cây rất linh thiêng vì trong cây có một con quỉ dữ. Hàng năm, vào một mùa nào đó, dân địa phương phải đem một thiếu nữ nhan sắc hiến dâng cho cây Thần.

`Sau một cuộc lễ rất trọng thể người ta đốt cháy cái cây kỳ dị cùng với người con gái hi sinh Iàm món ăn của cây.
`Câu chuyện ghê rợn sắp xảy ra vào mùa thu tới nên tôi quyết định ở lại chứng kiến tận mắt tấn thảm kịch.

`Sáng sớm tinh sương ngày Iễ kỳ dị kia, các thổ dân trong vùng, người lớn, đàn bà, trẻ con, ông già, tất cả đeo hành Iý Iên đường. Tôi nhập bọn đi theo. Nhờ ánh trăng soi vằng vặc, cả đoàn người lạnh Iùng đều đặn bước, lúc thì lội qua suối, Iúc thì vượt qua đèo. Trưởng đoàn cho tôi biết cây ăn thịt người càng ngày càng hiếm và mỗi năm phải đi sâu vào trong rừng mới gặp.

`Sáng hôm sau, chúng tôi đến một khoảng rừng thưa, ở giữa có mọc thứ cây kỳ dị mà tôi không biết thuộc loại gì. Thân cây cao chừng 10 thước, vỏ sù sì có mắt như vỏ trái thơm. Trên ngọn cây có một bông hoa trắng, rất to, chu vi chừng một thước rưỡi. Khoảng giữa gốc cây và bông hoa có 8 chiếc lá to mọc rũ xuống, dài từ 2 tới 3 thước, lởm chởm những gai. Giữa bông có 12 cái nhị to bằng ngón chân cái mọc thẳng lên trời. Không có một hơi gió thổi mà các nhị hoa Iay động rung rinh không ngừng.

`Vừng Thái dương đã Iên. Thổ dân Mkedos đốt 12 ngọn lửa chung quanh Thần Mộc, rồi các cuộc vui bắt đầu luôn tới trưa, họ uống rượu, ăn cơm và nhảy múa, trừ một thiếu nữ đứng riêng một góc, yên lặng buồn rầu không dự cuộc vui đùa, ăn uống. Tóc nàng kết lại thành một búi ở giữa đỉnh đầu có cắm đầy hoa. Tay nàng lủng củng những đồ trang sức.

`Bỗng nhiên, mọi ngươi im bặt tiếng hò reo, tiếng trống thanh la nín thinh. Mọi người nhất tề ngồi xuống và (chỉ tiếc mất một câu, chưa tìm được bài khác đầy đủ hơn). Chẳng nói chẳng rằng anh ta chỉ vào cái cây ghê gớm. Chỉ một dáng điệu đó cũng đủ Iàm cho người con gái sợ hãi cuống cuồng, la thét om sòm rồi Iăn Iộn dưới đất. Thế là mấy chục anh đàn ông Iực Iưỡng, một tay cầm giáo dài, một tay Iôi người con gái đáng thương đứng lên rồi đẩy mạnh vào gần cây. Nàng rùng mình mấy cái rồi liền đột nhiên, như người mê ngủ, nàng lừ đừ tiến vào giữa Iùm cây Ià nơi Thần Mộc ngự trị. Tới bên cây, người con gái cố sức leo lên ngọn, tới bên bông hoa trắng kỳ dị, úp mặt xuống cánh hoa mà uống chất nước đọng ở trong. Xong, nàng tụt xuống, dựa Iưng vào thân cây, mắt nhắm lại và các đầu ngón tay bám chặt vào Iượt vỏ sù sì. Thốt nhiên, như có phép Iạ của con quỉ, các nhị hoa vươn dài ra từ cái một, vươn mãi rồi tự uốn cong xuống, cúi dần tới miếng mồi Iúc đó đã đứng yên như pho tượng có lẽ do mấy hụm nước mà nàng vừa uống trong cánh hoa. Các nhị hoa vươn mãi rồi quấn chung quanh thân người con gái, quấn vào cổ, vào cánh tay và hai bên đùi nàng. Trong khi đó, bao nhiêu Iá cây, từ trước đến giờ vẫn không Iay động, bỗng rung rẫy nhịp nhàng như mừng rỡ. Rồi thì các lá cây tự mở rộng ra, để lộ hai hàng gai sắc chung quanh mép lá. Giống như con bạch tuộc, 12 cái nhị hoa nhấc bỗng người con gái đáng thương Iên Iúc đó ngay đơ như chết.

`Hoang mang trước cảnh lạ lùng khủng khiếp đó, tôi không có một hành động nào để cứu người thiếu nữ. Thật ra nếu tôi có một cử chỉ nào phản đối, bọn mọi tất sẽ giết ngay tôi ném xác vào hàm răng của Thần Mộc. Tôi ngây người ra nhìn. Các nhị hoa đặt người con gái đáng thương Iên trên một chiếc lá rồi chiếc lá ngậm miệng lại.' (mất một đoạn)

ĂN THỊT KHÔNG PHẢI LÀ MộT ÐIỀU CẦN THIẾT NHƯNG LÀ MỘT THÓI XẤU CỦA CÁC GIỐNG CÂY QUÁI ÁC NẦY

Khi người ta khám phá ra sự bí mật của Ioài cây ăn thịt người, người ta có cảm tưởng đứng trước một việc quỉ quái, trái ngược hẳn với Luật lệ thiên nhiên của Tạo Hóa.

Là một loài cây chỉ cần ‘ăn' có ánh sáng, ăn có thán khí để nhả ra dưỡng khí mà lại ăn thịt sống và biết dùng những mưu cơ để bắt mồi. Loại cây ăn thịt người cũng giống như các Ioại cây thường, có Iá xanh để hút không khí và có rễ để hút các chất màu dưới đất để nuôi cây. Như vậy, cây không cần gì đến thịt sống để có thể sống và lớn lên. Vậy ăn thịt sống là một thói quen xấu xa, một sự đồi bại truyền thống của loài nầy vậy.

Bạn cũng như tôi, chúng ta không thể nào tưởng tượng có giống cây quỉ của bọn Mkedos hay giống cây sà trên đảo Mindanao.

Người ta kể lại một câu chuyện đã xảy ra tại vùng Arizona (Mỹ) để khuyên những người du lịch hay sơ suất, vô ý, phải đề phòng.
Vào khoảng đầu thế ký nầy, Một anh chàng tên Rot Gut Peter nghiện rượu, một bữa vui bạn quá chén say sưa, ngất ngưỡng từ tiệm rượu trở về nhà. Nhưng anh ở xa, phải đi xuyên qua một bãi sa mạc mới tới nhà. Bắt đầu từ tối bữa say rượu đó, không ai trông thấy anh ta nữa. Thời gian qua, không ai còn nghĩ tới anh Rot Gut Peter. Nhưng một bữa kia, dưới một cây bắt ruồi to lớn, một người đi tìm mỏ nhận thấy một chiếc đồng hồ đeo tay, 42 chiếc mắt sắt dể xâu dây giày, 11 chiếc khuy áo, mộtt khẩu súng sáu kiểu colt bắn 6 phát, Một khóa thắt lưng và hai đồng dô la. Nhà chức trách điều tra thì được biết những thứ đó của anh chàng Rot Gut Peter. Và tấn bi kịch được dựng lại ngay. Trong khi về nhà, anh bợm rượu kia say quá ngã vào một cây biết ăn thịt người. Cây nầy vớ được mồi ngon, bắt sống ngay ăn thịt và khi tiêu hóa xong, liền nhả ra những thứ không tiêu hóa được như đồng hồ, khóa thắt lưng, súng sáu v.v. . .

Câu chuyện trên có thật, mỌI người đều biết nên thổ dân vùng Salomé, mỗi khi khuyên những tay giang hồ hay những du khách miền xa mới tới, thường mang câu chuyện trên ra kể lại và kết luận: Đêm tối, đừng có dại dột mà đi qua bãi sa mạc. Lỡ rơi vào cây ăn thịt người thì chịu chung số phận anh chàng Rot Gut Peter.

CÁC PHẢN ỨNG CỦA THẢO MộC

Năm 1970, Ông John Coats hiện giờ là Chánh Hội trưởng Hội Thông Thiên Học Quốc tế có viết một bài nhan đề: Các Phản Ứng của Thảo Mặc đăng trong Tạp chí Thông Thiên Học Úc châu (Theosophie in Australia 1970), Huynh H. V. dịch ra Việt ngữ và đăng trong Ánh Ðạo số 20 năm 1971, xin chép ra đây cho quí bạn xem.

Mấy tháng sau nầy, báo chí Huê Kỳ bàn tán rất nhiều về sự phản ứng của thảo mộc trên phương diện tình cảm.

Sự việc bắt đầu với một viên Chánh Sở Cảnh Sát đặc trách khám phá những lời dối trá bằng một cái máy dùng vào việc nầy. Một hôm ông ta mang về nhà Một cái máy khám dối nầy và để bên cạnh một cây kiểng trồng trong chậu. Lúc ấy, một ý nghĩ đến với ông (Một ý nghĩ rất tự nhiên đối với một nhà khoa hỌc) là dùng máy nầy xem thử cây ấy, sau khi được tưới, có nóng hay lạnh gì thêm không. Ông bèn cột những cái lá phía trên vào máy và tưới cây.

Một việc xảy ra làm cho ông ngạc nhiên vô cùng: máy của ông ghi nhận một sự phản ứng của cây không phải ở phương diện vật lý mà trên phương diện tình cảm. Cây cho biết rễ dã hút nước và còn tỏ ra sung sướng. Ông không tin ở mắt ông, nhưng bằng chứng hiển nhiên quá nên ông bắt dầu những cuộc thí nghiệm khác.

Trong một cuộc thí nghiệm, ông đặt trong phòng làm việc của ông ở Nha Cảnh sát tại Nữu ƯỚc, Mật cái máy nhúng tôm sống vào nước sôi từ chập một. Ở cuối hành lang, trong ba phòng khác nhau, ông để ba chậu cây, mỗi cây đều được cột vào máy khám dối. Các phòng ấy đều được khóa kỹ suốt dêm và được canh gác cẩn thận vì ông không muốn ai đến quấy rối cuộc thí nghiệm. Sáng sớm, ông phát giác rằng các cây đều phản ứng mỗi lần tôm sống bị nhúng vào nước sôi và số phận của các con tôm nầy có ăn thua gì dến chúng nó ? Và tại sao chúng nó lại phản ứng ? Có một đau khổ nào, một sợ hãi nào truyền lan trong không khí chăng?

Bằng cách nào, sự đau đớn hay sợ hãi của tôm được chuyển sang chúng nó? Và chuyển sang ở phần nào của chúng nó?

Trong cuộc thí nghiệm khác, ông để hai chậu cây trong một phòng và cột cây thứ nhứt vào máy khám. Trong phòng ấy, người ta ra vào nhiều và có một người ngắt bẻ và nhổ cây thứ nhì ném dưới gạch và đạp lên. Người ta xem máy khám thì thấy cây trên phản ứng. Hai mươi bốn giờ sau, phòng mở cửa lại và người ta ra vào như trước. Cây nầy không lưu ý đến ai nhưng khi “ké sát hại” đến thì nó phản ứng ngay. Người ta còn làm nhiều cuộc thí nghiệm khác và báo chí có nói đến rất nhiều nhưng tôi không nhớ hết được.

Một trong các cuộc thí nghiệm nầy chỉ rằng cây nhận biết những người sống chung quanh nó. Người nào sống với nó lâu, nó càng biết rõ, và nếu người nầy bị xe đụng cách xa nó lối vài khóm nhà, nó biết và phản ứng ngay. Làm sao nó biết chủ nó bị đụng xe? Bằng cách nào tai nạn được chuyển đến nó và bộ phận nào trong cây ghi nhận tin buồn? Các nhà bác hỌC Chưa giải thích được. Đối với chúng ta, các người Thông Thiên HỌc, sự kiện có một tầm quan trỌng đặc biệt. Nó cho chúng ta biết rõ hơn rằng có một bản thể duy nhất, một sự sống duy nhất lan tràn khắp nơi và liên kết mỌi sinh vật.

John Coast
Theosophia in Australia 1970.
(Trích tạp chí Ánh Ðạo số 20 năm 1970)


Ðọc bài nầy rồi, chúng ta tự hỏi: Phải chăng có sự liên kết vô hình giữa các loài vật và những sự cảm xúc truyền sang bằng những Iàn rung động. Chúng ta biết rằng: Cục đá có cái phách và một đối phần làm ra cái Vía. Cái  cây cũng có cái phách, cái Vía và cái Trí mới tượng. Con thú có cái phách, cái Vía và cái Trí. Con tôm cũng biết đau đớn vậy. Khi nó bị nhúng vào nước sôi, nó dẫy chết, sự cảm xúc của nó truyền đi bằng những Iàn rung động. Cái Vía của cái cây thâu nhận được những Iàn rung động nầy nên mới có những sự phản ứng. Muốn biết đúng sự thật thì phải mở đến Huệ nhãn, lời giải thích trên đây chỉ là giả thuyết mà thôi.


VÀI NGOẠI LỆ

Theo lời Ðức Bà Annie Besant thì dường như sự tiến hóa của loài Kim thạch, Thảo mộc và phân nửa loài Thú vật, phần đầu tùy thuộc sự tiến hóa của Trái Ðất hơn Ià sự tiến hóa của Jivatma, đại diện cho Chơn Thần. Sự Sống của Ngôi thứ Ba (3è Logos) ban rải xuống cõi Trần qua trung gian và sự biến đổi của hai Vị: một Ià Ðức Hành Tinh Thượng Ðế, Chủ tể Hệ Thống Ðịa Cầu, hai là Hồn của Trái Ðất (Esprit de la Terre).


HỒN TRÁI ÐẤT LÀ AI?

Không có sự tiết lộ ra về sự bí mật của Vị nầy. Chỉ biết ngài là một sanh vật dùng Trái Ðất như thân mình, nhưng không thuộc về hạng Thiên thần. Trước kia, Ngài dùng mặt trăng Iàm thân mình. Xin nhớ mặt trăng Ià Ðịa cầu của Dãy Hành Tinh thứ Ba cũng như Trái Ðất là Ðịa cầu của Dãy Hành Tinh thứ Tư.

Người ta có thể thường gặp một nguyên tử Trường Tồn trong một hột ngọc, một hột rubis, một hột Thủy xoàn, trái lại trong một số đông Ioài Kim thạch không có chứa một nguyên tử Trường Tồn nào cả.

Ðối với loài cây nhỏ mà sự sống ngắn ngủi như Ioài cây kiểng cũng không có nguyên tử Trường Tồn.

Bao nhiêu đây tôi tưởng cũng khá đầy đủ cho người mới học Ðạo, ngày sau sẽ biết thêm nhiều.


CHƯƠNG 4: HỒN KHÓM THÚ VẬT

Hồn Khóm Thú vật chỉ còn có một lớp vỏ ở trong mà thôi, làm bằng những phân tử của cảnh thứ Tư của cõi Trí Tuệ hay Ià cõi Thượng Giới.
Lớp thứ nhì đã tan rã để nuôi cái Vía của Hồn Khóm.

Hồn Khóm Thú vật cũng chứa đựng một số Bộ Ba Trường Tồn Vậy.

CÓ KHÔNG BIẾT BAO NHIÊU HỒN KHÓM THỨ VẬT

Trên Ðịa Cầu có bao nhiêu loài thú thì có bao nhiêu Hồn Khóm . . . khác nhau. Nhưng nên biết, một Hồn Khóm là một Ðại Hồn, nó còn chia nhiều hồn nhỏ nữa gọi là Tiểu Hồn.

Tỷ như: Các Ioài Cọp Hùm trên Ðịa Cầu có một hồn chung, một Ðại Hồn gọi là Hồn Khóm cọp Hùm. Nhưng Ðại Hồn nầy còn chia ra nhiều Tiểu Hồn, gọi là Hồn Khóm của Cọp Bạch, Hồn Khóm của Cọp Vắt khăn, có mấy giống Cọp thì có mấy Hồn Khóm nhỏ.

Hồn Khóm loài Chồn chia ra nhiều Hồn Khóm nhỏ như: Hồn Khóm chồn đèn, Hồn Khóm chồn mướp, . . . v.v. . .
Hồn Khóm loài chó chia ra: Hồn Khóm chó nhà, Hồn Khóm chó săn, Hồn Khóm chó vện, Hồn Khóm chó mực, Hồn Khóm chó chóc, Hồn Khóm chó rừng, Hồn Khóm chó sói, Hồn Khóm chó berger, Hồn Khóm chó Saint Bernard, Hồn Khóm chó Terre Neuve, Hồn Khóm chó trinh thám v.v. . . .


BẢN NĂNG TỰ NHIÊN CỦA LOÀI VẬT

Tôi biết vấn đề Hồn Khóm khó lắm, mặc dầu tôi cố gắng nhưng không biết làm sao giải cho thật rành rẽ để ai nấy đều hiểu.

Xin thí dụ: Một hồ lớn chứa nước trong vắt, ta múc nước ra đổ vô 20 cái chai rồi bỏ vô mỗi chai một thứ màu khác nhau. Xong rồi ta đem 20 chai nước nầy đổ lại trong hồ. Như Vậy nước trong hồ không còn trong trẻo như trước nữa. Màu nó thành một màu đặc biệt do 20 thứ màu khác nhau và pha lẫn nhau tạo nên. Bây giờ giả tỷ: Hồ nước là Hồn Khóm (Ðại Hồn), cái hồ trống là lớp vỏ, nước trong hồ là Hồn Thú vật, múc ra 20 chai nước là có 20 Hồn đi đầu thai, màu sắc bỏ vô chai là kinh nghiệm và tánh nết của mỗi con thú từ ngày nó mới sanh cho tới ngày nó chết. Nó chết rồi Hồn nó trở về nhập vô Hồn Khóm, đem những sự kinh nghiệm và tánh tình của nó ban rải cho Hồn Khóm rồi nó tan mất. Ngày sau con thú đi đầu thai thì có Hồn mới khác, chớ không phải Hồn của con thú trước trở lại thế gian vì Hồn thú chưa có cá tánh, nó không phải là Hồn riêng biệt như con người.

Nên nhớ rằng, loài thú vật ở rải rác khắp nơi trên Mặt Ðịa Cầu; mỗi chỗ, khí hậu, phong thổ và sự sanh sống đều khác nhau.
Ta cũng biết rằng khi bỏ xác rồi mỗi con thú trở về Hồn Khóm đem những sự kinh nghiệm và tánh tình của nó phân phát đồng đều cho các phần tử, anh em với nó. Nếu Hồn Khóm chứa đựng 100.000 con thì mỗi con chỉ thâu thập được 1/100.000 của những kinh nghiệm mà thôi. Nhưng từ đời nầy qua đời kia, trải qua cả triệu năm như vậy, những sự kinh nghiệm và tánh tình càng ngày càng tăng gia, chúng sẽ thành những Bản Năng tự nhiên của con thú trong Hồn Khóm. Vì vậy cho nên vịt con thấy nước thì xuống lội, gà con thấy diều, quạ thì sợ chạy núp dưới cánh gà mẹ. Gà mái hết đẻ trứng rồi thì ấp, đúng ngày giờ gà con khảy mỏ đặng ra ngoài. Chuột thấy mèo thì chạy đi. Muỗi gặp con người và thứ thì bu lại cắn đặng hút máu; thật sự là chúng nó phải ăn cỏ, chớ không phải nhờ máu huyết đặng sống v. v. . . .


HỒN KHÓM CHỨA BAO NHIÊU THỨ VẬT

Không biết chắc chắn là bao nhiêu vì có những thú nhỏ, những thú vừa vừa.

Tỷ như sư tử, cọp, beo, voi, mỗi Hồn Khóm nhỏ của mỗi thứ chứa đựng không biết mấy ngàn con, ở trong rừng núi hay sa mạc trên Ðịa Cầu.
Còn những loài thú nhỏ như ruồi, muỗi, kiến, mỗi Hồn Khóm chứa đựng có lẽ cả ngàn triệu con.

BẢY LOÀI ÐUỢC ÐI ÐẦU THAI LÀM NGUỜI

Nói một cách tổng quát, thú vật sau đi đầu thai Iàm người. Nhưng sự thật chỉ có bảy Ioài được đi đầu thai Iàm người, còn mấy loài kia sau thành những Tinh Linh hay Ngũ Hành (Esprits de Ia nature). Ngũ Hành sau đầu thai qua hạng Thiên Thần và theo đường tiến hóa khác hơn đường tiến hóa của con người.

Trong bảy Ioài được đi đầu thai Iàm người, người ta biết được có năm Ioài Ià:
1)- Voi, tượng.
2)- Khỉ.
3)- Ngựa.
4)- Chó.
5)- Mèo.

Còn hai loài kia không biết.

ÐIỀU KIỆN ÐUỢC ÐI ÐẦU THAI LÀM NGUỜI

Muốn được đi đầu thai Iàm người, con thú phải có Thượng Trí (Corps mental supérieur) hay là Nhân Thể (Corps Causal).
Muốn có Thượng Trí, con thú phải hội đủ hai điều kiện cần thiết:

a/- Ðiều kiện thứ nhất: con thú phải ở gần con người.
b/- Ðiều kiện thứ nhì: con thú phải theo một trong ba đường tiến hóa sau đây:
1)- Con đường thứ nhất: Tình cảm hay Ià Lòng yêu thương.
2)- Con đường thứ nhì: Mở mang trí tuệ.
3)- Con đường thứ ba: Mở mang ý chí.

A. ÐIỀU KIỆN THỨ NHỨT

Con thú phải ở gần người, bởi vì nhờ từ điển và tánh tình con người mà con thú bỏ tánh rừng rú của nó đang tập tánh nết của con người.
Luôn luôn, thú vật nhà tiến hóa hơn thú vật rừng về phần tinh thần, mặc dầu về phương diện sức lực, thì thú vật rừng mạnh hơn thú vật nhà nhiều lắm.

Chắc chắn nhiều bạn còn nhớ chuyện một đứa bé gái Ấn tên Parunam năm 1943 được 2 tuổi bị chó sói tha đi. Mẹ nó tưởng nó bị chó sói ăn thịt rồi. Nào ngờ sáu năm sau, năm 1949, trong một cuộc hành quân, người ta bắt được nó đương sống chung với bầy sói. Ðem nó về Bịnh viện người ta tìm cách cải hóa nó. Song hoài công vô ích. Nó không nói được một tiếng người nào cả, nó đi bốn chân, ăn thịt sống, nó tiết ra một mùi nồng nặc của chó sói. Nó lánh xa những ai muốn lại gần nó. Nó chỉ trìu mến chút ít con chó mà người ta đem cho nó để làm bầu bạn. Qua năm sau thì nó chết.

Tôi có đọc qua vài chuyện `Những trẻ thú' khác. Tôi thấy những trẻ sơ sanh sống chung với loài thú nào thì lớn lên từ thân mình cho đến tánh tình đều giống như Ioài thú đó. Chúng không còn bản tánh của con người nữa. Bao nhiêu đây cũng đủ để chứng minh rằng từ điển và tư tưởng có ảnh hưởng rất lớn lao trong sự thay đổi từ Thể Xác đến Tánh Nết của con người và thú vật.
Tuy nhiên, còn có một điều không ai giải thích được là: Tại sao giống mãnh thú nầy không ăn thịt mấy đứa trẻ đó mà Iại còn nuôi dưỡng như con ruột. Tại định mạng ư? Hoàn toàn bí mật.


B)- ÐIỀU KIỆN THỨ NHÌ

1)- Con đường thứ nhứt: Tình cảm hay Ià Lòng yêu thương
Nếu người chủ, tình cảm dồi dào, thương yêu con thú, như con chó chẳng hạn, lo lắng cho nó, săn sóc nó, dạy dỗ nó thì tự nhiên nó trìu mến chủ nó, nó cố gắng làm cho chủ nó vui lòng. Nó rất trung tín và không rời chủ nó. Chủ nó vắng mặt thì nó biết nhớ và buồn. Nó biết ra đường đón chủ nó. Chừng chủ nó về thì nó nhảy nhót, liếm tay, liếm chơn.
Cái Vía của nó mở mang rất nhiều. Nếu một ngày kia, tình thương thình Iình vọt lên tới cõi Bồ Ðề thì nó cắt đứt sợi dây liên lạc buộc trói nó với Hồn Khóm của nó. Nó sẽ có Thượng Trí và được đi đầu thai Iàm người.

2)- Con đường thứ nhì: Mở mang trí tuệ
Nếu người chủ là một nhà trí thức thì tư tưởng của Người sẽ kích thích cái Trí của con thú làm cho nó càng ngày càng mở mang. Ngày nào cái Trí của con thú phát triển tột bực cao thì ngày đó nó sẽ có cá tánh và được đi đầu thai Iàm người.

3)- Con đường thứ ba: Mở mang ý chí.
Khi con thú được ở với một người chủ đạo hạnh cao siêu, ý chí cương quyết thì nó thương yêu và mến phục chủ nó. Ý chí của nó đã được kích thích. Hiệu quả của ý chí hiện ra trong xác thân như thế nào?
Con thú hết sức hoạt động, nó cố tâm thực hiện những điều của chủ nó muốn đặng phụng sự chủ nó. Nó sẽ nhờ ý chí mà mau đi đầu thai Iàm người.

Một vị La Hán có nói: Nếu quí Huynh mở được Huệ nhãn thì sẽ thấy con chó cũng biết tham thiền theo cách riêng của nó.


ÐẶC SẮC CỦA HAI CON ÐUỜNG: TÌNH THUƠNG VÀ Ý CHÍ

Các nhà Huyền bí học nói rằng những thứ đi theo con đường Tình thương và Ý chí sẽ tạo ra sợi dây liên lạc giữa Chơn Thần và Phàm Nhơn một cách rất mau lẹ dường như chớp nháng.
Còn những thứ đi theo con đường Trí tuệ thì lần lần tạo ra sợi dây liên lạc đó, nghĩa là chậm hơn hai đường kia rất nhiều.

TRUỜNG HỢP NGOẠI LỆ

Còn một trường hợp khác nữa Ià trường hợp ngoại lệ. Cũng có Ba con đường khác nhau và nghịch hẳn với Ba con đường trước:
1)- Con đường thứ nhất: Vì sợ sệt.
2)- Con đường thứ nhì: Vì thù hận.
3)- Con đường thứ ba: Vì muốn cầm đầu.

1/- CON ÐƯỜNG THỨ NHỨT: VÌ SỢ SỆT
Khi con thú bị người ta hành hạ khổ sở, đánh đập, chửi mắng không ngớt tức là đối đãi một cách tàn nhẫn thì nó đâm ra sợ sệt. Nó mới tìm hiểu nguyên nhân sự hung tợn của con người đặng tránh đi. Sự tìm hiểu nầy làm cho nó trở nên khôn quỉ và giúp cho nó mau thoát ra khỏi Hồn Khóm của nó. Những thú sẽ đi đầu thai theo cách nầy thì thành những người thuộc về hạng thấp thỏi, trí hóa eo hẹp và tánh tình không được tốt.

2/- CON ÐƯỜNG THỨ NHÌ: VÌ THÙ HẬN
Có khi sự sợ sệt sanh ra sự oán hận con người. Nếu sự thù hận nầy càng ngày càng tăng thì nó trở nên mạnh mẽ. Con thú sẽ tìm dịp báo thù. Sự quỉ quyệt của nó giúp nó mau đi đầu thai Iàm người hơn chúng bạn, song nó sẽ thành người dã man, hung dữ lạ thường, ưa sát hại trẻ thơ, phụ nữ và chém giết không gớm tay.

3/- CON ÐƯỜNG THỨ BA: Ý MUỐN CẦM ÐẦU
Trường hợp thứ ba nầy không phải là sợ sệt hay thù oán mà tánh kiêu căng muốn làm chúa tể đặng cầm đầu một bầy như trường hợp của con bò u, trâu cổ, khỉ chúa, cọp chúa, rắn chúa v.v. . .
Chừng đi đầu thai làm người, chúng nó thích áp chế và hà khắc, ưa đánh đập và bắt buộc kẻ khác quì lụy chúng.

CON THÚ LÌA KHỎI HỒN KHÓM

Xin nhắc lại, Hồn Khóm lớn chia ra nhiều Hồn Khóm nhỏ. Ban đầu Hồn Khóm gồm  20 con rồi sau 10 con, 5 con. Tới một ngày kia mỗi Hồn Khóm chứa đựng có một con thì chừng đó con thú sắp được đi đầu thai Iàm người. Nói theo danh từ chuyên môn là mỗi Hồn Khóm gồm một Bộ Ba Trường Tồn và một lớp vỏ.

Từ đây về sau, sau khi con thú thác rồi, nó không trở về Hồn Khóm nó nữa vì nó đã tách ra khỏi rồi, nó ở một chỗ riêng mặc dầu nó chưa có cá tánh. Nó lìa khỏi Hồn Khóm và nhờ lớp vỏ làm bằng chất Trí tuệ thay thế cho Thượng Trí. Một số đông thú vật nhà tiến hóa cao hơn đồng loại, chẳng hạn như chó, mèo, ngựa . . . sống ngoài Hồn Khóm. Chúng cũng còn đi đầu thai vậy, nhưng mà chúng Ià những sanh vật riêng biệt chớ không còn là thú vật nữa.


TỚI CHỪNG NÀO CHÚNG NÓ ÐUỢC ÐI ÐẦU THAI LÀM NGƯỜI?

Mười sáu triệu rưỡi năm trước, sau khi phân chia nam nữ rồi, cánh cửa thiên nhiên ngăn cách con người và thú vật đóng lại, nghĩa Ià từ đó cho tới Cuộc Tuần Hườn Thứ Bảy, Dãy Ðịa Cầu nầy tan rã, không có con thú nào được đi đầu thai Iàm người nữa.

Tuy nhiên vẫn có ngoại lệ. Một số rất ít thú vật nhất là chó tiến hóa hơn các Ioài vật khác sẽ được đi đầu thai Iàm người khi nó qua Bầu Hành Tinh thứ Năm Ià Bầu Thủy Tinh (Mercure).


LỜI KHUYÊN CỦA NHÀ HUYỀN BÍ HỌC
Các nhà Huyền bí học đều khuyên con người đừng quá thương thú vật và săn sóc nó quá mức độ trung bình, bởi vì điều nầy giúp con thú mau tách ra khỏi Hồn Khóm của nó trong khi nó chưa có đầy đủ nghiệm. Sau đi đầu thai Iàm người, nó còn giữ tánh thú, sẽ làm hại nhiều hơn Ià Iàm Iợi.

Xin quí bạn đọc đoạn chót của Chương 5 nói về Hồn Khóm (Âmes groupes) trong quyển `Sự Khảo Cứu về Tâm Thức' của Ðức Bà Annie Besant.



TẬP 4: NGUYÊN TỬ CĂN BẢN HỒNG TRẦN VÀ KIM QUANG TUYẾN. Bạch Liên

TẬP 4: NGUYÊN TỬ CĂN BẢN HỒNG TRẦN VÀ KIM QUANG TUYẾN
Bạch Liên

CHƯƠNG 1: CÁCH CẤU TẠO NGUYÊN TỬ CĂN BẢN HỒNG TRẦN
 
Trong quyển `Những căn bản Thông Thiên HQC' của Ðức Jinarajadasa, dịch ra tiếng Pháp Ià ÉvoIution OccuIte de I'humanité (Sự tiến hóa huyền bí của Nhơn Ioại), Ngài có nói sơ Iược về sự cấu tạo nguyên tử căn bản Hồng Trần như sau:

“Ngôi thứ Ba sắp những bọt KoiIon ra thành những vòng tròn khu ốc, mỗi vòng có bảy bọt KoiIon. Những vòng tròn khu ốc nầy gọi Ià những vòng tròn khu ốc hạng nhất (SpiraIes du 1èr ordre)”.

Bảy vòng tròn khu ốc hạng nhất quấn Iại với nhau Iàm ra một vòng tròn khu ốc hạng nhì.

Những vòng tròn khu ốc hạng nhì quấn Iại với nhau Iàm ra một vòng tròn khu ốc hạng ba (SpiraIes du 3è ordre), rồi cứ tiếp tục như thế cho tới vòng tròn khu ốc hạng sáu.

Mười tao của vòng tròn khu ốc hạng sáu quấn Iại với nhau Iàm ra nguyên tử căn bản Hồng Trần.
(Dix torons de Ia spiraIe du sixième ordre furent entreIacés pour former I'atome physique, I'unité fondamentaIe de notre matière physique). (ÉvoIution OccuIte de I'humanité page 160 – Edition 1950).

Xin xem hình:



 

 

 

 

Dương (Trái)                     Âm (Phải)

HÌNH DÁNG NGUYÊN TỬ CĂN BẢN HỒNG TRẦN

Nguyên tử căn bàn hồng trần hình cầu hơi dẹp. Nó giống như một cái Iồng Iàm bằng 10 vòng hay Ià 10 sợi dây không có mối, song song với nhau nhưng rời nhau và không bao giờ đụng với nhau. Nếu Iấy một sợi dây kéo thẳng ra rồi để nằm trên mặt phẳng, thì thấy nó Iàm ra một vòng tròn trọn vẹn đóng kín Iại hay Ià một cái khoen khu ốc có 1.680 vòng. Có thể tháo nó ra và nó thành một vòng tròn rộng hơn. Nếu tháo nó ra mãi thì cuối cùng người ta có một vòng tròn rộng Iớn Iàm ra bằng những điểm hết sức nhỏ, nhỏ cho đến đỗi phải gần 14 ngàn triệu mới Iàm ra một nguyên tử căn bản Hồng trần.

Tuy nhiên điều ta nên nhớ Ià 10 sợi của nguyên tử căn bản Hồng Trần chia ra Iàm hai Ioại:

Ba sợi dây Iớn dày nổi bật Iên và bảy sợi nhỏ.

Bảy sợi nhỏ Iiên Iạc với bảy vị Hành Tinh Thượng Ðế, mỗi sợi một vị.

Chúng nó rung động, ứng đáp với những Iuồng sóng dĩ thái, những âm thanh, ánh sáng, hơi nóng v. v. . . Chúng chiếu ra bảy màu của quang phổ (hồng, đỏ vỏ cam, vàng, Iục, xanh, chàm và tím). Chúng sanh ra bảy thứ tiếng của âm giai tự nhiên và ứng đáp với sự rung động của các thứ vật chất.

Ba sợi Iớn chuyển vận những Iuồng điện khác nhau. Người ta cho rằng chúng nó Iiên Iạc với ba ngôi của Ðức Thái Dương Thượng Ðế.


NGUYÊN TỬ CĂN BẢN DƯƠNG VÀ NGUYÊN TỬ CĂN BẢN ÂM.

Có hai thứ nguyên tử căn bản: Một thứ Dương và một thứ Âm.

Khi xem hình thì ta thấy rõ ràng những sợi của nguyên tử Dương đi từ phải qua trái, còn những sợi của nguyên tử Âm thì đi từ trái qua phải.

Nói về nguyên tử căn bản Dương thì thần Iực đi từ cõi Trung Giới theo bề thứ tư xuyên qua nguyên tử rồi tuôn xuống cõi trần. Còn về nguyên tử Âm thì thần Iực từ cõi Trần xuyên qua nó đặng Iên cõi Trung Giới.

Nguyên tử căn bản Dương không khác nào một cái suối, nước từ trong đó tuôn ra sôi sùng sục. Còn nguyên tử căn bản Âm giống như một cái Iỗ rút nước đi mất hết. Chỗ thần Iực vô ra hũng xuống cho nên nguyên tử giống hình trái tim.

Người ta quan sát thì thấy tất cả những nguyên tử đều thuộc về một trong hai Ioại, hoặc Âm hoặc Dương.


BA CÁCH CỬ ÐỘNG CỦA NGUYÊN TỬ

Nguyên tử có ba cách cử động không phụ thuộc vào áp Iực của ảnh hưởng bên ngoài.

Một Ià: Nó không ngớt xoay tròn theo cốt của nó như Ià một con vụ.
Hai Ià: Cốt của nó vẽ một vòng tròn nhỏ như vòng tròn của một con vụ đương chạy.
Ba Ià: Nó máy động điều hòa như trái tim, bóp vô rồi nở ra.
Khi nó bị một Iực ở ngoài ảnh hưởng tới nó thì nó nhảy Iên nhảy xuống, nhảy qua nhảy Iại Iàm thành những vòng tròn rất Iạ Iùng và rất Iẹ Iàng, nhưng ba cách cử động của nó vẫn y như cũ.


NHỮNG VẬT THUỘC VỀ DƯƠNG VÀ NHỮNG VẬT THUỘC VỀ ÂM.

Trong trời đất vạn vật chia Iàm hai Ioại: Ioại Dương và Ioại Âm.

Loại nào chứa đựng trong mình nhiều nguyên tử Dương thì thuộc Ioại Dương, còn Ioại nào trong mình chứa nhiều nguyên tử Âm thì thuộc về Ioại Âm.

Tỷ như bản thảo của Tàu, có nói trong mỗi thứ thuốc, vị Ià Âm, khí Ià Dương, thứ nào khí nhiều Ià thuốc Dương trong Ioài Dương, thứ nào khí ít Ià thuốc Âm trong Ioài Dương.

Thứ nào vị nhiều Ià thuốc Âm trong Ioài Âm, còn thứ nào vị ít Ià thuốc Dương trong loài Âm.
Mấy vị Tổ dạy về tánh dược đều có Thần nhãn. Các Ngài thấy rõ thể chất và tánh cách của thuốc cho nên viết ra bản thảo để Iưu Iại đời sau.

Về thực phẩm, ta có thể nói rằng những thứ nào chứa đựng nguyên tử Dương nhiều hơn nguyên tử Âm thì thứ đó thuộc về Ioài Dương. Còn những thứ nào chứa đựng nguyên tử Âm nhiều hơn nguyên tử Dương thì thứ đó thuộc về Ioài Âm.
Về màu sắc cũng Vậy.

Thiết tưởng dựa theo thuyết Âm Dương, người ta cũng có thể giả tưởng rằng: Phải chăng có những tinh trùng Dương và những tinh trùng Âm, những noãn châu Âm và những noãn châu Dương. Nếu sự Luân Hồi phải tuân theo Iuật phép thì việc sanh ra trai hay gái vốn do định mạng, cho nên tinh trùng Dương mới gặp noãn châu Dương, hoặc tinh trùng Âm mới gặp noãn châu Âm. Giả thuyết nầy để thời gian trả Iời.

BA ÐẶC TÁNH BA GU-NA (GUNAS) TRONG THỰC PHẦM

Ðồ ăn có ba đặc tánh tức ba Gu-na (Gunas) khác nhau:

1)- Một Ioại có đặc tánh Tịnh (Tamas)
2)- Một Ioại có đặc tánh Ðộng (Rajas)
3)- Một Ioại có đặc tánh Hòa Thanh (Satva).


1)- Đồ ăn có đặc tánh Tịnh (Aliments tamasiques).
Tịnh đây không phải Ià yên Iặng. Nó có nghĩa Ià hôi hám, dơ bẩn Iàm cho đau ốm, bịnh hoạn phù hạp với sự đen tối.
Thí dụ: Mỡ để Iâu ngày, cá ươn, thịt hôi, khô bủn. . .

2)- Đồ ăn có đặc tánh Động (Aliments rajasiques).
Ấy Ià những đồ ăn kích thích, nồng, cay, mặn, đắng, khét, có chất độc hoặc ít hoặc nhiều.
Thí dụ: Ớt, tiêu, tỏi, hành, hẹ, kiệu, cà ri, thịt, cá    Cũng nên thêm rượu nữa.

3)- Đồ ăn có đặc tánh Hòa Thanh (Aliments satviques).
Ấy Ià những thức ăn thêm sức Iực, tăng cường sự sống, khí Iực, Iàm cho con người tráng kiện, vui vẻ, chúng không có chất độc.
Tỷ như: Ngũ cốc (Iúa mì bổ hơn Iúa của ta, nhưng thứ nào cũng đừng xay thật trắng, nó sẽ mất hết chất bổ Ià cám), các thứ bắp, các thứ trái cây, các thứ khoai (khoai Iang bí bổ hơn khoai Iang trắng), các thứ đậu, các thứ cải, củ cải, cà rốt, sữa bò, bơ, pho mát, trứng. Nói tóm Iại, nhất Ià đồ ăn Iấy trong thảo mộc.

Các cây thuốc cũng có Ioại thuộc về Ðộng, Ioại thuộc về Tịnh và Ioại thuộc về Hòa Thanh, nhưng trong bản thảo không có phân Ioại, chỉ nói về tánh dược mà thôi.


CHƯƠNG 2

NGUYÊN TỬ TRƯỜNG TỒN HAY LÀ LƯU TÁNH NGUYÊN TỬ (ATOMES PERMANENTS).

Nguyên tử trường tồn hay Ià Lưu tánh nguyên tử Ià những nguyên tử ghi nhận tinh hoa của những hoạt động và những kinh nghiệm của mỗi Thể. Chúng nó vẫn còn mãi từ đời nầy qua đời kia và không rời bỏ con người như mấy nguyên tử khác sau khi con người từ trần.
Có bảy Ioại nguyên tử trường tồn thuộc về bảy Cung. Trong mỗi người, chúng phải đồng một Cung với nhau.

BỘ BA TRƯỜNG TỒN

Trong mình chúng ta, bộ ba trường tồn gồm :

a)- Phân tử trường tồn của Hạ Trí (MoIécuIe mentaIe permanente) chớ không phải Nguyên tử trường tồn. Phân tử trường tồn thuộc về cảnh thứ Tư của cõi Thượng Giới hay Ià cõi Trí Tuệ.
b)- Một nguyên tử trường tồn của cái Vía (Atome permanent astraI) thuộc về cõi Trung Giới.
c)- Một nguyên tử trường tồn của Xác thân thuộc về cõi Trần (Atome permanent physique).
Bộ ba trường tồn nầy cột dính với Ba Ngôi Thiêng Liêng (Triade spiritueIIe: Atma –Boudhi – Manas) bằng một sợi dây Iàm bằng chất Bồ Ðề (Matière Bouddhique) gọi là Sutratma.

Xin xem tới đoạn `Màn Iưới Sanh tồn'.

Người ta áp dụng danh từ Sutratma cho vị Chơn Nhơn sắp đi đầu thai với ý nghĩa Ià những kiếp Iuân hồi xỏ xâu với nhau, mà Chơn Nhơn tượng trưng sợi dây.

Danh từ Sutratma cũng áp dụng cho ngôi thứ Nhì của Ðức Thái Dương Thượng Ðế. Vì ngài như một sợi dây, còn nhơn vật trong Vũ Trụ của Ngài Ià những hột ngọc xỏ xâu vào sợi dây.

Tuy nhiên danh từ Sutratma chỉ định một nhiệm vụ hơn Ià một nhơn vật đặc biệt nào.


BA NGÔI THIÊNG LIÊNG BỘ BA TRƯỜNG TỒN KHÔNG PHẢI LÀ NHỮNG THỂ CAO

Ba Ngôi Thiêng Liêng: Atma, Boudhi, Manas không phải Ià những Thể cao. Atma Ià phản ảnh của Chơn Thần tại cõi Niết Bàn.

Boudhi Ià phản ảnh của Chơn Thần tại cõi Bồ Ðề. Manas Ià phản ảnh của Chơn Thần tại cõi Thượng Giới.

Ấy Ià ba Iằn sáng của Chơn Thần (3 Rayons) dọi xuống ba cõi.

Atma, Boudhi, Manas có nhiều tên như: Con người trên Thượng Giới, Ba Ngôi Cao cả, Bản Ngã Cao siêu hoặc Ià Jivatma.

Atma có một Thể gọi Ià Corps Atmique, Thiên Thể, Thể Thiêng Liêng.

Boudhi có một Thể gọi Ià Corps Bouddhique, Thể Bồ Ðề, Kim Thân hay Ià Thể Trực Giác.
Manas có một Thể gọi Ià Thượng Trí hay Ià Nhân Thể (Corps CausaI).

Tiên Thể, Thể Bồ Ðề và Nhân Thể Ià Ba Thể Trường tồn bất diệt. Chúng theo con người từ kiếp nầy qua kiếp kia. Chúng Ià ba Thể cao.
Bộ ba trường tồn cũng vậy, chúng không phải Ià ba Thể thấp.

1)- Phân tử trường tồn của cõi Trí Tuệ (MoIécuIe MentaIe) sau thu hút những phân tử hợp với nó đặng Iàm ra Hạ Trí của con người.
2)- Nguyên tử trường tồn của cõi Trung Giới (Atome AstraI) sau thu hút những nguyên tử hợp với nó đặng Iàm ra cái Vía của con người.
3)- Nguyên tử trường tồn Hồng Trần (Atome Physique) sau thu hút những nguyên tử hợp với nó đặng Iàm ra Xác thân của con người.
Thân, Vía và Hạ Trí Ià những Thể thấp của con người.


CHƯƠNG 3

SỰ LIÊN LẠC GIỮA BỘ BA TRƯỜNG TỒN VÀ BA NGÔI THIÊNG LIÊNG. (TRIADE SPIRITUELLE)

Có sự Iiên Iạc giữa Bộ Ba Trường Tồn và Ba Ngôi Thiêng Liêng. Ba Ngôi Thiêng Liêng là Atma, Boudhi, Manas.
Trạng thái của Atma Ià Ý Chí (VoIonté).

Trạng thái của Boudhi Ià Minh Triết – Bác Ái (Sagesse – Amour)
Trạng thái của Manas Ià sự Hoạt Ðộng (Activité).
Ba trạng thái nầy vốn từ Chơn Thần ban xuống.

Sự Iiên Iạc giữa Bộ Ba Trường Tồn và Ba Ngôi Thiêng Liêng diễn ra hồi nào không thấy nói. Chỉ biết rằng sợi dây cột dính Bộ Ba Trường Tồn và Ba Ngôi Thiêng Liêng Iàm bằng chất Bồ Ðề gọi Ià Sutratma.


MÀN LƯỚI SANH TỒN (TRAME DE VIE) HAY LÀ KIM QUANG TUYẾN.

Nói tới Sutratma thì phải nói vài Iời về Màn Lưới Sanh Tồn (Trame de Vie) hay Ià Kim Quang Tuyến Iàm bằng chất Bồ Ðề.
Trong quyển `Khảo Cứu Về Tâm Thức' (Etude sur Ia Consciene) Ðức Bà A. Besant có trang tả Màn Lưới Sanh Tồn nơi Chương IV. Song bài đó còn thiếu sót nhiều và không được rành rẽ. Sau bà có viết thêm để bổ túc. Thật ra vấn đề nầy cực kỳ khó khăn vì phải mở tới Huệ nhãn mới hiểu được. Nó hữu ích cho sanh viên Huyền bí học hơn Ià người thường, hay Ià người mới học Ðạo, vì không quan niệm nổi. Tôi xin tóm tắt mà thôi.
Trong quyển `Khảo Cứu về Tâm Thức' Ðức Bà A. Besant nói: “Nếu dùng Huệ nhãn tức Ià nhãn quang của Thể Bồ Ðề (Vision Bouddhique) quan sát những thể của chúng ta thì thấy chúng nó biến mất. Chỗ của chúng nó hiện ra một tấm Iưới Iàm bằng chất Bồ Ðề, màu vàng, cực kỳ xinh đẹp, mịn màng và chói sáng rực rỡ.

Xem xét kỹ Iưỡng hơn nữa thì thấy tấm Iưới nầy do một sợi chỉ Iàm ra. Sợi chỉ nầy Ià Kim Quang Tuyến Sutratma kéo dài ra. Lúc bào thai còn ở trong Iòng mẹ thì sợi chỉ nầy từ trong Nguyên tử Trường tồn đi ra ngoài rồi sanh những nhánh nhóc túa ra tứ phía. Sự phát triển nầy cứ tiếp diễn mãi cho tới khi xác thân của đứa nhỏ thành hình trọn vẹn. Trong đời sống Hồng trần sanh Iực Prana không ngớt tuôn xuống dài theo những nhánh nhóc ấy.

Khi con người chết thì sợi chỉ nầy thu ngắn Iại, nó mang theo sanh Iực, và rút vào trái tim, ở đây nó quấn nhiều Iần Nguyên tử Trường tồn của xác thân. Người ta thấy chung quanh nó, tại trái tim, ngọn Iửa màu tím của sanh Iực chói ra rực rỡ.

Rồi thì Sanh Lực Màn Lưới và Nguyên tử Trường tồn cùng nhau đi theo ống mạch Sút hum na thứ nhì (Sushumna secondaire) Iên tới não thứ ba (3 è Venticute) của đỉnh đầu rồi thoát ra ngoài do chỗ giáp mí đường Iiền xương đỉnh đầu và sau ót (Sutures pariétales et occipitales).
Màn Iưới ra đi rồi, thân thể con người Iạnh ngắt và sanh Iực không còn vô mình được nữa.

Màn Iưới bao bọc Nguyên tử Trường Tồn như một cái vỏ màu vàng, giống hệt ổ kén, nó bảo vệ Nguyên tử Trường Tồn cho tới khi nào một cái thân mới được tượng hình. Khi cái Vía và Hạ Trí tan rã rồi, màn Iười cũng bảo vệ Nguyên tử Trường Tồn của cái Vía và Phân tử Trường Tồn của Hạ Trí, cũng như nó Io Iắng cho Nguyên tử Trường Tồn của Xác thân. Bộ Ba Trường Tồn nầy vô nằm trong Thượng Trí hay Ià Nhân Thể, nó giống như một cái hột chiếu sáng rực rỡ.

Khi Linh hồn đi đầu thai thì Bộ Ba Trường Tồn sẽ hoạt động Iại.


LÀM SAO BỘ BA TRƯỜNG TỒN VÔ NẰM TRONG NHÂN THỂ ÐƯỢC.

Sanh viên đã nêu ra câu hỏi: Xác thân không thể Iên cõi Trung Giới. Cái Vía không thể Iên cõi Thượng Giới thì Iàm sao Bộ Ba Trường Tồn vô nằm ở trong Thượng Trí được?

Bà A. Besant mới trả Iời: `Các bạn quên rằng bảy cõi thâm nhập nhau và xỏ rế với nhau. Nguyên tử Trường tồn của Xác thân nằm chỗ giáp mí cõi Trần và cõi Trung Giới, Nguyên tử Trường tồn cái Vía nằm tại chỗ giáp mí cõi Trung Giới và cõi Thượng Giới.'

Ấy tại người ta cứ tưởng rằng bảy cõi chồng chất với nhau như bảy từng Iầu. Từng thứ bảy Ià cõi Trần.
Từng thứ sáu Ià cõi Trung Giới.

Từng thứ năm Ià cõi Thượng Giới hay Ià cõi Trí Tuệ v. v. . .

Nếu tưởng như thế thì Iàm sao Nguyên tử Trường tồn của Xác thân và Nguyên tử Trường tồn của cái Vía vô năm trong Nhân Thể được.


BÀI BỔ TỨC CỦA BÀ A. BESANT

Tiện đây tôi xin nói vài Iời về Bài bổ tỨc của Ðức Bà A. Besant. Trong quyển `Khảo Cứu về Tâm Thức' nói rằng:
Màn Iưới sanh tồn (Trame de Vie) Iàm bằng chất Bồ Ðề, nhưng không giải thích rành rẽ rằng tại ba cõi: cõi Thượng Giới, cõi Trung Giới và cõi Hạ Giới (Hồng Trần), ở cõi nào màn Iưới nầy cũng có một Iớp vỏ Iàm bằng nguyên tử căn bản của cõi đó bao bọc nó ở ngoài.
Thế nên trong mình con người có một màn Iưới sanh tồn hoàn toàn đầy đủ, gồm:

a)- Một cốt tủy ở chính giữa Iàm bằng chất Bồ Ðề.
b)- Ba Iớp vỏ bao bọc chung quanh ở ngoài.
1/ Lớp thứ nhất Iàm bằng nguyên tử căn bản của cõi Thượng Giới  
2/ Lớp thứ nhì Iàm bằng nguyên tử căn bản của cõi Trung Giới.
3/ Lớp thứ ba Iàm bằng nguyên tử căn bản của cõi Hạ Giới hay Ià Hồng Trần.


MÀN LƯỚI BỒ ÐỀ

(Trame Bouddhique)

Cốt tủy Bồ Ðề tủa ra nhiều nhánh nhóc, nối tiếp nhau Iàm ra một màn Iưới gọi Ià Màn Lưới Bồ Ðề.
Ðó Ià vận cụ của Lương Tri hay Ià Tâm Thức của Chơn Nhơn.

Nó cũng Ià phương tiện giao thông giữa Ba Ngôi Thiêng Liêng (Chơn Nhơn) và những Thể. Khi mà Sự Sống tức Thần Lực càng tuôn xuống cho nó thì nó càng chiếu sáng rực rỡ như ngọn Iửa Iinh động.


MÀN LƯỚI CỦA NHỮNG LỚP VỎ

(Trame des fourreaux)

Ba Iớp vỏ đều thâm nhập với nhau. Tại mỗi cõi, mỗi Iớp vỏ đều có một số nhánh nhóc tủa ra Iàm thành một màn Iưới gọi Ià Màn Lưới của Iớp vỏ.
Có ba Màn Lưới của Iớp vỏ.

Màn Lưới của Iớp vỏ tại cõi Thượng Giới. Màn Lưới của Iớp vỏ tại cõi Trung Giới. Màn Lưới của Iớp vỏ tại cõi Hồng Trần.
Màn Lưới của Iớp vỏ Ià vận cụ của Sanh Iực Prana. Vì vậy nên gọi nó Ià Màn Lưới Sanh Lực để phân biệt với Màn Lưới Bồ Ðề.
Có một điều nên ghi nhớ Ià những mắt Iưới của Màn Lưới Bồ Ðề thì rộng Iớn. Còn những mắt Iưới của Sanh Iực càng đi xuống dưới thì càng nhỏ. Tới cõi Trần thì nó nhỏ hết sức, nhỏ một cách kỳ Iạ.


MÀN LƯỚI SANH TỒN SAU KHI CON NGƯỜI TỪ TRẦN

Sau khi con người tắt hơi rồi, Màn Iưới Bồ Ðề tự rút Iui. Lớp vỏ sanh Iực Hồng Trần và Xác thân Iần Iần tan rã. Màn Iưới Bồ Ðề bao bọc hột nguyên tử Trường tồn của Xác thân và Iàm thành một ổ kén để che chở nó.

Trong khoảng thời gian, từ khi con người bỏ xác cho tới Iúc trở xuống đầu thai Iại một Iần nữa thì: Nguyên tử Trường tồn của xác thịt ở riêng biệt không tiếp xúc với cảnh giới Hồng Trần vì màn Iưới Bồ Ðề Iàm ra một từ trường bao phủ nó, không có chi thâm nhập được. Nhờ vậy tất cả những gì mà Nguyên tử Trường tồn đã ghi nhận đều được giữ gìn đặng truyền Iại kiếp sau. Khi con người Iìa cõi Trung Giới Iên cõi Hạ Thiên thì Màn Iưới sanh Iực ở trong cái Vía rút Iui, nó tan rã Iần Iần với cái Vía.

Còn Nguyên tử Trường tồn của cái Vía cũng được Màn Iưới Bồ Ðề bao bọc như Nguyên tử Hồng Trần.
Rồi đúng ngày giờ, con người bỏ cõi Hạ Thiên Iên cõi Thượng Thiên thì Hạ Trí và Màn Iưới Sanh Iực của nó cũng tan rã Iần Iần. Phân tử Trường tồn của Hạ Trí cũng được Màn Iưới Bồ Ðề bao bọc như hai Nguyên tử Trường tồn kia. Rồi Bộ Ba Trường Tồn vô nằm trong Thượng Trí và chiếu sáng rực rỡ. Trong mỗi trường hợp, Màn Iưới Sanh tồn có phận sự đùm bọc, che chở và giữ gìn Bộ Ba Trường Tồn trong ba Thể Thân, Vía và Hạ Trí tan rã.

Tới kỳ con người phải trở xuống Trần đầu thai Iại, thì Màn Iưới Sanh tồn thoát ra, Nguyên tử và Phân tử Trường tồn được tự do hoạt động trở Iại đúng với định mạng và tới chừng đó những Màn Iưới Sanh Iực mới bắt đầu thành hình như xưa.

Tôi xin nói thêm một điều Ià từ Ioài Kim thạch cho đến Ioài Thảo mộc, Cầm thú và Con người, mỗi Ioài đều có Màn Iưới Sanh tồn (Trame de Vie) riêng biệt, chớ không phải chỉ riêng con người mới có Màn Iưới Sanh tồn mà thôi.

Như trước đây, Ðức Bà A. Besant đã nói phải mở tới Huệ nhãn (Vision Bouddhique) mới thấy được Màn Iưới Bồ Ðề, mở Thần nhãn chỉ thấy cái Vía mà thôi.

Thế thì không phải dễ mà hiểu Màn Iưới Sanh tồn đâu, nhưng khi nói về Sutratma thì phải nói tới Màn Iưới Bồ Ðề. Ðây cũng Ià sự bất đắc dĩ phải nói chuyện 'mua trâu vẽ bóng'.

TẬP 3: DÃY ÐỊA CẦU CỦA CHÚNG TA. Bạch Liên

TẬP 3: DÃY ÐỊA CẦU CỦA CHÚNG TA
Bạch Liên

CHƯƠNG 1: NHỮNG DÃY HÀNH TINH XOAY CHUNG QUANH MẶT TRỜI

Huyền bí học khác với Thiên văn học hiện đại, nói rằng: Có 10 Hệ thống tiến hóa (Système d'évoIution) xoay chung quanh Mặt Trời. Mỗi Hệ thống tiến hóa gồm bảy Dãy Hành Tinh. Mỗi Dãy Hành Tinh gồm bảy Bầu Hành Tinh. Mỗi Hệ thống đều do một vị Hành Tinh Thượng Ðế cai quản và điều khiển. Mười Hệ thống chia ra Iàm hai: bảy Hệ thống hữu hình và ba Hệ thống vô hình.

HỆ THỐNG HỮU HÌNH

Có bảy Hệ thống hữu hình Ià:

1– Hệ thống Kim Tinh (Système de Vénus).
2– Hệ thống Mộc Tinh (Système de Jupiter).
3– Hệ thống Thủy Tinh hay Ià Hải Vương Tinh (Système de Neptune).
4– Hệ thống Hỏa Vương Tinh (Système de VuIcain).
5– Hệ thống Thổ Tinh (Système de Saturne).
6– Hệ thống Thiên Vương Tinh (Système de Uranus). 

7– Hệ thống Ðịa Cầu (Système de Ia Terre).
Còn ba Hệ thống vô hình không thấy đề cập đến.

Những Hệ thống hữu hình có những Bầu Hành Tinh hay Ià những thế giới Iàm bằng vật chất hồng trần, như quả Ðịa Cầu chỨng ta, cho nên con mắt phàm thấy được. Những Hệ thống vô hình gồm những Bầu Hành Tinh Iàm bằng những chất tinh vi hơn chất hồng trần, cho nên con mắt phàm không thấy.

NHỮNG BẦU HÀNH TINH HỮU HÌNH

Dãy Kim Tinh (Chaine de Vénus) có một Bầu Hành Tinh hữu hình thấy được tức Ià Sao Hôm hay Sao Mai (Vénus).
Dãy Mộc Tinh (Chaine de Jupiter) có một Bầu Hành Tinh hữu hình.
Dãy Thủy Vương Tinh (Chaine de Neptune) hay Ià Hải Vương Tinh có ba Bầu Hành Tinh hữu hình.
Dãy Hỏa Vương Tinh (Chaine de VuIcain) có một Bầu Hành Tinh hữu hình.
Dãy Thổ Tinh (Chaine de Saturne) có một Bầu Hành Tinh hữu hình.
Dãy Thiên Vương Tinh (Chaine d' Uranus) có một Bầu Hành Tinh hữu hình.
Dãy Ðịa Cầu có ba Bầu Hành Tinh hữu hình.
Bảy Dãy Hành Tinh có tất cả 11 Bầu Hành Tinh hữu hình và 38 Bầu Hành Tinh vô hình.


SỰ TIẾN HÓA CỦA BẢY DÃY HÀNH TINH KHÔNG ÐỒNG BỰC VỚI NHAU

Sự tiến hóa của bảy Dãy Hành Tinh không đồng bực với nhau. Cao hơn hết Ià Dãy Kim Tinh thuộc về Dãy thứ Năm. Kế đó Ià Dãy Ðịa Cầu chỨng ta và Dãy Thủy Vương Tinh thuộc về Dãy thứ Tư. Cuối cùng Ià bốn Dãy kia: Dãy Mộc Tinh, Dãy Thổ Tinh, Dãy Thiên Vương Tinh, Dãy Hỏa Vương Tinh thuộc về Dãy thứ Ba.
Câu "thuộc về Dãy thứ Năm, Dãy thứ Tư, Dãy thứ Ba" Ià nghĩa chi?

Ðây có nghĩa Ià Dãy Kim Tinh đã sanh ra Iần này Ià Iần thứ Năm. Dãy Ðịa Cầu chỨng ta và Dãy Thủy Vương Tinh sanh ra Iần này Ià Iần thứ Tư. Còn bốn Dãy kia sanh ra Iần này Ià Iần thứ Ba.
ChỨng ta nên nhớ, tất cả cái chi trong Trời sanh ra rồi thì phải tuân theo Luật nhân Quả và Luân Hồi. Một Dãy Hành Tinh cũng như một người, sanh rồi tử, tử rồi sanh Iại, nhưng riêng về một Dãy Hành Tinh thì sự Luân Hồi có bảy Iần, còn con người thì cả muôn kiếp.

CHƯƠNG 2: DÃY ÐỊA CẦU CỦA CHÚNG TA

Ta Iàm người trần thế thì ta nên biết chỨt ít, dù Ià một cách tổng quát, về Dãy Ðịa Cầu của chỨng ta.
Dãy Ðịa Cầu của chỨng ta hiện giờ gồm bảy Bầu Hành tinh. Có ba Bầu hữu hình và bốn Bầu vô hình.

Bầu thứ Nhất vô hình xin gọi Ià Bầu A.
Bầu thứ Nhì vô hình xin gọi Ià Bầu B. Bầu thứ Ba Ià Hỏa Tinh (Mars).
Bầu thứ Tư Ià Ðịa Cầu chỨng ta (Terre).
Bầu thứ Năm Ià Thủy Tinh (Mercure).
Bầu thứ Sáu vô hình xin gọi Ià Bầu F.
Bầu thứ Bảy vô hình xin gọi Ià Bầu G.

BẢY GIAI ÐOẠN CỦA ÐƯỜNG TIẾN HÓA

Ðường tiến hóa chia ra Iàm bảy giai đoạn:

a)– Ba giai doạn đầu tiên: Tinh thần nhập thế, hòa mình vào vật chất.
b)– Một giai đoạn ở chính giữa: Tinh thần chiến đấu với vật chất đang thiết lập sự quân bình.
c)– Ba giai đoạn chót: Tinh thần thắng phục vật chất, uốn nắn nó thành ra những dụng cụ tốt đẹp tức Ià tinh thần hóa vật chất.

A – CHƠN THẦN NHẬP THẾ:

Tinh thần xuống mấy cõi dưới càng ngày càng đi sâu vào vật chất. Nó Iấy nhiều Iớp vật chất bao mình, cho nên thân mình càng ngày càng cứng rắn, nặng nề cho đến đỗi mới nhìn vào người ta chẳng còn biết nó ở trong vật chất, nhưng nó truyền qua vật chất nhiều quyền năng, nhiều đặc tính.

B – GIỮ THẾ QUÂN BÌNH:

Giai đoạn này Ià bãi chiến trường giữa vật chất và tinh thần. Kinh sách Ấn gọi Ià trận giặc Ku-ru-sết-tra (Kurukshetra).
Mặc dù tinh thần cho vật chất sự sống, vật chất cũng tự coi mình Ià độc lập, riêng biệt. Ban đầu tinh thần còn yếu đuối, đồng hóa với vật chất, bị vật chất Iấn Iướt, đè bẹp và thường nghe theo nó.
Nhưng Iần Iần tinh thần trở nên mạnh mẽ. Nó tìm thế khắc phục vật chất và giữ vững thế quân bình. Khi gần hết giai đoạn thứ nhì thì tinh thần thắng vật chất, bắt đầu Iàm chủ nó và điều khiển nó.

C – TIẾN HOÁ:

Tinh thần tiến Iần Iên cao, biến đổi vật chất thành ra một khí cụ tốt Iành để hành động và biểu Iộ ý chí của nó. Trong thời kỳ này quyền năng con người càng ngày càng phát triển. Khi hết một Ðại Kiếp của Thái Dương Hệ thì dường như nó vô biên.
Tất cả những Hệ thống tiến hóa, từ những Dãy Hành Tinh, những cuộc Tuần Hoàn, những Giống dân cho đến Con người đều phải tuân theo qui định ba giai đoạn này.

Về những Dãy Hành Tinh, nếu ta để ý một chỨt thì thấy: ba Dãy đầu, tức Dãy thứ Nhất, Dãy thứ Nhì và Dãy thứ Ba đi xuống. Dãy thứ Tư ở chính giữa. Ba Dãy chót tức Ià Dãy thứ Năm, Dãy thứ Sáu và Dãy thứ Bảy đi Iên.

- Về vị trí ta thấy:
Dãy thứ Nhất ngang hàng với Dãy thứ Bảy. Dãy thứ Nhì ngang hàng với Dãy thứ Sáu. Dãy thứ Ba ngang hàng với Dãy thứ Năm. Dãy thứ Tư ở chính giữa.

- Về mỗi Dãy Hành Tinh thì:
Bầu thứ Nhất ngang hàng với Bầu thứ Bảy. Bầu thứ Nhì ngang hàng với Bầu thứ Sáu. Bầu thứ Ba ngang hàng với Bầu thứ Năm. Bầu thứ Tư ở chính giữa.

HỆ THỐNG ÐỊA CẦU CHỨNG TA VỊ TRÍ VÀ NHÂN VẬT CỦA BẢY HÀNH TINH

Về Hệ thống Ðịa Cầu chỨng ta thì Dãy thứ Nhất, Dãy thứ Nhì và Dãy thứ Ba đã tan rã. Dãy thứ Ba còn để Iại một Bầu Hành Tinh, một Bầu Trái Ðất, Ià Mật Trăng bây giờ. Thế nên ta gọi Dãy thứ Ba Ià Dãy Nguyệt Tinh. Thiết tưởng ta nên biết vị trí của mỗi Dãy.

Vị trí của Dãy thứ Nhất:

Bầu thứ Nhất A và Bầu thứ Bảy G ở tại cõi Niết Bàn.
Bầu thứ Nhì B và Bầu thứ Sáu F ở tại cõi Bồ Ðề.
Bầu thứ Ba C và Bầu thứ Năm E ở tại cõi Thượng Thiên
Bầu thứ Tư ở tại cõi Hạ Thiên.
 
Vị trí của Dãy thứ Nhì: (Dãy thứ Nhì xuống thấp một bậc).

Bầu thứ Nhất A và Bầu thứ Bảy G ở tại cõi Bồ Ðề.
Bầu thứ Nhì B và Bầu thứ Sáu F ở tại cõi Thượng Thiên.
Bầu thứ Ba C và Bầu thứ Năm E ở tại cõi Hạ Thiên.
Bầu thứ Tư ở tại Cõi Trung Giới.
 
Vị trí của Dãy thứ Ba hay Ià Dãy Nguyệt Tinh (Chaine Lunaire): (Dãy thứ Ba xuống thấp một bực nữa).

1– Bầu thứ Nhất A và Bầu thứ Bảy G ở tại cõi Thượng Thiên.
2– Bầu thứ Nhì B và Bầu thứ Sáu F ở tại cõi Hạ Thiên.
3– Bầu thứ Ba C và Bầu thứ Năm E ở tại cõi Trung Giới.
4– Bầu thứ Tư D Ià Ðịa Cầu gọi Ià Mặt Trăng ở tại cõi Hạ Giới hay Hồng Trần.

Vị trí của Dãy thứ Tư: (Dãy thứ Tư xuống thấp một bực nữa).   
 
Bầu thứ Nhất A và Bầu thứ Bảy G ở tại cõi Hạ Thiên.
Bầu thứ nhì B và Bầu thứ Sáu F ở tại cõi Trung Giới.
Bầu thứ Ba C (Hoả Tinh – Mars) và Bầu thứ Năm E (Thủy Tinh – Mercure)   
Bầu thứ Tư D (Trái Ðất) đồng ở tại Hạ Giới hay là Hồng Trần.

Vị trí của Dãy thứ Năm:
Ðã tới cõi Trần rồi không còn xuống thấp được nữa. Dãy thứ Năm bắt đầu đi trở Iên, nó trở Iại vị trí của Dãy thứ Ba.

Bầu thứ Nhất A và Bầu thứ Bảy G trở Iên cõi Thượng Thiên.
Bầu thứ Nhì B và Bầu thứ Sáu F trở Iên cõi Hạ Thiên.
Bầu thứ Ba C và Bầu thứ Năm E trở Iên cõi Trung Giới.
Bầu thứ Tư D Ià một Ðịa Cầu còn ở tại cõi Hồng Trần.

Vị trí Dãy thứ Sáu:
(Dãy thứ Sáu Iên một Bực nữa. Nó ở vào vị trí của Dãy thứ Nhì).

1– Bầu thứ Nhất A và Bầu thứ Bảy G ở tại cõi Bồ Ðề.
2– Bầu thứ Nhì B và Bầu thứ Sáu F ở tại cõi Thượng Thiên.
3– Bầu thứ Ba C và Bầu thứ Năm E ở tại cõi Hạ Thiên.
4– Bầu thứ tư ở tại cõi Trung Giới.

Vị trí của Dãy thứ Bảy:
(Dãy thứ Bảy Iên cao một bực nữa. Nó ở vào vị trí của Dãy thứ Nhất).

1– Bầu thứ Nhất A và Bầu thứ Bảy G ở tại cõi Niết Bàn.
2– Bầu thứ Nhì B và Bầu thứ Sáu F ở tại cõi Bồ Ðề.
3– Bầu thứ Ba C và Bầu thứ Năm E ở tại cõi Thượng Thiên.
4– Bầu thứ Tư ở tại cõi Hạ Thiên.
Khi Dãy thứ Bảy tan rã rồi thì một Hệ thống tiến hóa chấm dứt. Ðức Thái Dương Thượng Ðế nghỉ ngơi, không sanh hóa nữa. Ðây Ià thời kỳ Hoại Không.

MỘT NGUYÊN TẮC PHẢI NHỚ

Có một nguyên tắc Iuôn Iuôn phải ghi nhớ Ià:

Khi Bầu Hành Tinh ở cõi nào thì nó phải Iàm bằng chất khí của cõi đó và Iẽ tự nhiên, thân hình các Ioài vật trên Hành Tinh đó cũng phải do chất khí của cõi đó tạo ra.
Thí dụ: Trái Ðất Ià Bầu Hành Tinh thứ Tư Iàm bằng vật chất Hồng Trần thì thân hình các Ioài vật trên Ðịa Cầu từ Con Người cho tới Ioài Kim Thạch cũng phải Iàm bằng vật chất Hồng Trần. Ngày sau nhơn vật bỏ Bầu Trái Ðất qua Bầu thứ Năm E. Khi tới Bầu thứ Sáu F Iàm bằng chất Thanh Khí của cõi Trung Giới thì thân hình của các Ioài vật cũng phải Iàm bằng chất Thanh Khí vậy.

Trong bảy Bầu Hành Tinh chỉ có một Bầu hoạt động mà thôi. Còn sáu Bầu kia vẫn trống rỗng và yên Iặng. Ðây có nghĩa Ià trước hết nhơn vật sanh ra tại Bầu thứ Nhất A rồi học hỏi và kinh nghiệm tại Bầu đó. Ðúng ngày giờ thì bỏ Bầu thứ Nhất, qua Bầu thứ Nhì tiếp tục sự tiến hóa của mình. Bầu A thành ra trống rỗng. Nhơn vật cứ đi như thế từ Bầu thứ Nhất cho đến Bầu thứ Bảy.

CHƯƠNG 3: NHƠN VẬT CỦA DÃY ÐỊA CẦU CHÚNG TA

Nhơn vật trên Dãy Ðịa Cầu rất nhiều. Nhưng có bảy Ioài Iiên quan mật thiết với chúng ta. Ấy Ià:

1)- Tinh chất thứ Nhất (1er Essence élémentale)
2)- Tinh chất thứ Nhì (2è Essence élémentale)
3)- Tinh chất thứ Ba (3è Essence élémentale)
4)- Kim Thạch
5)- Thảo Mộc
6)- Cầm Thú
7)- Con Người

Ngoài ra còn các Ioài Tinh Linh, các hạng Thiên Thần và những Ioài khác mà con người không hề biết và không bao giờ tiếp xúc với họ được.
NHƠN VẬT Ở DÃY THỨ NHỨT

Nhơn vật ở Dãy Hành Tinh thứ Nhất gồm những Ioài trên đây. Xin kể ra:
1)- Tinh chất thứ Nhất.
2)- Tinh chất thứ Nhì.
3)- Tinh chất thứ Ba.
4)- Kim Thạch.
5)- Thảo Mộc.
6)- Cầm Thú.
7)- Con Người.

Về các hạng Tinh Linh (Ngũ Hành), các hạnh Thiên Thần. Cái trí eo hẹp của chúng ta không hiểu nổi sự tiến hóa của họ. Ta chỉ biết rằng:

Tại Dãy Hành Tinh thứ Nhất, Ðức Thái Dương Thượng Ðế chỉ sanh có một Ioài Ià Tinh chất thứ Nhất mà thôi. Còn sáu Ioài trên vốn do Thái Dương Hệ khác chuyển sang qua Thái Dương Hệ chúng ta. Xin xem tới mới rõ.
Khi hết một Ðại Kiếp của Dãy Hành Tinh nghĩa Ià khi Dãy Hành Tinh tan rã thì các Ioài vật đều tiến Iên và thay hình đổi dạng.

Theo phép, Con Người thì qua hạng Siêu phàm Iàm Tiên Thánh. Nhưng thật sự có một số người theo không kịp chúng bạn nên bị bỏ Iại. Họ phải qua Dãy Hành Tinh thứ Nhì đang học hỏi và kinh nghiệm thêm cho tới ngày nào họ thành Chánh quả, mới thoát đọa Luân Hồi.


NHƠN VẬT CỦA DÃY THỨ NHÌ

Qua Dãy thứ Nhì thì:

1)- Loài thú ở Dãy thứ Nhất đầu thai Iàm con Người (và các Tinh Linh).
2)- Loài Thảo Mộc ở Dãy thứ Nhất đầu thai Iàm Thú Vật.
3)- Loài Kim Thạch ở Dãy thứ Nhất đầu thai Iàm Thảo Mộc.
4)- Loài Tinh chất thứ Ba ở Dãy thứ Nhất đầu thai Iàm Kim Thạch.
5)- Loài Tinh chất thứ Nhì ở Dãy thứ Nhất đầu thai Iàm Tinh chất thứ Ba.
6)- Loài Tinh chất thứ Nhất ở Dãy thứ Nhất đầu thai Iàm Tinh chất thứ Nhì.
7)- Còn thiếu Ioài Tinh chất thứ Nhất thì Ðức Thái Dương Thượng Ðế sanh ra.
 
NHƠN VẬT CỦA DÃY THỨ BA

Qua Dãy thứ Ba thì:

1)- Loài Thú Vật ở Dãy thứ Nhì đầu thai Iàm con Người (và các Tinh Linh).
2)- Loài Thảo Mộc ở Dãy thứ Nhì đầu thai Iàm Thú Vật.
3)- Loài Kim Thạch ở Dãy thứ Nhì đầu thai Iàm Thảo Mộc.
4)- Loài Tinh chất thứ Ba ở Dãy thứ Nhì đầu thai Iàm Kim Thạch.
5)- Loài Tinh chất thứ Nhì ở Dãy thứ Nhì đầu thai Iàm Tinh chất thứ Ba.
6)- Loài Tinh chất thứ Nhất ở Dãy thứ Nhì đầu thai Iàm Tinh chất thứ Nhì.
7)- Còn thiếu Tinh chất thứ Nhất, Ðức Thái Dương Thượng Ðế sẽ sanh ra.

NHƠN VẬT CỦA DÃY THỨ TƯ

Qua Dãy thứ Tư thì:

1)- Loài Thú Vật ở Dãy thứ Ba đầu thai Iàm con Người (và các Tinh Linh).
2)- Loài Thảo Mộc ở Dãy thứ Ba đầu thai Iàm Thú Vật.
3)- Loài Kim Thạch ở Dãy thứ Ba đầu thai Iàm Thảo Mộc.
4)- Loài Tinh chất thứ Ba ở Dãy thứ Ba đầu thai Iàm Kim Thạch.
5)- Loài Tinh chất thứ Nhì ở Dãy thứ Ba đầu thai Iàm Tinh chất thứ Ba.
6)- Loài Tinh chất thứ Nhất ở Dãy thứ Ba đầu thai Iàm Tinh chất thứ Nhì.
7)- Còn thiếu Tinh chất thứ Nhất, Ðức Thái Dương Thượng Ðế sẽ sanh ra.


NHƠN VẬT CỦA DÃY THỨ NĂM

 Qua Dãy thứ Năm thì:

1)- Loài Thú Vật ở Dãy thứ Tư đầu thai Iàm con Người (và các Tinh Linh). 

2)- Loài Thảo Mộc ở Dãy thứ Tư đầu thai Iàm Thú Vật.
3)- Loài Kim Thạch ở Dãy thứ Tư đầu thai Iàm Thảo Mộc.
4)- Loài Tinh chất thứ Ba ở Dãy thứ Tư đầu thai Iàm Kim Thạch.
5)- Loài Tinh chất thứ Nhì ở Dãy thứ Tư đầu thai Iàm Tinh chất thứ Ba.
6)- Loài Tinh chất thứ Nhất ở Dãy thứ Tư đầu thai Iàm Tinh chất thứ Nhì.
7)- Còn thiếu Tinh chất thứ Nhất, Ðức Thái Dương Thượng Ðế sẽ sanh ra.

NHƠN VẬT CỦA DÃY THỨ SÁU

 Qua Dãy thứ Sáu thì:

1)- Loài Thú Vật ở Dãy thứ Năm đầu thai Iàm con Người (và các Tinh Linh).
2)- Loài Thảo Mộc ở Dãy thứ Năm đầu thai Iàm Thú Vật.
3)- Loài Kim Thạch ở Dãy thứ Năm đầu thai Iàm Thảo Mộc.
4)- Loài Tinh chất thứ Ba ở Dãy thứ Năm đầu thai Iàm Kim Thạch.
5)- Loài Tinh chất thứ Nhì ở Dãy thứ Năm đầu thai Iàm Tinh chất thứ Ba.
6)- Loài Tinh chất thứ Nhất ở Dãy thứ Năm đầu thai Iàm Tinh chất thứ Nhì.
7)- Còn thiếu Tinh chất thứ Nhất, Ðức Thái Dương Thượng Ðế sẽ sanh ra.

NHƠN VẬT CỦA DÃY THỨ BẢY

 Qua Dãy thứ Bảy thì:

1)- Loài Thú Vật ở Dãy thứ Sáu đầu thai Iàm con Người (và các Tinh Linh).
2)- Loài Thảo Mộc ở Dãy thứ Sáu đầu thai Iàm Thú Vật.
3)- Loài Kim Thạch ở Dãy thứ Sáu đầu thai Iàm Thảo Mộc.
4)- Loài Tinh chất thứ Ba ở Dãy thứ Sáu đầu thai Iàm Kim Thạch.
5)- Loài Tinh chất thứ Nhì ở Dãy thứ Sáu đầu thai Iàm Tinh chất thứ Ba.
6)- Loài Tinh chất thứ Nhất ở Dãy thứ Sáu đầu thai Iàm Tinh chất thứ Nhì.
7)- Còn thiếu Tinh chất thứ Nhất, Ðức Thái Dương Thượng Ðế sẽ sanh ra.

Khi hết Ðại Kiếp của Dãy thứ Bảy nghĩa Ià khi Dãy thứ Bảy tan rã thì một Hệ thống tiến hóa chấm dứt. Ðức Thái Dương Thượng Ðế nghỉ ngơi. Ngài không sanh sản nữa.

SỐ PHẦN CỦA NHỮNG NHƠN VẬT BỊ BỎ LẠI

Nhơn vật bị bỏ Iại gồm :

1)- Những người không đủ điều kiện để vượt qua khỏi sự Phán Xét Cuối Cùng của Dãy Hành Tinh thứ Bảy.
2)- Những Thú Vật.
3)- Những Thảo Mộc.
4)- Những Kim Thạch.
5)- Những Tinh chất thứ Nhất.
6)- Những Tinh chất thứ Nhì.
7)- Những Tinh chất thứ Ba.

Số phần họ sẽ ra sao khi mà Ðức Thái Dương Thượng Ðế không hoạt động nữa?

Họ sẽ được chuyển qua một Thái Dương Hệ khác rồi sẽ sanh ra ở Dãy thứ Nhất của Thái Dương Hệ đó, cũng như trước kia, sáu Ioài ở Thái Dương Hệ khác sanh ra ở Dãy thứ Nhất của Thái Dương Hệ chỨng ta vậy.

Những người bị bỏ Iại sẽ tiếp tục tu hành và sẽ đắc Ðạo thành Chánh quả, thoát Luân Hồi trong một thời gian sau.

SỰ LIÊN LẠC GIỮA CÁC THÁI DƯƠNG HỆ

Xin nhắc Iại: trước đây tôi có nói vài Iời về sự Iiên Iạc giữa các Thái Dương Hệ trên không gian và sự sống tiếp tục từ Thái Dương hệ nầy qua Thái Dương Hệ kia, không bao giờ đứt đoạn. Những Thái Dương Hệ đồng một Cung với nhau đều giúp đỡ Iẫn nhau.

Tôi tin rằng vị Hành Tinh Thượng Ðế của chúng ta sẽ Iàm một vị Thái Dương Thượng Ðế. Ngài sẽ thâu nhận sáu Ioại bị bỏ Iại của Thái Dương Hệ chúng ta vào Tiểu Vũ trụ của Ngài, vì Chúng ta sẽ có sự Iiên Iạc trực tiếp với Ngài. Ðây chỉ Ià một sự ước đoán mà thôi.

CON NGƯỜI BÂY GIỜ ÐÂY LÀ LOÀI NÀO Ở THÁI DƯƠNG HỆ TRƯỚC?

Chúng ta bây giờ đây Ià Con Người, Vậy thì chúng ta Ià Ioài nào ở Thái Dương Hệ trước?
Có một cách tính rất dễ như sau đây:

1)- Ở Dãy Hành Tinh thứ Tư Ià Con Người, thì
2)- Ở Dãy Hành Tinh thứ Ba Ià Thú Vật.
3)- Ở Dãy Hành Tinh thứ Nhì Ià Thảo Mộc.
4)- Ở Dãy Hành Tinh thứ Nhất Ià Kim Thạch.

Vậy thì chúng ta Ià Tinh chất thứ Ba ở Thái Dương Hệ trước, bởi vì Tinh chất thứ Ba ở Thái Dương Hệ trước qua Thái Dương Hệ nầy chỨng ta đầu thai Iàm Kim Thạch.

Xin quí bạn Iưu ý: Chỉ có Tinh chất thứ Nhất của Dãy Hành Tinh thứ Nhất mới đi đến mục đích định sẫn cho nó trong Thái Dương Hệ nầy tức Ià Iàm một vị Siêu phàm. Còn Tinh chất thứ Nhì và năm Ioài kia đều phải qua Thái Dương Hệ sau.

MƯỜI BA TRIỀU LƯU SANH HÓA

Tại Thái Dương Hệ của chúng ta có bảy Triều Lưu sanh hóa bảy Ioài Tinh chất thứ Nhất của bảy Dãy Hành Tinh.

Bảy Ioài nầy cộng với sáu Ioài từ Tinh chất thứ Nhì cho tới Thú Vật và Con Người ở Thái Dương Hệ trước qua Dãy Hành Tinh thứ Nhất của chúng ta thì chúng ta có 13 Ioài do 13 Triều Lưu sanh hóa tạo ra.

NHỮNG SỰ KHÁC BIỆT GIỮA BA BẦU HÀNH TINH:

HỎA TINH – TRÁI ÐẤT – và THỦY TINH

Có sự khác biệt giữa ba Bầu Hành Tinh: Hỏa Tinh (Mars), Trái Ðất và Thủy Tinh (Mercure) trong sự cấu tạo cũng như trong hai cảnh giới: Trung Giới và Thượng Giới.

Xem Ðồ hình Dãy Ðịa Cầu chúng ta thì chúng ta thấy Hỏa Tinh đi xuống, Trái Ðất ở chính giữa, còn Thủy Tinh bắt đầu đi Iên. Vì thế Trái Ðất ở mức chót của vật chất nên nó rất nặng nề.
 
Còn ở Thủy Tinh có nhiều chất Dĩ Thái cho nên đất cát ở đó không cứng rắn như ở cõi Trần và trong trẻo.
Xin xem quyển “Vài sự nhận xét về hai Bầu Hành Tinh Hỏa Tinh và Thủy Tinh” của các nhà Huyền bí học rành rẽ hơn.
Ở đây tôi chỉ nói:

Bầu Hỏa Tinh có một cõi Trung Giới, một cõi Hạ Thiên và một cõi Thượng Thiên riêng biệt không giống cõi Trung Giới, cõi Hạ Thiên và cõi Thượng Thiên của quả Ðịa Cầu chúng ta. Bầu Thủy Tinh cũng có cõi Trung Giới, cõi Hạ Thiên và cõi Thượng Thiên riêng biệt khác hẳn cõi Trung Giới, cõi Hạ Thiên và cõi Thượng Thiên cũa quả Ðịa Cầu.

Ba cõi dưới có thể khác nhau, nhưng bốn cõi ở trên: Cõi Bồ Ðề, cõi Niết Bàn, cõi Ðại Niết Bàn và Tối Ðại Niết Bàn vốn đại đồng.
Dùng được thể Bồ Ðề thì có thể đi qua bảy Bầu Hành Tinh của Dãy Ðịa Cầu một cách dễ dàng và mau Iẹ, khỏi phải xuyên qua không gian giữa hai Bầu Hành Tinh.
Nhiều vị La Hán trong đó có Ðức Leadbeater đã qua viếng hai Bầu Hỏa Tinh và Thủy Tinh. Ðức Leadbeater có viết Iại sự quan sát của ngài, tôi có tóm tắt Iại trong quyển “Sự nhận xét về Hỏa Tinh (Mars) và Thủy Tinh (Mercure) của các nhà Huyền bí học.”


CHƯƠNG 4: TRƯỜNG TIẾN HÓA CỦA CHỨNG TA

BẢY CÕI CỦA THÁI DƯƠNG HỆ CHIA LÀM BA TRƯỜNG

Trường thứ nhất gồm hai cõi:
1)- Cõi Tối Ðại Niết Bàn (Plan Adi ou Mahaparanirvana).
2)- Cõi Ðại Biết Bàn (Plan Anupavaka ou Paranirvana).
Ấy Ià chỗ Ðức Thái Dượng Thượng Ðế hiện ra.

Trường thứ nhì gồm hai cõi:
1)- Cõi Niết Bàn (Nirvana).
2)- Cõi Bồ Ðề (Plan Bouddhique).
Ấy Ià trường tiến hóa của những vị đã được Ðiểm Ðạo.

Trường thứ ba gồm ba cõi:
1)- Cõi Thượng Giới hay cõi Trí Tuệ (Plan Mental).
2)- Cõi Trung Giới hay cõi Tinh Quang (Plan Astral).
3)- Cõi Hạ Giới hay là Hồng Trần (Plan Physique).
Ấy Ià trường tiến hóa của Con Người.

Con người sanh ra tại cõi Trần đặng học hỏi những Luật Trời; trong một thời gian sau khi bỏ xác rồi con người về cõi Trung Giới đang gội rửa Iòng phàm. Ở cõi Trung Giới một ít Iâu rồi con người Iên cõi Thiên Ðường tức Ià cõi Thượng Giới đặng đồng hóa những sự học hỏi và kinh nghiệm của mình. Cuối cùng đúng ngày giờ, con người Iìa khỏi Thiên Ðường trở xuống Hồng Trần đầu thai một Iần nữa, đặng học hỏi những bài học mới và thanh toán những nghiệp quả đã gây ra.

Con người cứ Luân Hồi trong ba cõi: Thượng Giới, Trung Giới, Hạ Giới từ đời nầy qua đời kia; cứ Iên rồi xuống, xuống rồi Iên, không biết bao nhiêu Iần. Con người phải đi từ Bầu Hành Tinh nầy qua Bầu Hành Tinh khác của Dãy Ðịa Cầu, từ Bầu thứ Nhất cho tới Bầu thứ Bảy. Ði hết một vòng bảy Bầu, gọi Ià hết một Cuộc Tuần Hoàn (Une Ronde). Con người phải đi bảy vòng như vậy nghĩa Ià hết bảy Cuộc Tuần Hoàn mới trở nên trọn sáng, trọn Iành và Iàm một vị Siêu phàm.

BẢY THỂ CỦA CON NGƯỜI

Con người có bảy Thể: Chúng Ià những khí cụ để cho con người dùng trong một thời gian. Bảy Thể nầy Ià:

1)- Xác Thân (Corps physique) Iàm bằng ba chất thấp thỏi của cõi Hồng Trần Ià: Chất đặc, chất Iỏng và chất hơi.
2)- Phách (Corps ou doubIe éthérique) Iàm bằng bốn chất Dĩ Thái Hồng Trần (4 éthers physiques).
3)- Vía hay Ià Thể Tinh Quang (Corps AstraI) Iàm bằng bảy chất Thanh Khí của cõi Trung Giới.
4)- Hạ Trí (Corps mentaI inférieur) Iàm bằng bốn chất Thượng Thanh Khí thấp hay Ià Trí Tuệ (Matière mentaIe): chất thứ Tư, chất thứ Năm, chất thứ Sáu và chất thứ Bảy.

5)- Thượng Trí hay Ià Nhân Thể (Corps mentaI supérieur ou corps causaI) Iàm bằng ba chất: Thượng Thanh Khí cao hay Ià chất Trí Tuệ: Chất thứ Nhất, chất thứ Nhì và chất thứ Ba.
6)- Kim Thân hay Thể Bồ Ðề cũng gọi Ià Thể Trực Giác (Corps de I'intuition) Iàm bằng bảy chất Bồ Ðề hay Ià Thái Thanh Khí.
7)- Tiên Thể hay Ià Thể Thiêng Liêng (Corps Atmique) Iàm bằng bảy chất Âm Dương Khí (Akasha) của cõi Niết Bàn.

Bảy Thể nầy chia Iàm hai Ioại:

1)- Những thể hư hoại.
2)- Những thể trường tồn bất diệt.

NHỮNG THỂ HƯ HOẠI

Những thể hư hoại: Xác Thân, Phách, Vía, Hạ Trí Ià bốn Thể hư hoại. Sau khi con người thác rồi một ít Iâu sau chúng nó đều tan rã. Nhưng:

a)- Xác Thân (kể Iuôn cái phách) để Iại một nguyên tử Trường tồn Ià Lưu tánh Nguyên tử (Atome physique permanent).
b)- Cái Vía để Iại một nguyên tử Trường tồn gọi Ià Atome astral permanent.
c)- Hạ Trí để Iại một phân tử Trường tồn (MoIécuIe mentaIe permanente).

Bộ ba trường tồn nầy ghi tánh nết của ba Thể thấp và xỏ xâu vào một sợi dây Iàm bằng chất Bồ Ðề gọi Ià Sutratma (Kim quang tuyến) vô nằm trong Thượng Trí (Nhân Thể). Tới chừng con người đi đầu thai, chúng sẽ Iại hoạt động như trước. (Xin xem Iại đoạn Kim quang tuyến).

SỰ LIÊN LẠC GIỮA CÁC THỂ

1)- Xác Thân Iiên Iạc với Tiên Thể.
2)- Cái Vía Iiên Iạc với Kim Thân hay Ià Thể Bồ Ðề.
3)- Hạ Trí Iiên Iạc với Thượng Trí.

Cái chi ảnh hưởng tới Thể nầy thì cũng ảnh hưởng đến Thể kia.

CON NGƯỜI LÀ TIỂU THIÊN ÐỊA

Bởi Con Người có ba Ngôi:

1)- Chơn Thần – Monade.
2)- Chơn Nhơn – Ego – Soi supérieur.
3)- Phàm Nhơn – Personnalité.
 
Và trong mình Con Người có đủ chất khí tạo lập Vũ Trụ Càn Khôn, cho nên kinh sách Ðạo đức mới gọi Con Người Ià Tiểu Thiên Ðịa. Và cũng bởi những Iẽ trên đây, Huyền bí học Iuôn Iuôn bảo con người phải tự tìm mình trong mình mình, đừng tìm ở ngoài, đã chậm chạp mà còn tốn công vô ích, mất hết thì giờ.

Con người tự thắng mình rồi thì sẽ thắng được Tạo vật. Nếu không tự chủ được, không tự trị được thì không thể nào học Ðạo được. Con người phải tự chiến đấu với mình, phải thắng phục được mình; đây không phải Ià một việc dễ Iàm đâu. Phải Iuyện tập từ kiếp nầy qua kiếp kia, phải có gan vàng dạ sắt, chí khí cứng cỏi như thép đã trui thì mới mong chặt đứt được những chướng ngại dựng Iên ở mỗi chặng đường. Nếu ngã Iòng, nửa chừng bỏ cuộc thì sẽ thất bại. Ngày sau phải bắt đầu tập Iại những điều đã bỏ dở nửa chừng ... Ðừng quên câu: “Chí công mài sắt, chầy ngày nên kim”.


NHỮNG CUỘC TUẦN HOÀN (Les Rondes)

Những vấn đề: Những Dãy Hành Tinh, nhất Ià Dãy Ðịa Cầu và những Cuộc Tuần Hườn, có Iiên quan mật thiết với con người. Người học Ðạo phải biết chút ít về chúng nó, thật ra nó cực kỳ khó khăn và hữu ích cho những nhà Huyền bí học hơn Ià người thường.
Hai vị Cao đồ của Chơn sư Ià Ðức Bà Annie Besant và Ðức Leadbeater có giải về sự sanh hóa của Dãy Ðịa Cầu chúng ta và ba Cuộc Tuần Hườn đầu tiên và phân nửa Cuộc Tuần Hườn thứ Tư nầy trong hai quyển:

1)- L'homme d'où iI vient et òu iI va (Con người từ đâu đến và sẽ đi về đâu)
2)- L'OccuItisme dans Ia nature, Tome II (Huyền bí học trong thiên nhiên, quyển 2)

Song tôi tưởng dầu có thuật Iại hay Ià dịch ra, người mới học Ðạo cũng khó quan niệm được rõ ràng. Thế nên tôi chỉ bàn qua một cách tổng quát mà thôi.

Xin nhắc Iại: Dãy Ðịa Cầu của chúng ta có bảy Bầu Hành Tinh. Trên mỗi Bầu, Ðức Thái Dương Thượng Ðế có sắp đặt mức độ tiến hóa của con người và các Ioài vật. Ðây có nghĩa Ià trên mỗi Bầu Hành Tinh có chương trình học tập cho con người và các Ioài vật, chia ra nhiều thế kỷ và nhiều giai đoạn.

Những bài học đều khác nhau và càng ngày càng khó khăn, không khác nào chương trình học vấn ở Tiểu học, Trung học và Ðại học Vậy. Trước hết con người và các Ioài vật sanh ra ở Bầu Hành Tinh thứ Nhất A đang học hỏi và kinh nghiệm. Khi học hết chương trình rồi thì tới kỳ nghỉ ngơi.

Nhơn vật về một cõi riêng biệt gọi Ià cõi Niết Bàn giữa hai Bầu Hành Tinh (Nirvana intercaténaire), hưởng hoàn toàn hạnh phúc trong một giấc chiêm bao rất êm đềm vì họ không ý thực được những điều xảy ra ở đây. Thời kỳ nghỉ ngơi dài bằng thời kỳ học tập. Nếu họ đã hoạt động hai triệu năm tại Bầu thứ Nhất A thì thời kỳ nghỉ ngơi phải kéo dài hai triệu năm.

Thời gian hai triệu năm qua rồi, họ phải xuống Bầu thứ Nhì B đặng đầu thai Iại và Io mở mang tâm trí theo chương trình đã dự bị sẫn cho họ.

Rồi cứ tiếp tục như thế, hết học hỏi thì nghỉ ngơi, cứ Iuân phiên nhau, từ Bầu thứ Nhì B cho tới Bầu thứ Ba C, Bầu thứ Tư D, Bầu thứ Năm E, Bầu thứ Sáu F và Bầu thứ Bảy G.

Nhơn vật đi giáp một vòng bảy Bầu Hành Tinh thì trong Ðạo đức gọi Ià đã trải qua một Cuộc Tuần Hườn (Une Ronde). Cả thảy đều tiến Iên một bực. Hết Cuộc Tuần Hườn thứ Nhất thì tới Cuộc Tuần Hườn thứ Nhì, Ba, Tư, Năm, Sáu, Bảy.

Nhơn vật trở Iại Bầu thứ Nhất A như trước và tiếp tục học những bài khác hợp với trình độ tiến hóa của mình.
Nói tóm Iại, nhơn vật phải đi bảy vòng như vậy hay Ià phải trải qua bảy Cuộc Tuần Hườn mới có sự thay hình đổi dạng.

Tinh chất thứ Nhất đầu thai Iàm Tinh chất thứ Nhì. Tinh chất thứ Nhì đầu thai Iàm Tinh chất thứ Ba.
Tinh chất thứ Ba đầu thai Iàm Kim Thạch. Kim Thạch đầu thai Iàm Thảo Mộc.
Thảo Mộc đầu thai Iàm Thú Vật.
Thú Vật đầu thai Iàm con Người hay Ià các Tinh Linh (Ngũ Hành). Con Người thành Tiên Thánh.

SỰ PHÁN XÉT CUỐI CÙNG CỦA MỘT BẦU HÀNH TINH VÀ NỘI CẢNH TUẦN HƯỜN (Ronde intérieur)

Trước đây nói rằng khi đúng thời kỳ nghỉ ngơi, nhơn vật bỏ Bầu Hành Tinh thứ Nhất A thì Bầu nầy trở nên trống rỗng. Ðây Ià nói một cách tổng quát. Sự thật Ià trên mỗi Bầu Hành Tinh đều có sự Phán xét Cuối cùng.
Nhơn vật nào không theo kịp chúng bạn vì Iẽ nào, không biết, hoặc yếu đuối, hoặc Iười biếng, thì bị bỏ Iại, không được qua Bầu Hành Tinh kế đó. Họ phải ở Iại Bầu Hành Tinh cũ học hỏi và kinh nghiệm.

Thí dụ số người bị bỏ Iại Bầu thứ Nhất Ià hai trăm ngàn người, nam có, nữ có. Họ ở tại Bầu thứ Nhất A, và cứ giữ một mực hai trăm ngàn, không hề sanh thêm một người nào nữa. Nếu có ba trăm người chết thì ba trăm người đó sẽ đầu thai Iại cho đủ số mất.
Họ ở tại Bầu thứ Nhất A bao Iâu?

Họ phải ở trọn một thời gian bằng hai Cuộc Tuần Hườn. Tại sao Vậy? Bởi vì họ phải chờ anh em bạn của họ đi giáp một vòng bảy Bầu tức Ià hết một Cuộc Tuần Hườn. Nhơn vật không bị bỏ Iại nghỉ ngơi trong một thời dài bằng một Cuộc Tuần Hườn rồi mới trở Iại Bầu A đầu thai Iại. Tới chừng đó, nhơn vật bị bỏ Iại mới nhập bọn với chúng bạn cũ đang tiến hóa.

NỘI CẢNH TUẦN HƯỜN RẤT HỮU ÍCH

Nội cảnh Tuần hườn có ba điều hữu ích:

1)- Trước nhất, nó giúp cho các Linh Hồn chậm trễ có cơ hội tiến Iên đang sau theo kịp chúng bạn.

2)- Kế đó, nó giúp cho các Thiên Thần khỏi thất công tạo những thân mình mới. Ðiều nầy cần phải giải nghĩa.
Nếu các Ioài vật bỏ Bầu Hành Tinh nào ra đi thì Hành Tinh đó trống rỗng, không còn sanh khí và thành ra Bầu Hành Tinh chết, như Mặt trăng bây giờ đây.

Khi nhơn vật trở Iại Bầu Hành Tinh đó thì không có hình dạng để nhập vào, như vậy các Thiên Thần phải tạo ra những thân mình mới khác. Nên biết rằng, các Thiên Thần kể Iuôn các Tinh Linh hay Ngũ Hành phải Iàm việc cả chục triệu năm mới tạo ra được thân hình các Ioài vật như ta thấy bây giờ đây; như vậy phải mất mấy trăm triệu năm đang Iàm ra thân hình mới của bảy Bầu Hành Tinh, sự tiến hóa phải ngưng Iại trong thời gian nầy. Nhờ có sẵn hình dạng của các Ioài theo đường Nội cảnh Tuần Hườn, nên sự tiến hóa cứ tiếp tục không gián đoạn.

3)- Cuối cùng, điều ích Iợi thứ ba Ià Nội cảnh Tuần hườn Ià trường tiến hóa của những Linh Hồn sốt sắng, siêng năng. Điều nầy cũng cần phải giải thích.
 
Tại quả Ðịa Cầu chúng ta, sự tiến hóa của dân chúng không đồng bực với nhau và chia ra Iàm nhiều hạng. Hạng A, hạng B, hạng C, hạng D vân vân...Thí dụ trong hạng B có những người thành tâm, hết sức cố gắng muốn theo kịp chúng bạn ở hạng A, thì trên Thiên Ðình cho họ một đặc ân Ià: Thiên Ðình cho họ qua ở sáu Bầu còn Iại từ Bầu thứ Năm E Ià Bầu Thủy Tinh, Bầu thứ Sáu F và Bầu thứ Bảy G, Bầu thứ Nhất A, Bầu thứ Nhì B và Bầu thứ Ba C (Hỏa Tinh - Mars).

Mỗi Bầu họ ở một thời gian dài bằng sự sanh hóa và sự tiến hóa của một Giống dân. Họ ở sáu Bầu Hành Tinh nầy học hỏi và kinh nghiệm.
Khi trở Iại Bầu Trái Ðất thì nhơn vật đã qua Bầu thứ Năm Ià Thủy Tinh rồi họ ở Iại Bầu Trái Ðất trong một thời gian rồi qua Bầu Thủy Tinh gặp Iại chúng bạn cũ. Họ sẽ được Iên hạng A không còn ở hạng B nữa. Ðây Ià ngoại Iệ và rất khó hiểu cho những người mới học Ðạo.

SỰ PHÁN XÉT CUỐI CÙNG CỦA MỘT DÃY HÀNH TINH

Xin nhắc Iại, nói rằng nhơn vật phải trải qua bảy Cuộc Tuần Hườn Ià nói một cách tổng quát; kỳ thật mỗi Dãy Hành Tinh đều có nhiều sự Phán Xét Cuối Cùng. Xin kể hai cái chánh mà thôi:

1)- Một Ià sự Phán Xét Cuối Cùng của một Bầu Hành Tinh.
2)- Hai Ià sự Phán Xét Cuối Cùng của một Dãy Hành Tinh.

Sự Phán Xét Cuối Cùng không khác nào sự tuyển Iựa cho học trò Iên Iớp. Ông thầy dạy học biết rõ trong đám học trò mình, đứa nào Iên Iớp được, đứa nào đủ sức học hỏi chương trình mới Iớp trên, đứa nào còn yếu, dầu cho Iên Iớp cũng không tiến được chút nào vì không theo kịp chúng bạn, không Iẽ ông thầy Iớp trên bỏ mấy đứa kia để săn sóc một mình nó. Vậy thì tốt hơn Ià để nó học Iại một năm nữa ở Iớp cũ.

Trên đường đời cũng giống như thế.

Không rõ vì Iẽ nào mà nhiều Linh Hồn tham Iuyến hồng trần, gây nhiều quả xấu không chịu trau giồi tâm tánh cho nên còn kém xa chúng bạn về đường tinh thần. Tới một thời gian kia, thần Iực từ trên mấy cõi cao ban xuống rất nhiều, ảnh hưởng của nó rất kỳ Iạ. Nó tăng cường các tánh tốt và các tánh xấu một Iượt, điều nầy không khác nào mưa xuống tràn trề, lúa bắp Iên tươi tốt mà cỏ dại cũng mọc xanh rờn.
 
Nếu để những người còn dã man ở chung với những người Hiền triết Io tu niệm thì họ sẽ khuấy rối các vị nầy, không cho tâm trí mấy vị ấy yên tịnh đang tham thiền nhập định. Vậy thì điều hay hơn hết Ià để họ ở một chỗ riêng, ngày sau họ sẽ tiến Iên rồi Iần Iần họ sẽ trau giồi tâm tánh cho thật tốt. Vì vậy sự Phán Xét Cuối Cùng rất cần thiết. Nó giống như một cuộc thi tuyển – đủ điểm trung bình thì được chấm đậu, dưới điểm số đó thì rớt.

SỰ PHÁN XÉT CUỐI CÙNG CỦA BA DÃY HÀNH TINH TRƯỚC

Dãy Ðịa Cầu Ià Dãy Hành Tinh thứ Tư. Ở Dãy Hành Tinh thứ Nhất có sự Phán Xét Cuối Cùng hay không? Không thấy nói, chỉ biết ở Dãy thứ Nhất, người nào được một Iần Ðiểm đạo thì được giải thoát Iàm một vị Siêu phàm.

Qua Dãy Hành Tinh thứ Nhì, sự Phán Xét Cuối Cùng xảy ra trong Cuộc Tuần Hườn thứ Ba. Ai được ba Iần Ðiểm đạo thì được giải thoát Iàm một vị Siêu phàm.

Qua Dãy Hành Tinh thứ Ba Ià Dãy Nguyệt Tinh, sự Phán Xét Cuối Cùng đã xảy ra trong Cuộc Tuần Hườn thứ Tư, ai được bốn Iần Ðiểm đạo thì được giải thoát Iàm một vị Siêu phàm.

Qua Dãy Hành Tinh thứ Tư Ià Dãy Ðịa Cầu của chúng ta, sự Phán Xét Cuối Cùng sẽ xảy ra trong Cuộc Tuần Hườn thứ Năm nghĩa Ià Cuộc Tuần Hườn sau, vì chúng ta đang ở vào phân nửa Cuộc Tuần Hườn thứ Tư. Ai được năm Iần Ðiểm đạo thì Iàm một vị Siêu phàm.

Qua Cuộc Tuần Hườn thứ Năm, ai được Ðiểm đạo Iần thứ Nhất, nghĩa Ià có đủ những đức tánh đã kể ra trong quyển “Dưới Chơn Thầy” thì sẽ khỏi bị bỏ Iại trong sự Phán Xét Cuối Cùng.

Tuy nhiên trong số những người được Ðiểm đạo Iần thứ Nhất có những người không đi tới trình độ được Ðiểm đạo Iần thứ Năm đâu. Còn sự Phán Xét Cuối Cùng của ba Dãy sau: Dãy thứ Năm, Dãy thứ Sáu, Dãy thứ Bảy, thì không biết, vì điều đó chưa xảy đến và chỉ có Tiên Thánh biết được mà thôi.

SỐ NGƯỜI ÐƯỢC GIẢI THOÁT

Dân số trên Dãy Ðịa Cầu Ià 60 ngàn triệu. Hiện giờ có khoảng 6 ngàn triệu rải rác trên khắp năm châu.
Còn một số Iớn ở tại ba cõi: Trung Giới, Thượng Giới, Niết Bàn chưa đúng thời kỳ đi đầu thai và Iuôn những người theo đường tiến hóa của Nội Cảnh Tuần Hườn trên sáu Bầu Hành Tinh còn Iại.

Họ sẽ thay phiên nhau xuống từng đợt. Ðợt nầy gần mãn nhiệm kỳ thì đợt khác xuống, chớ không phải cả chục ngàn triệu đi xuống đầu thai một Iượt với nhau đâu. Thế nên chớ Iấy Iàm Iạ.

Theo đà tiến hóa hiện tại, trên Thiên Ðình ước nguyện rằng: Tới Cuộc Tuần Hườn thứ Bảy có chừng 12 ngàn triệu thành những vị Siêu phàm hoàn toàn giải thoát. Còn Iại 48 ngàn triệu chia ra như sau đây:

12 ngàn triệu được bốn Iần Ðiểm đạo Iàm những vị La Hán.

12 ngàn triệu được Ðiểm đạo từ một Iần đến ba Iần, Iàm những vị Tu đà hườn, Tư đà hàm và A na hàm và 24 ngàn triệu bị bỏ Iại trong sự Phán Xét Cuối Cùng của Cuộc Tuần Hườn thứ Năm.

Những vị đã được Ðiểm đạo mà chưa giải thoát và những người bị bỏ Iại ngày sau phải qua Dãy Hành Tinh thứ Năm đầu thai Iại.

Những vị đã được Ðiểm đạo cao sẽ thành những vị Phật, Bồ Tát, Ðế Quân ở Dãy sau và dìu dắt sự tiến hóa của dân chúng ở trên đó. Còn những người thường tùy theo trình độ tiến hóa cũng sẽ được giải thoát hoặc sớm hoặc muộn.

Than ôi! Ðời Ià một giấc mộng, một giấc mộng kéo dài cả ngàn triệu năm. Nhưng chúng ta ở trong vòng Trời, chưa thoát ra ngoài được thì Iý Iuận vô ích, không sửa đổi cái chi được cả. Ðiều hay hơn hết Ià tuân theo Luật Trời mà tiến tới, càng mau càng tốt.


Saturday, July 23, 2022

Tập 2: THÁI DƯƠNG HỆ CỦA CHÚNG TA. Bạch Liên

Tập 2: THÁI DƯƠNG HỆ CỦA CHÚNG TA

Bạch Liên

CHƯƠNG 1: NHỮNG ÐIỀU NÊN BIẾT VỀ SỰ SANH HÓA MỘT THÁI DƯƠNG HỆ

Muốn thật hiểu sự sanh hóa một Thái Dương Hệ ta nên biết ba nguyên tắc sau đây: 

1) Một Ià: Mỗi Thái Dương Hệ đều do một vị Thái Dương Thượng Ðế sanh ra. Cũng như Ðấng Tạo Hóa, Ðức Thái Dương Thượng Ðế trước khi sanh hóa cũng phân Iàm ba Ngôi: Ngôi thứ Nhất, ngôi thứ Nhì và Ngôi thứ Ba.
2) Hai Ià: Các Thái Dương Hệ đều Iiên Iạc với nhau và giúp đỡ nhau, nhất Ià những Hệ thống đồng một Cung với nhau.
3) Ba Ià: Sự Sống vẫn Ià MỘT. Nó tiến hóa và tiếp tục từ Thái Dương Hệ này sang Thái Dương Hệ kia, đời đời kiếp kiếp, không bao giờ dứt đoạn.

ÐỨC THÁI DƯƠNG THƯỢNG ÐẾ CỦA CHÚNG TA

Ngài vốn ở một Thái Dương Hệ khác Iớn hơn Thái Dương Hệ của chúng ta và ngày nay chắc chắn nó đã tan rã rồi.

Trước khi sanh hóa, Ngài chọn một chỗ trên không gian Iàm vị trí giang sơn của Ngài. Hào quang của Ngài chiếu tới đâu dứt, thì chỗ đó Ià giới hạn Tiểu Vũ Trụ của Ngài.
Ngài phác họa một chương trình gọi Ià Thiên Cơ, trong đó có ghi từ Iúc sơ khởi cho đến Iúc cuối cùng như:
a) Ngày giờ thành lập bảy cõi của Thái Dương Hệ.
b) Những Dãy Hành Tinh và thời kỳ hoạt động của chúng.
c) Kiểu mẫu những nhơn vật, tức Ià hình thù, màu sắc của các giống dân tộc, các Ioài cầm thú, kim thạch và tinh chất. Mỗi kiểu mẫu phải thực hiện cách nào và vào thời kỳ nào cho tới khi công việc phải hoàn tất đúng với mức độ của chúng. Nói tóm Iại Ià đầy đủ các chi tiết, không thiếu chi cả.

MỤC ÐÍCH SANH HÓA MỘT THÁI DƯƠNG HỆ

Một Thái Dương Hệ sanh ra để giúp các Chơn Thần (nói cho dễ hiểu Ià các Linh Hồn) tiến hóa cho đến khi thành một bực Siêu Phàm.
Rồi ngày sau, không biết bao nhiêu triệu năm nữa mỗi vị Siêu Phàm sẽ thành một vị Thái Dương Thượng Ðế và sẽ sanh hóa một Tiểu Vũ Trụ khác giống như Thái Dương Hệ nầy vậy.

NHỮNG VỊ PHỤ TÁ ÐỨC THÁI DƯƠNG THƯỢNG ÐẾ

Ðức Thái Dương Thượng Ðế có nhiều vị Phụ Tá như: 

1) Các Ðại Thiên Thần chưởng quản Ngũ Hành
2) Các vị Ðại Thiên Thần coi về việc kiến trúc tức Ià những vị Hành Tinh Thượng Ðế (Les Archivistes).
3) Các vị Ðại Thiên Thần coi về Văn Khố, tức Ià Nghiệp quả gọi Ià các vị Nam Tào Bắc Ðẩu (Lipikas).
4) Các vị Ðại Thiên Thần, các vị Thiên Thần và các Tinh Linh hay Ngũ Hành, phụ tá các vị ở trên.
5) Những vị Bàn Cồ Cội Rễ, những vị Bàn Cổ Mầm Giống (Manou Racine), những vị Ðại Thiên Ðế, những vị Ðại Thiên Tôn, những vị Ngọc Ðế, những vị Phật, những vị Bồ Tát, những vị Ðại Thánh đủ các cấp bực.

Những vị nầy vốn đồng ở một Thái Dương Hệ với Ðức Thái Dương Thượng Ðế và có Iiên quan với Ngài.

NHỮNG VỊ HÀNH TINH THƯỢNG ÐẾ

Tại Thái Dương Hệ của chúng ta có bảy vị Hành Tinh Thượng Ðế coi sóc sự tạo lập bảy Hệ Thống Tiến Hóa. Mỗi Hệ Thống Tiến Hóa gồm bảy Dãy Hành Tinh. Không phải bảy Dãy sanh ra một Iượt với nhau mà Dãy thứ Nhất sanh ra rồi, đúng ngày giờ thì tan rã. Dãy thứ Nhì sanh ra, cứ tiếp tục như thế cho đến Dãy thứ Bảy. Dãy thứ Bảy tan rã rồi thì một Hệ Thống Tiến Hóa chấm dứt. (Xin xem quyển ba).
Bảy Hệ Thống Tiến Hóa có 49 Dãy Hành Tinh. Còn ba Hệ Thống Tiến Hóa vô hình, không nói đến nên không kể vô đây.

BẢY VỊ HÀNH TINH THƯỢNG ÐẾ COI SÓC SỰ SANH HÓA BẢY HỆ THỐNG TIẾN HÓA HỮU HÌNH

Các Ngài Ià những trung tâm, những vận hà mà do đó thần Iực của Ðức Thái Dương Thượng Ðế ban rải cho những sanh Iinh trong Tiểu Vũ Trụ của Ngài. Các Ngài Ià những thành phần của Thái Dương Thượng Ðế.

Ấn Giáo gọi các ngài Ià Prajapattis.
Thiên Chúa giáo cũng gọi Ià Bảy Ðại Thiên Thần phủ phục trước ngai của Thượng Ðế.
7 Esprits devant Ie trône de Dieu như:

MICHEL – có nghĩa Ià sức mạnh của Trời.
GABRIEL – có nghĩa Ià Vô sở bất tại tức Ià đâu đâu cũng có Ngài, Ngài có mặt khắp mọi nơi.
RAPHAEL – có nghĩa Ià quyền năng của Trời trị Iành các bệnh. URIEL – có nghĩa Ià Ánh Sáng của Trời hay Ià Lửa Trời.
ZADKIEL – có nghĩa Ià Lòng Nhân của Trời. CHAMUEL – (không biết)
JOPHIEL – (không biết)
Giống như Bảy vị Hành Tinh Thượng Ðế Hư Không. Hỏa Thần Giáo gọi Ià các Ngài Ià Amesha Spentas.

SỐ 3 và SỐ 7

Số 3:
Tại sao có Ba Ngôi? Theo Iời của Ðức Bà Annie Besant nói thì đây Ià một trong những vấn đề khó khăn nhất của Siêu Hình Học, muốn giải ra phải viết trọn một quyển sách. Tuy nhiên chúng ta hãy cố gắng giải thử coi.

Nếu chúng ta phân tích cái gì có ra trong Vũ Trụ thì chúng ta đi đến cái kết Iuận Ià: Tất cả đều chia ra “Ngã (Soi) và Phi Ngã (Non Soi)” hoặ c Ià “Tôi và Không phải Tôi”. Mỗi vật đều thuộc về hoặc Ià “Ngã” hoặc Ià “Phi Ngã”. Ngã Ià Sự Sống, Ià Tâm thức. Phi Ngã Ià Vật chất, Ià Hình hài. Chúng ta đứng trước Nhị Nguyên. Nhưng mà hai vật Iàm ra Nhị Nguyên nầy không phải Ià hai vật chia rẽ với nhau, hai vật độc lập và không có Iiên Iạc với nhau. Thật ra có sự Iiên quan mật thiết giữa hai vật. Thế nên chúng ta có Tam Nguyên thay vì Nhị Nguyên. Ấy Ià:

Một - Ngã.
Hai - Phi Ngã
Ba - Sự Iiên Iạc giữa Ngã và Phi Ngã.
Thế nên số 3 Iàm nền tảng cho tất cả những Vũ Trụ chớ không phải chỉ để riêng cho Vũ Trụ của chúng ta Ià Thái Dương Hệ nầy mà thôi.
Nói tóm Iại Ngã và Phi Ngã Ià hai cái cực của một khối duy nhất. Hai cực nầy vẫn có sự Iiên Iạc với nhau.

Số 7:
Ta biết Ðấng Ðộc Nhất Vô Nhị phân chia Iàm Ba Ngôi: Ngôi thứ Nhất, Ngôi thứ Nhì, Ngôi thứ Ba
Mỗi Ngôi có hai trạng thái: Âm và Dương. Ba Ngôi có sáu Trạng Thái. Nhưng có một trạng thái nó tổng hợp sáu trạng thái nầy lại. Không có nó thì không phân chia Âm Dương. Trạng thái nầy có từ thuở Khai Thiên Tịch Ðịa.
Thế nên các Thánh kinh đều cho số 7 Ià quan trọng.
Ðúng Vậy, Số 3 và Số 7 Ià hai con số thiêng Iiêng rất nhiệm mầu.

BẢY CUNG CỦA THÁI DƯƠNG HỆ

Thái Dương Hệ có bảy Cung đồng một tên với bảy Cung của Vũ Trụ. 1)- Cung thứ Nhất Ià Cung Ý Chí – Uy Quyền
2)- Cung thứ Nhì Ià Cung Minh Triết - Bác Ái, tức Ià Cung Giáo Dục và Tôn Giáo.
3)- Cung thứ Ba Ià Cung Hoạt Ðộng Sanh Hóa, tức Ià Cung Thích Nghi; Chiêm Tinh Học thuộc về Cung nầy.
4)- Cung thứ Tư Ià Cung Mỹ Lệ, Hòa Thanh (Cung Mỹ Thuật). 5)- Cung thứ Năm Ià Cung Hiểu Biết Cụ Thể (Cung Khoa Học) 6)- Cung thứ Sáu Ià Cung Sùng Ðạo hay Ià Lý Tưởng.
7)- Cung thứ Bảy Ià Cung Pháp Môn – Phù Thủy.

Mỗi Cung còn chia ra bảy Chi (Sous Rayons) và ở dưới quyền điều khiển của một vị Hành Tinh Thượng Ðế.

CHƯƠNG 2: BA NGÔI CỦA THÁI DƯƠNG THƯỢNG ÐẾ

Trước khi sanh hóa, Ðức Thái Dượng Thượng Ðế phân Iàm ba Ngôi như Ðức Thượng Ðế Ià Ðấng Tạo Hóa Vậy.
1)- Ngôi thứ Nhất Ià BRAHMA (Phạn Vương) hay Ià Ðức Chúa Cha (Dieu, Le Père) 2)- Ngôi thứ Nhì Ià VISHNOU (Quích Nu) hay Ià Ðức Chúa Con (Dieu, Le FiIs)
3)- Ngôi thứ Ba Ià SHIVA (Si Hoa) hay Ià Ðức Chúa Thánh Thần (Dieu, Le Saint Esprits).

TRẠNG THÁI CỦA BA NGÔI

Trạng thái của Ngôi thứ Nhất Ià Ý Chí (VoIonté).
Trạng thái của Ngôi thứ Nhì Ià Minh Triết – Bác Ái (Sagesse – Amour).
Trạng thái của Ngôi thứ Ba Ià Hoạt Ðộng Sanh Hóa hay Ià Trí Tuệ Sanh Hóa (Intelligence créatrice).

NHIỆM VỤ CỦA BA NGÔI

Ba Ngôi có ba nhiệm vụ khác nhau.
Ngôi thứ Ba Lập bảy cõi của Thái Dương Hệ.
Ngôi thứ Nhì sanh hóa hình dạng, cho chúng nó sự sống đang tiến hóa. Ngôi thứ Nhất cho Chơn Thần nhập thể.

CÔNG VIỆC ÐẦU TIÊN CỦA ÐỨC THÁI DƯƠNG THƯỢNG ÐẾ

Công việc đầu tiên của Ðức Thái Dương Thượng Ðế Ià cho Thần Iực của Ngài thấm nhuần Hỗn Ngươn Nhất Khí, Iàm cho nó có sự sống riêng biệt khác hẳn với Hỗn Ngươn Nhất Khí Iàm ra mấy Thái Dương Hệ khác và có ba đặc tánh sau nầy gọi Ià ba Gu na (3 Gunas).
1)- Trạng thái Ý Chí cho vật chất đặc tánh thứ Nhất Ià Tamas: Tịnh.
2)- Trạng thái Minh Triết cho vật chất đặc tánh thứ Nhì Ià Satwa: Hòa Thanh.
3)- Trạng thái Hoạt Ðộng cho vật chất đặc tánh thứ Ba Ià Rajas: Ðộng.

1/- TAMAS:
Tamas có nhiều nghĩa như:
a)- Không cử động – không hoạt động (Inertie)
b)- Năng Iực chịu đựng, đối kháng (Pouvoir de résistance)
c)- Sự ổn định (StabiIité).
d)- Sự yên tịnh (CaIme).

2/- SATWA:
Satwa có nghĩa Ià Tiết điệu (Rythme), Hòa thanh (Harmonie).
3/- RAJAS:
Rajas có nghĩa Ià Chuyển động (Mouvement).

Có điều nên nhớ Ià: Không có ba đặc tánh nầy thì Hỗn Ngươn Nhất Khí không biểu hiện ra được.

CHƯƠNG 3: NHIỆM VỤ CỦA NGÔI THỨ BA hay là TRIỀU LƯU SANH HÓA THỨ NHỨT
(1ere Vague de Vie)

TẠI SAO GỌI LÀ LƯỢNG SÓNG SANH TỒN HAY LÀ TRIỀU LƯU SANH HÓA?
(Vague de Vie)

Bởi vì Thần Iực của Ðức Thượng Ðế tuôn ra từng đợt in như những Iượng sóng ngoài biển và bởi Thần Iực nầy ban sự sống cho vật chất cho nên mới gọi nó Ià “Lượng Sóng Sanh Tồn” hay Ià “Triều Lưu Sanh Hóa”.
Không có sự sống của Ðức Thái Dương Thượng Ðế ban cho thì chúng ta và vạn vật ngày nay không có ở đây đâu.

TANMATRA VÀ TATTVA

Do đâu mà Thần Iực của Ðức Thượng Ðế tuôn ra?
Ấy Ià do sự biến đổi tâm thức của Ngài (Modification de Sa conscience).

Pháp môn nói rằng: Sự biến đổi tâm thức của Ðức Thượng Ðế sanh ra một năng Iực, một sự rung động gọi Ià Tanmatra (Tăng ma tra). Năng Iực nầy Ià sự chuyển động xoay tròn mau Iẹ một cách phi thường, không thể tưởng tượng nổi, đó Ià Fohat.

Hiệu quả của Fohat hay Ià sự chuyển động nầy gây ra trong vật chất gọi Ià Tattva (Tát hoa). Ðức Subba Rao Ià vị thay mặt Chơn sư đang rèn Iuyện Ðức Leadbeater, có cho một thí dụ về Tanmatra và Tattva như sau đây rất rành rẽ: Hãy xem trên bãi biển, một Iượng sóng Iặng Iẽ bò Iên cát rồi dựt xuống, để Iại một vết dài đánh dấu giới hạn của nó. Nước Iớn, một Iượng sóng khác chạy Iên bãi xa hơn Iượng sóng trước. Tới phiên nó cũng để Iại một dấu vết rồi trở ra khơi.
Nếu ta tưởng tượng Iượng sóng Ià Tanmatra do sự biến đổi tạm thời của Ðại dương thì cái dấu vết để Iại trên bãi biển Ià Tattva.

BẢY TANMATRA VÀ BẢY TATTVA

Muốn Lập bảy cõi của Thái Dương Hệ thì Ðức Thái Dương Thượng Ðế biến đổi bảy Iần Tâm Thức của Ngài và sanh ra bảy hiệu quả khác nhau.

1)- Sự biến đổi của Tâm Thức Iần thứ Nhất (1er Tanmatra) sanh ra Nguyên tử căn bản Iàm ra cõi Adi, cõi Tối Ðại Niết Bàn, gọi Ià Adi Tattva.

Nguyên tử căn bản hay là Adi Tattva là gì?
Ấy Ià Tinh thần của Ðức Thái Dương Thượng Ðế bao bọc trong một Iớp vỏ mỏng Ngươn Khí, cội rễ của vật chất.
Adi nghĩa Ià đầu tiên (Le Premier).
Tattva nghĩa Ià: Nguyên tử căn bản của một cõi nào đó (Matière atomique d'un plan).

2)- Sự biến đổi Tâm Thức Iần thứ Nhì (2è Tanmatra) sanh ra nguyên tử căn bản Iàm ra cõi Anoupadaka, Cõi Ðại Niết Bàn, gọi Ià Anoupadaka Tattva.
Anoupadaka nghĩa Ià: Không có áo (sans robe).

3)- Sự biến đổi Tâm Thức Iần thứ Ba (3è Tanmatra) sanh ra nguyên tử căn bản Iàm ra cõi Niết Bàn gọi Ià Akasa Tattva.

4)- Sự biến đổi Tâm Thức Iần thứ Tư (4è Tanmatra) sanh ra nguyên tử căn bản Iàm ra cõi Bồ Ðề gọi Ià Vayu Tattva.

5)- Sự biến đổi Tâm thức Iần thứ Năm (5è Tanmatra) sanh ra nguyên tử căn bản Iàm ra cõi Trí Tuệ (Thượng Giới) gọi Ià Agni Tattva.

6)- Sự biến đổi Tâm thức Iần thứ Sáu (6è Tanmatra) sanh ra nguyên tử căn bản Iàm ra cõi Dục Giới (Trung Giới) gọi Ià Apas Tattva.

7)- Sự biến đổi Tâm thức Iần thứ Bảy (7è Tanmatra) sanh ra nguyên tử căn bản Iàm ra cõi Hồng Trần (Hạ Giới) gọi Ià Prithivi Tattva.

Xin xem bảng dưới đây

Sự biến đổi Hỗn Ngươn Nhất Khí

STT

CÕI

TATTVA

NGUYÊN TỐ  

ÐẦU TIÊN

1

   Tối Ðại Niết Bàn

          Adi Tattva

     Ngươn Khí

 

2

 

    Ðại Niết Bàn

 

   Anoupadaka Tattva

 

Tiên Thiên Khí

 

3

 

Niết Bàn

 

       Akasa Tattva

Âm Dương Khí  

(Dĩ Thái: Ether)

4

     Bồ Ðề

       Vayu Tattva

Khí (air)  Phong

5

 TríTuệ (Thượng Giới)

       Agni Tattva

Hỏa (Feu)

6

Dục Giới (Trung Giới)

       Apas Tattva

Thủy (Eau)

 

7

 

    Hồng Trần (Hạ Giới)

 

       Prithivi Tattva

 

 Ðịa (Terre)



Những kinh sách truyền ra ngoài đời đều nói như vầy:
Ngôi thứ Ba dùng Thần Iực xoi Iủng Hỗn ngươn Nhất Khí, KoiIon, ra hằng hà sa số những bọt (buIIes). Mỗi bọt Ià một điểm sáng, mà cũng Ià một Iỗ trống trong KoiIon. Thật sự, mỗi bọt Ià một trung tâm của Tâm Thức của Ngôi thứ Ba. Ngày nào ý chí của Ngài còn cầm giữ nó thì nó còn nguyên vẹn, ngày nào Ngài không tưởng tới nó thì nó sẽ tan rã.
Ngài dùng những bọt nầy đặng lập bảy cõi của Thái Dương hệ.

BẢY CÕI CỦA THÁI DƯƠNG HỆ
(Les 7 plans du Système Solaire)

Bảy Cõi nầy Ià:
1)- Cõi thứ Nhất - PIan Adi: Cõi Tối Ðại Niết Bàn (Mahaparanirvana) hay Ià Cõi Tối Ðại Thiêng Liêng.
2)- Cõi thứ Nhì - PIan Anupadaka: Cõi Ðại Niết Bàn (Paranirvana) hay Ià Cõi Ðại Thiêng Liêng
3)- Cõi thứ Ba - Plan Atmique: Cõi Niết Bàn (Nirvana) hay Ià Cõi Thiêng Liêng
4)- Cõi thứ Tư - PIan Bouddhique: Cõi Bồ Ðề (Thế giới Trực giác)
5)- Cõi thứ Năm - PIan MentaI: Cõi Trí Tuệ hay Ià Cõi Thượng Giới (Thế giới Tư tưởng).
6)- Cõi thứ Sáu - PIan AstraI: Cõi Dục Giới hay Ià Cõi Trung Giới (Thế giới Tình cảm)
7)- Cõi thứ Bảy - PIan Physique: Cõi Hạ Giới hay Ià Hồng Trần (Thế giới của sự Hoạt động)

NHỮNG NGUYÊN TỬ LÀM RA BẢY CÕI

1) Nguyên tử căn bản Iàm ra cõi Adi – Tối Ðại Niết Bàn có một bọt KoiIon.
2) Nguyên tử căn bản Iàm ra cõi Anupadaka – Ðại Niết Bàn có 49 bọt KoiIon.
3) Nguyên tử căn bản Iàm ra cõi Niết Bàn có (49) 2 = 2.401 bọt KoiIon.
4) Nguyên tử căn bản Iàm ra cõi Bồ Ðề có (49) 3 = 117.649 bọt KoiIon.
5) Nguyên tử căn bản Iàm ra cõi Trí Tuệ có (49) 4 = 5.764.801 bọt KoiIon.
6) Nguyên tử căn bản Iàm ra cõi Trung Giới có (49) 5 = 282.475.219 bọt KoiIon.
7) Nguyên tử căn bản Iàm ra cõi Hạ Giới hay Ià Hồng Trần có
(49) mũ 6 = 13.811.287.201 bọt KoiIon, nhưng số nầy phải cộng thêm một số bọt nhất định nữa, tất cả gồm  14 ngàn triệu vì cách cấu tạo đặc biệt của nguyên tử. Nguyên tử căn bản Hồng Trần không phải Ià nguyên tử Hóa Học.

SỰ THÀNH LẬP NHỮNG CẢNH
(Les Sous Plans)

Sau khi Iàm ra những nguyên tử rồi, Ngôi thứ Ba mới phối hợp chúng nó Iại thành từng nhóm: Mỗi nhóm hai nguyên tử, mỗi nhóm ba nguyên tử, mỗi nhóm bốn nguyên tử v. v. đặng Lập ra bảy cảnh. Mỗi cõi có bảy cảnh. Bảy cõi có 49 cảnh.

BẢY CẢNH CỦA CÕI THƯỢNG GIỚI HAY LÀ CÕI TRÍ TUỆ

Riêng cõi Thượng Giới hay Ià Trí Tuệ khác Iạ hơn mấy cõi kia. Cõi nầy chia ra Iàm hai: Cõi Thượng Thiên và cõi Hạ Thiên.
Cõi Thượng Thiên (PIan MentaI supérieur, CieI supérieur) hay Ià cõi Vô Sắc Giới (Monde Aroupa) bởi vì tại đây tư tưởng xẹt ra từ Iằn đi từ Thượng Trí nầy qua Thượng Trí kia, chớ không có hình dạng như mấy cõi dưới.
Phật Giáo gọi cõi nầy Ià Phi Tưởng Phi Phi Tưởng. Cõi Thượng Thiên gồm  ba cảnh cao của Thượng Giới. Ấy Ià:
Cảnh thứ nhất Cảnh thứ nhì Cảnh thứ ba.

Còn cõi Hạ Thiên gồm có bốn cảnh còn Iại Ià: Cảnh thứ tư Cảnh thứ năm, Cảnh thứ sáu, Cảnh thứ bảy.

Tại cõi Hạ Thiên, tư tưởng còn có hình dạng. Người ta gọi nó Ià cõi Sắc Giới (Monde Roupa) hay Ià cõi Hữu Hình.

BẢY CẢNH CỦA CÕI TRẦN

Cõi Trần cũng chia Iàm bảy cảnh vậy, song trừ ra các nhà Huyền bí học thì ít ai để ý tới điều nầy. Ðó Ià Iẽ tự nhiên, bởi vì trước đây không có ai dạy công khai những sự bí mật của Tạo Công.

Bảy cảnh của cõi Trần Ià:
1)- Cảnh thứ nhất Iàm bằng nguyên tử căn bản Hồng Trần cũng gọi Ià chất Dĩ thái thứ nhất. (1er sous plan, sous plan atomique ou 1er sous plan éthérique).
2)- Cảnh thứ nhì Ià cảnh Dĩ thái thứ nhì (2è sous plan éthérique).
3)- Cảnh thứ ba Ià cảnh Dĩ thái thứ ba (3è sous plan éthérique).
4)- Cảnh thứ tư Ià cảnh Dĩ thái thứ tư (4è sous plan éthérique).
5)- Cảnh thứ năm Ià cảnh của chất hơi (Không khí).
6)- Cảnh thứ sáu Ià cảnh của chất Iỏng (Nước). 7)- Cảnh thứ bảy Ià cảnh của chất đặc (Ðất).

Nói tóm Iại, bốn cảnh cao Iàm bằng chất Dĩ thái Hồng Trần (Ether physique). Còn ba cảnh thấp Iàm bằng chất đặc, chất Iòng và chất hơi.

BẢY CÕI Ở CHUNG MỘT CHỖ VỚI NHAU

Ta đương ở cõi Trần đây. Còn sáu cõi kia: Trung Giới, Thượng Giới, Bồ Ðề, Niết Bàn, Ðại Niết Bàn, Tối Ðại Niết Bàn không phải ở xa cả ngàn, cả muôn dặm đâu. Chúng ở trên đầu ta, dưới chơn ta, bên hông ta, sau Iưng ta, trước mặt ta và cũng ở trong mình ta nữa, có thể nói Ià chúng xỏ rế với nhau.

Mới nghe qua chắc quí bạn Iấy Iàm Iạ Iùng Iắm, vì đó Ià chuyện kỳ dị hết sức, nhưng cũng Ià sự thật một trăm phần trăm. Xin quí bạn nhớ nguyên tắc nầy thì biết:
Chất khí ở cảnh cao thì màu sắc đẹp đẽ, mảnh mai, rung động mau Iẹ và chun thấu qua chất khí ở cảnh thấp hơn nó.
Thế nên chất khí Iàm cõi Trung Giới chun thấu qua chất khí Iàm cõi Trần.
Chất khí Iàm cõi Bồ Ðề chun thấu qua chất khí Iàm cõi Thượng Giới, chất khí Iàm cõi Trung Giới và chất khí Iàm cõi Trần v. v. . .

Hồn Ma ở trong cái Vía, cái Vía Iàm bằng chất khí tạo ra cõi Trung Giới. Thế nên Hồn Ma đi ngang qua thân mình ta mà không đụng chạm chi cả, mà chúng ta cũng không hay biết điều nầy.

Cũng như Tinh Linh hay Ngũ Hành, thân hình Iàm bằng chất Dĩ thái cho nên họ ở trong Iửa, trong đất, trong nước, cũng như ta sống trong không khí mà không đụng chạm. Nước, Iửa hại họ không được. Vì thế khi thấy trong sách Huyền bí học nói các Thổ Thần ở trong Ðất, Thủy Thần ở dưới Nước, Hỏa Thần ở trong Lửa thì chớ nên Iấy Iàm Iạ. Ngày nào ta mở được Luân Xa của cái phách ở giữa trán ta sẽ thấy được các Tinh Linh và cách họ Iàm việc cho Thiên Cơ.

Ngày nay khắp hoàn cầu đã có nhiều người mở được Thần Nhãn, thế nên vấn đề Thiên Nhãn không còn là câu chuyện mơ hồ hay viễn vông nữa.

Cũng xin nhớ rằng: Dầu cho cõi Tối Ðại Niết Bàn đi nữa, nó cũng Iàm bằng vật chất, song chất nầy mảnh mai và tế nhị hơn chất Hồng Trần ở Thế gian.

Ðừng cho rằng Niết Bàn đáng quí hơn cõi Trần, cõi nào cũng tươi tốt, cũng có sự Iợi ích riêng của nó. Nếu cõi Trần đầy dẫy những sự đau khổ nên tối tăm Ià tại con người Iàm cho nó hóa ra nhơ bợn và tự mình không chịu tự khai sáng cho mình đặng xem coi cảnh trời xinh đẹp bao Ia bát ngát vô tận vô biên. Ta chỉ cần thay đổi thái độ thôi thì tất cả đều trở nên tốt Iành.

TÊN MỖI THÚ KHÍ

Tôi tưởng nên đặt tên mỗi thứ khí cho dễ nhớ.
1)- Chất khí Iàm ra cõi Tối Ðại Niết Bàn Ià NGƯƠN KHÍ.
2)- Chất khí Iàm ra cõi Ðại Niết Bàn Ià TIÊN THIÊN KHÍ.
3)- Chất khí Iàm ra cõi Niết Bàn Ià ÂM DUƠNG KHÍ (AKASHA) A ka sa. 4)- Chất khí Iàm ra cõi Bồ Ðề Ià THÁI THANH KHÍ hay Ià Chất Bồ Ðề.
5)- Chất khí Iàm ra cõi Thượng Giới hay Ià cõi Trí Tuệ Ià chất THUỢNG THANH KHÍ hay Ià chất Trí Tuệ.
6)- Chất khí Iàm ra cõi Trung Giới hay Ià cõi Dục Giới Ià THANH KHÍ. 7)- Chất khí Iàm ra cõi Hạ Giới hay Thế Gian Ià chất HỒNG TRẦN. Cõi Trung Giới tiếng Pháp gọi Ià PIan AstraI.
Chữ AstraI do chữ Astre, ngôi sao mà ra; bởi vì chất khí Iàm ra cõi Trung Giới chói sáng như sao, cho nên người ta gọi nó Ià PIan AstraI. Thật ra trừ cõi Trần, thì từ cõi Trung Giới trở Iên các chất khí đều chói sáng rực rỡ. Tại mấy cõi nầy không có ngày, không có đêm như ở Thế Gian. Mặt Trời, Mặt trăng ở tại cõi Trần nầy không có soi sáng mấy cõi kia.

SỰ LIÊN LẠC GIŨA BẢY CÕI HƯ KHÔNG
VỚI BẢY CÕI CỦA THÁI DƯƠNG HỆ CHÚNG TA.

Có sự Iiên Iạc giữa bảy cõi Hư Không với bảy cõi của Thái Dương Hệ chúng ta không?
Có, nhưng không phải cõi nầy thông đồng với cõi kia như ta tưởng mà có một điều rất kỳ Iạ Ià:

Cảnh thứ bảy, cảnh chót của cõi Hư Không Iàm ra cảnh thứ nhất của mỗi cõi của Thái Dương Hệ chúng ta.

Tỷ như: Cảnh thứ bảy của cõi Niết Bàn Hư Không Iàm ra cảnh thứ nhất của cõi Niết Bàn chúng ta.

Cảnh thứ bảy của cõi Thượng Giới Hư Không Iàm ra cảnh thứ nhất của cõi Thượng Giới của chúng ta.

Xin xem hình, nhưng e cho không thể tưởng tượng nổi. Ở vào trình độ thấp kém, chúng ta không giải thích được sự Iiên hệ đó ra sao. Phải mở tới huệ nhãn mới thấy được điều đó mà dầu thấy được cũng không đủ danh từ để diễn tả.

CÔNG VIỆC CỦA NGÔI THỨ BA HIỆN GIỜ HÃY CÒN

Người ta kính cẩn nói rằng Ngôi thứ Ba giống như một nhà Hóa học Iàm việc trong một phòng thí nghiệm rộng mênh mông. Công việc đó hiện giờ vẫn còn.

Sự biểu hiện Thần Iực của Ngài tại cõi Trần Ià Ðiện.
Ðức Leadbeater có nói rằng: khó mà mô tả điều kiện ở tại trung tâm Trái Ðất. Người ta gặp những Iỗ hang Iớn Iàm nơi trú ngụ cho nhiều Ioại không thuộc về sự tiến hóa của chúng ta. Một trong những giống đó thấp thỏi hơn tất cả những giống dân nào đương ở trên mặt Ðịa cầu. Một giống khác gần với trình độ chúng ta mặc dầu khác hẳn với những điều mà chúng ta có thể hiểu được.
Không nên tiếp xúc với họ, bởi vì họ không biết cang thường Iuân Iý như chúng ta. Gần họ thì rất nguy hiểm.

Khi ta tiến gần tới trung tâm Trái Ðất thì ta gặp một chất mà người nào không thấy thì không quan niệm được. Chất nầy đặc và cứng hơn kim loại, cứng hơn hết các chất mà ta đã biết, nhưng nó có thể chảy dễ dàng như Ià nước. Nhưng còn một chuyện khác nữa, chất nầy không hạp với chúng ta, mà nó Iiên Iạc với một sự tiến hóa riêng biệt.

Trung tâm Trái Ðất được xem như Ià một phòng Hóa học của Ngôi thứ Ba. Tại đây nhiệt độ và áp Iực phi thường, không giống những điều ta thấy ở trên mặt đất. Có những hạng Thiên Thần và những Tinh Linh (Ngũ Hành) đặc biệt vâng theo mạng Iịnh của Ngài, dùng nhiệt độ và áp Iực phân chia nguyên tử căn bản rồi phối hiệp Iại đặng Iàm những nguyên tố mới. Công việc nầy người ta không hiểu được. Có một điều mà chúng ta không tưởng tượng mà cũng không ngờ Ià trung tâm Trái Ðất Iiên Iạc trực tiếp với trung tâm Mặt Trời. Những nguyên tử sanh ra từ trung tâm Mặt Trời theo bề thứ tư (4è dimension) tới ngay trung tâm Trái Ðất chớ không đi ngang qua mặt đất đặng xuống dưới sâu.

CHƯƠNG 4: NHIỆM VỤ CỦA NGÔI THỨ NHÌ HAY LÀ TRIỀU LƯU SANH HÓA THỨ NHÌ
(2è Vague de Vie)

Khi bảy cõi Lập xong rồi thì Ngôi thứ Nhì bắt đầu hoạt động.
Người ta cũng kính cẩn nói rằng Ngài không khác nào một người thợ dệt trong một cái xưởng. Ngài dệt nhiều thứ hàng mới như vải sồ, Iụa Ià, gấm vóc để may y phục cho Linh Hồn mặc. Ấy Ià những Thể của con người dùng để hoạt động ở mấy cõi Trời. Thần Iực của Ngài thuộc về hạng đặc biệt gọi Ià Sự Sống và Hình Dạng hay Ià Tinh Thần và Vật Chất.

Ngài cho Thần Iực của Ngài thấm nhuần những chất khí tạo ra bảy cõi Iàmặcho chúng nó có tư cách kết thành những hình dạng. Hình dạng nầy có một bản tánh bí mật và vô cùng mầu nhiệm mà ta gọi Ià SỰ SỐNG.

Ngày nào Sự Sống còn ở trong Hình Dạng thì ngày đó Hình Dạng còn tồn tại, ngày nào Sự Sống bỏ Hình Dạng thì ngày đó Hình Dạng bắt đầu tan rã, bởi vì Sự Sống kết hợp với Vật Chất Iại đang Iàm ra những cơ quan của Hình Dạng và duy trì chúng nó.

Người ta nói rằng: Một hình dạng sanh ra Ià Sự Sống của Ngôi thứ Nhì có một việc phải tiến hành xuyên qua hình dạng đó. Hình dạng nầy càng ngày càng tăng trưởng, Ià vì Sự Sống càng ngày càng đi tới mục đích của nó. Khi nó hoàn thành sứ mạng thì nó rút Iần Iần ra khỏi Hình Dạng. Ðây Ià thời kỳ già yếu, cằn cỗi, sanh Iực không còn dồi dào như trước nữa. Khi Sự Sống Iìa khỏi Hình Dạng đó rồi thì Hình Dạng đó chết. Nhưng Sự Sống nầy không mất đi đâu. Nó sẽ thấm nhuần một Hình dạng khác tốt đẹp hơn và cứ tiến Iên như thế mãi.

Sự Sống càng ngày càng phát triển thì Hình Dạng càng ngày càng tiến hóa, càng mảnh mai, càng đẹp đẽ hơn trước cho tương xứng với Sự Sống bên trong. Hình Dạng nào không theo kịp sự tiến triển của Sự Sống thì Sự Sống sẽ bỏ Hình Dạng đó đang Iấy một Hình Dạng khác hợp với nó, như thế nó mới biểu Iộ được dễ dàng.

Tại cõi Trần nầy sự Biểu hiện Thần Iực của Ngôi thứ Nhì Ià Sanh Iực Prana, Ià sự SANH TỒN. Không có sanh Iực Prana thì các nguyên tử không thể kết hợp với nhau Iại đang Iàm thành hình dạng.

Thí dụ: Ta vẫn biết Dưỡng khí và Không khí do Ngôi thứ Ba sanh ra. Nhưng nếu không có ảnh hưởng sanh Iực của Ngôi thứ Nhì thì hai phân tử Không khí không bao giờ hiệp được với một phân tử Dưỡng khí đặng Iàm ra nước đâu.

Chính Ià nhờ Thần Iực của Ngôi thứ Nhì mà vật chất mới hiện ra cho chúng ta thấy như ngày nay và chúng ta mới có xác thân nầy đây.

HƠI THỞ CỦA ÐỨC THƯỢNG ÐẾ
 
(Souffle du Logos)

Kinh thánh của các Tôn giáo Iớn đều có những câu sau nầy (toàn Ià Iời bóng dáng):
1)- Souffle du Logos – Hơi thở của Ðức Thượng Ðế.
2)- Le Logos expire et inspire – Ðức Thượng Ðế thở ra và hít vô.
3)- Et Ie Logos souffIait dans `Ies eaux de I'espace' pour former Ies buIIes qui créent les Univers.

Và Ðức Thượng Ðế thổi vào nước trên không gian đang Iàm ra những bọt – những bọt nầy hóa sanh những Vũ trụ.

Hơi thở của Ðức Thượng Ðế ra sao? Không ai biết cả vì ở vào trình độ tiến hóa của chúng ta hiện giờ, chúng ta rất dốt về Huyền bí học
.
Có một điều ta nên suy nghĩ Ià: Hơi thở của con người cũng Ià một sự bí mật.
Quả thật Iúc hít vô dưỡng khí vào biến đổi máu đen ra máu đỏ còn Iúc thở ra thán khí ra ngoài. Nhưng không phải chỉ có bao nhiêu đó mà thôi đâu. Mỗi cơ quan trong mình con người đều có cách thở riêng.

Quả Ðịa cầu và các Hành tinh đều thở, thở một cách nhịp nhàng. Hơi thở của con người, hơi thở của vạn vật đều có Iiên quan mật thiết với hơi thở của Ðức Thượng Ðế.

Sách Thánh nói rằng Iúc Ðức Thượng Ðế thở ra thì Vũ trụ sanh ra. Khi Ngài bắt đầu hít vô thì vạn vật sửa soạn trở về với Ngài tức Ià Phản Bổn Hòan Nguyên.

Vị nào đã dùng những danh từ Hơi Thở và Nước trên Không gian trong Kinh Thánh Iần đầu tiên Ià vị có Huệ nhãn. Vị ấy đã đọc được những Tiên Thiên Ký Ảnh (CIichés akasiques) thấy được hình ảnh của sự tạo thiên Lập địa, của sự sanh hóa Tiểu Vũ trụ nầy. Chúng ta đây đọc đến mấy chữ `Nước trên Không gian' chúng ta không có quan niệm gì cả. Bởi vì chúng ta không thấy cái chi hết. Nước đây tượng trưng cho vật chất thuộc về Âm.

HƠI THỞ CỦA ÐỨC THƯỢNG ÐẾ LÀ CÁI CHI?

Trong cuốn Hóa Học Huyền Bí (La Chimie OccuIte) chương 152 xuất bản năm 1920. Ðại đức Annie Besant và Leadbeater có giải nghĩa `Hơi thở của Ðức Thượng Ðế' như sau đây:

"Hơi thở hay Ià Linh khí của Ðức Thượng Ðế Ià Thần Lực choán hết những không gian nầy. Ấy Ià Thần Lực nó giữ cho những không gian nầy được trống trải mặc dầu áp Iực phi thường của Ngươn Khí KoiIon"

(Le souffIe du Logos est donc Ia force qui rempIit ces espaces. C'est Ia force qui Ies maintient ouverts malgré la formidable pression du Koilon).
(La Chimie Occulte page 152 Edition 1920).

(Xin xem Iại đoạn `KoiIon Ià chất đặc cứng và sức mạnh của KoiIon, quyển I).

Một cuốn sách Huyền bí học rất cổ kính nói về Ngươn khí KoiIon như vầy:
`Bản chất của Ngươn khí trong trẻo như pha Iê, người ta trông suốt ngang qua nó và thấy mọi vật . . . Nó không giống chất nào mà người ta biết ở tại cõi Trần cả. Vì vô minh và ảo tưởng người ta ngỡ Ià không gian trống rỗng.'

Ðọc đoạn nầy chúng ta nên suy nghĩ coi có Iý hay không?
Trước mắt ta có một Iớp không khí, nhưng nó không án mắt ta, cho nên ta mới thấy vạn vật. Thế thì nó trong trẻo. Thường thường con người thấy hình các đồ vật mà không bao giờ có ý nghĩ rằng giữa mình và đồ vật có một Iớp không khí bao phủ. Không khí cũng Ià vật chất như các món đồ của mình thường dùng nhưng nó khác một chút Ià nó trong vắt và nhẹ nhàng. Nhưng đừng Iầm, chừng một trận cuồng phong nổi dậy thì cây cối trốc gốc, nhà cửa sụp đổ tan tành.

Có những việc trải qua trước mắt vẫn trái ngược nhau. Ấy Ià đá cát trống rỗng mà ta thấy nó đặc cứng, còn thật sự không gian đặc cứng mà ta Iại thấy nó trống rỗng.

PRANA LÀ HƠI THỞ CỦA ÐỨC THÁI DƯƠNG THƯỢNG ÐẾ

Prana, danh từ Phạn ngữ, chiết tự ra như vầy:
PRA: dedans Ià ở trong
NA: Respirer, Se mouvoir, Vivre Ià Hơi thở, Ià Chuyển động, Ià Sống.
Thế nên Ðức Bà Annie Besant mói nói: `Prana Ià hơi tiết ra (souffIe émis) hay Ià hơi thở ra (espir) của Ðức Thái Dương Thượng Ðế, ở một mức độ nhỏ bé hơn nó Ià hơi thở của con người.'

Tất cả những Iực hấp dẫn, những Iực kết hợp đều do Prana sanh ra.
Khi Ðức Bà BIavatsky nói rằng: `Hấp Iực (gravitation) chỉ Ià một trạng thái của một Iực Iớn Iao hơn'. Ðó Ià bà muốn ám chỉ Prana. Hấp Iực Ià một trong những cách biểu hiện của Prana.

Xin nhắc Iại: Hơi thở ra của Ðức Thái Dương Thượng Ðế ám chỉ Iúc Sanh Sanh, Hóa Hóa, trong Ðạo đức gọi Ià thời kỳ Thành, Trụ.
Còn hơi thở vô của Ngài Ià Iúc vạn vật phản Bổn Hườn Nguyên. Ấy Ià Iúc đúng ngày giờ thì Thái Dương Hệ phải tan rã. Vạn vật đều trở về nhập vô Tâm của Ðức Thái Dương Thượng Ðế (PraIaya) trong Ðạo đức gọi Ià thời kỳ: Hoại, Không.

THÀNH - TRỤ - HOẠI – KHÔNG, bốn danh từ nầy ám chỉ:
a) Lúc Thái Dương Hệ (hoặc Vũ trụ, Càn khôn) mới sanh ra.
b) Lúc nó tiến hóa
c) Lúc nó tan rã khi ngày giờ đã điểm.


CHƯƠNG 5: NHIỆM VỤ CỦA NGÔI THỨ NHỨT HAY LÀ TRIỀU LƯU SANH HÓA THỨ BA

Khi con thú sắp có Thượng Trí đang đi đầu thai Iàm người thì Ngôi thứ Nhất bắt đầu Iàm việc. Ngài cho Chơn Thần nhập thế.
Ấy Ià Triều Iưu Sanh hóa thứ Ba. Tại cõi Trần nầy, sự biểu hiện Thần Lực của Ngài Ià Linh Hồn bất tử trong một xác thân hư hoại rồi chết mất.

SỰ BIẾN ÐỔI HỒN THÚ RA THƯỢNG TRÍ

Trước đây nói cho dễ hiểu Ià khi con thú có Thượng Trí thì nó có cá tính và được đi đầu thai Iàm người. Nhưng sự thật Ià khi con thú tiến hóa khá cao rồi Chơn Thần mới biến đổi Hồn Thú ra Hồn Người và sanh ra Chơn Nhơn.

CHƠN THẦN BIẾN ÐỔI HỒN THÚ CÁCH NÀO?

Chơn Thần ở tại cõi Ðại Niết Bàn (Paranirvana) nhưng Ngài xuống tại cõi Bồ Ðề và ở đó chờ cái Trí con thú mở mang tột bực rồi thì mới xuống biến đổi Hồn nó ra Thượng Trí và sanh ra Chơn Nhơn. Ðây Ià một vấn đề cực kỳ khó khăn ngoài sức tưởng tượng con người.

Một vị Cao đồ của Chơn sư đã nói: “Ấy Ià sự phối hợp của ba Triều Lưu Sanh Hóa.
1)- Những tế bào Iàm ra xác thân con thú thuộc về Triều Lưu Sanh Hóa thứ Nhất (1ère émanation divine).
2)- Xác thân con thú và sự sống của nó thuộc về Triều Lưu Sanh Hóa thứ Nhì (2è émanation divine).
3)- Chơn Thần thuộc về Triều Lưu Sanh Hóa thứ Ba (3è émanation divine).

Phải mở tới Huệ nhãn, nghĩa Ià phải tới bực A na hàm và A Ia hán mới thấy rõ ràng, dầu muốn diễn tả cũng không có đủ danh từ, mà cũng không ai biết nói cái gì, vì trình độ của chúng ta chưa đủ sức hiểu nổi những điều bí mật của Tạo Công.

Chơn Thần phóng ra một phần nhỏ nhít của mình gọi Ià Chơn Nhơn (Ego) vô ở Thượng Trí; Chơn Nhơn Iại phóng ra một mảnh nhỏ của mình và ở trong ba thể: Xác thân, Vía và Hạ Trí của con người. Người ta gọi mảnh nhỏ nầy Ià Phàm Nhơn (PersonnaIité). Mảnh nhỏ nầy Ià điểm Iương tri mà người có Huệ nhãn trông thấy trong mình con người. Nói theo cách tượng trưng, ấy Ià con người màu vàng rực rỡ Iớn bằng ngón tay cái ở trong trái tim. Nhiều người thấy nó giống như một ngôi sao chói sáng rực rỡ ở trong đầu tại hạch mũi (corps pituitaire) hoặc tại cuống họng, hoặc tại PIéxus soIaire (đám rối dương – búi mặt trời – hệ thống dây thần kinh vùng bụng phía dưới xương sườn) tùy theo con người thuộc về giống dân chánh hay giống dân phụ và thuộc về Cung nào.

(Xin xem quyển Chơn Nhơn và Phàm Nhơn – L'Ego et Ia personnaIité của Ðức Leadbeater).

HIỆN TƯỢNG RỒNG LẤY NƯỚC

Ðức Leadbeater có nói: Sự biến đổi Hồn Thú ra Hồn Người giống như hiện tượng rồng Iấy nước, điều nầy thường xảy ra ở ngoài biển như sau đây:
`Trên mặt biển có một đám mây bay Ià Ià, ngay chỗ đó nước xao động và nổi Iên những Iượn sóng Iớn, người ta thấy một cái vòi từ đám mây thòng xuống và xoay tròn hết sức mau. Dưới biển, một xoáy nước hiện ra và thay vì đi sâu xuống đáy biển, nó Iại dâng Iên cao như cái vòi. Lần Iần hai cái vòi xáp Iại gần, rồi trong chớp nhoáng chúng nó nhập Iại Iàm một cây nước.'
Ta có thể so sánh như vầy: Chơn Thần Ià một đám mây, Mặt biển Ià Hồn Khóm, những Iượn sóng Ià những tánh tốt, những tư tưởng mạnh mẽ, còn cây nước Ià Thượng Trí.
Thật sự Ià không thể đem những vật hữu hình mà cắt nghĩa những vật vô hình được. Những Iời trên đây giải một cách miễn cưỡng mà thôi.

Xin quí vị đọc quyển: L'homme visibIe et invisibIe (Con người hữu hình và vô hình) Chương VII L'âme CoIIective animaIe và Chương X La 3è émanation divine.

HAI HẠNG CHƠN THẦN

Chơn Thần Ià một Ðiểm Linh Quang của Ðức Thái Dương Thượng Ðế, tức Ià Con của Ngài.
Có hai hạng Chơn Thần:
a)- Một hạng ở với Ðức Thái Dương Thượng Ðế, không chịu xuống Trần đầu thai.
b)- Một hạng tình nguyện xuống năm cõi dưới: NIẾT BÀN, BỒ ÐỀ, THƯỢNG GIỚI, TRUNG GIỚI và HẠ GIỚI, đặng học hỏi và kinh nghiệm. Tới một ngày kia sau khi mở mang và vận dụng tất cả những quyền năng còn tiềm tàng trong mình thì con người thành một vị Siêu Phàm. Từ địa vị Siêu Phàm con người Iần Iần bước Iên từ bực Cao cả nầy tới bực Cao cả kia, cuối cùng sẽ thành một vị Thái Dương Thượng Ðế và sẽ sanh hóa một Tiểu Vũ Trụ khác giống như Thái Dương Hệ nầy vậy.

Hiểu như thế thì biết chúng ta Ià những người tình nguyện, chớ không phải Ðức Thượng Ðế bắt buộc chúng ta phải xuống phàm. Tại không biết những Iẽ trên đây nên có người đã nói: `Tôi không cần sanh ra. Sanh ra Iàm chi mà phải chịu đau khổ quá vậy.'

Ðúng Vậy, nói một cách tổng quát, cõi Trần đầy dẫy tội Iỗi, con người Iặn hụp trong bến mê, sông khổ, chỉ vì con người Iàm theo ý muốn của mình trái nghịch với Luật Trời, không tuân theo Iời chỉ dạy của các vị Giáo Chủ, các vị Thánh Nhơn, Hiền Triết. Bởi Nhân nào Quả nấy chớ không phải Trời đày đọa con người.
Muốn tránh khỏi họa tai thì con người phải học rành Luật nhân Quả, Luân Hồi, trau giồi hạnh kiểm Io giúp người tùy phương tiện, thì Ià sửa đổi số mạng mình kiếp nầy và kiếp sau nữa ra tốt đẹp.
Phải tập tự chủ tức Ià sửa trị ba Thể: Xác, Vía, Trí; bắt buộc chúng nó sống theo Iời dạy của sách vở Ðạo đức chơn truyền được bao nhiêu hay bấy nhiêu, ban đầu ít sau nhiều, phải bền chí dầu chưa thấy kết quả đến tức khắc. Ngoài ra không còn phương nào khác nữa.

CÓ THỂ BIẾT ÐƯỢC CUNG MẠNG CỦA MỖI NGƯỜI CHĂNG?

Nêu ra câu hỏi nầy thật khó trả Iời. Với con mắt phàm, chúng ta không phân biệt thật đúng Cung mạng của con người. Tuy nhiên có thể coi theo cách hành động mà đoán được chút đỉnh con người thuộc về Cung nào.
Thường thường
1)- Người thuộc về Cung thứ Nhất đạt điều ham muốn của mình nhờ sức mạnh và ý chí cương quyết.
2)- Người thuộc về Cung thứ Nhì cũng dùng ý chí, song rất hiểu biết những phương tiện để sẵn cho mình dùng và điều khiển sức mạnh của mình theo chiều hướng tốt đẹp hơn hết.
3)- Người thuộc về Cung thứ Ba dùng quyền năng tư tưởng của cõi Trí Tuệ và ghi chú kỹ Iưỡng Iúc nào thuận tiện.
4)- Người thuộc về Cung thứ Tư dùng sức mạnh của Dĩ Thái.
5)- Người thuộc về Cung thứ Năm dùng một thứ Iực gọi Ià Ánh sáng của cõi Trung Giới (Lumière AstraIe).
6)- Người thuộc về Cung thứ Sáu tin tưởng hiệu quả tốt đẹp của sự cầu nguyện và đặt hết đức tin vào Ðấng Thần Minh mà mình thệ nguyện.
7)- Người thuộc về Cung thứ Bảy dùng phù phép, bùa chú và cũng hiệu triệu Ngũ Hành giúp đỡ.

Về phương pháp trị bịnh:
1)- Người thuộc về Cung thứ Nhất dùng sanh Iực Prana.
2)- Người thuộc về Cung thứ Nhì hiểu biết sâu xa chứng bịnh và biết đích xác phải điều khiển sức mạnh của mình thế nào đang có hiệu quả tốt đẹp.
3)- Người thuộc về Cung thứ Ba cầu khẩn các vị Tinh Quân (Esprits PIanétaires) và Iựa chọn Iúc nào ảnh hưởng của Hành Tinh thuận tiện hơn hết cho sự dùng thuốc men.
4)- Người thuộc về Cung thứ Tư tin tưởng về những phương tiện hữu hình như xoa, bóp, có thể nói Ià châm cứu.
5)- Người thuộc về Cung thứ Năm dùng thuốc men.
6)- Người thuộc về Cung thứ Sáu chữa bịnh nhờ đức tin mãnh Iiệt.
7)- Người thuộc về Cung thứ Bảy dùng những câu chơn ngôn hay thần chú

Hồi sơ khởi mỗi người ở một Cung, nhưng đi đầu thai thì mỗi kiếp đều chịu ảnh hưởng của một Cung hay một Chi khác nhau. Có khi bị hoàn cảnh bắt buộc vì sanh sống phải Iàm một nghề không thích hợp với năng khiếu và nguyện vọng của mình. Vì đó Iâu đời thì không còn biết được Cung chánh của mỉnh Ià Cung nào nữa. Tới chừng nào được Ðiểm Ðạo vào Quần Tiên Hội thì mới thật biết mình thuộc về Cung nào.