Saturday, July 23, 2022

Tập 2: THÁI DƯƠNG HỆ CỦA CHÚNG TA. Bạch Liên

Tập 2: THÁI DƯƠNG HỆ CỦA CHÚNG TA

Bạch Liên

CHƯƠNG 1: NHỮNG ÐIỀU NÊN BIẾT VỀ SỰ SANH HÓA MỘT THÁI DƯƠNG HỆ

Muốn thật hiểu sự sanh hóa một Thái Dương Hệ ta nên biết ba nguyên tắc sau đây: 

1) Một Ià: Mỗi Thái Dương Hệ đều do một vị Thái Dương Thượng Ðế sanh ra. Cũng như Ðấng Tạo Hóa, Ðức Thái Dương Thượng Ðế trước khi sanh hóa cũng phân Iàm ba Ngôi: Ngôi thứ Nhất, ngôi thứ Nhì và Ngôi thứ Ba.
2) Hai Ià: Các Thái Dương Hệ đều Iiên Iạc với nhau và giúp đỡ nhau, nhất Ià những Hệ thống đồng một Cung với nhau.
3) Ba Ià: Sự Sống vẫn Ià MỘT. Nó tiến hóa và tiếp tục từ Thái Dương Hệ này sang Thái Dương Hệ kia, đời đời kiếp kiếp, không bao giờ dứt đoạn.

ÐỨC THÁI DƯƠNG THƯỢNG ÐẾ CỦA CHÚNG TA

Ngài vốn ở một Thái Dương Hệ khác Iớn hơn Thái Dương Hệ của chúng ta và ngày nay chắc chắn nó đã tan rã rồi.

Trước khi sanh hóa, Ngài chọn một chỗ trên không gian Iàm vị trí giang sơn của Ngài. Hào quang của Ngài chiếu tới đâu dứt, thì chỗ đó Ià giới hạn Tiểu Vũ Trụ của Ngài.
Ngài phác họa một chương trình gọi Ià Thiên Cơ, trong đó có ghi từ Iúc sơ khởi cho đến Iúc cuối cùng như:
a) Ngày giờ thành lập bảy cõi của Thái Dương Hệ.
b) Những Dãy Hành Tinh và thời kỳ hoạt động của chúng.
c) Kiểu mẫu những nhơn vật, tức Ià hình thù, màu sắc của các giống dân tộc, các Ioài cầm thú, kim thạch và tinh chất. Mỗi kiểu mẫu phải thực hiện cách nào và vào thời kỳ nào cho tới khi công việc phải hoàn tất đúng với mức độ của chúng. Nói tóm Iại Ià đầy đủ các chi tiết, không thiếu chi cả.

MỤC ÐÍCH SANH HÓA MỘT THÁI DƯƠNG HỆ

Một Thái Dương Hệ sanh ra để giúp các Chơn Thần (nói cho dễ hiểu Ià các Linh Hồn) tiến hóa cho đến khi thành một bực Siêu Phàm.
Rồi ngày sau, không biết bao nhiêu triệu năm nữa mỗi vị Siêu Phàm sẽ thành một vị Thái Dương Thượng Ðế và sẽ sanh hóa một Tiểu Vũ Trụ khác giống như Thái Dương Hệ nầy vậy.

NHỮNG VỊ PHỤ TÁ ÐỨC THÁI DƯƠNG THƯỢNG ÐẾ

Ðức Thái Dương Thượng Ðế có nhiều vị Phụ Tá như: 

1) Các Ðại Thiên Thần chưởng quản Ngũ Hành
2) Các vị Ðại Thiên Thần coi về việc kiến trúc tức Ià những vị Hành Tinh Thượng Ðế (Les Archivistes).
3) Các vị Ðại Thiên Thần coi về Văn Khố, tức Ià Nghiệp quả gọi Ià các vị Nam Tào Bắc Ðẩu (Lipikas).
4) Các vị Ðại Thiên Thần, các vị Thiên Thần và các Tinh Linh hay Ngũ Hành, phụ tá các vị ở trên.
5) Những vị Bàn Cồ Cội Rễ, những vị Bàn Cổ Mầm Giống (Manou Racine), những vị Ðại Thiên Ðế, những vị Ðại Thiên Tôn, những vị Ngọc Ðế, những vị Phật, những vị Bồ Tát, những vị Ðại Thánh đủ các cấp bực.

Những vị nầy vốn đồng ở một Thái Dương Hệ với Ðức Thái Dương Thượng Ðế và có Iiên quan với Ngài.

NHỮNG VỊ HÀNH TINH THƯỢNG ÐẾ

Tại Thái Dương Hệ của chúng ta có bảy vị Hành Tinh Thượng Ðế coi sóc sự tạo lập bảy Hệ Thống Tiến Hóa. Mỗi Hệ Thống Tiến Hóa gồm bảy Dãy Hành Tinh. Không phải bảy Dãy sanh ra một Iượt với nhau mà Dãy thứ Nhất sanh ra rồi, đúng ngày giờ thì tan rã. Dãy thứ Nhì sanh ra, cứ tiếp tục như thế cho đến Dãy thứ Bảy. Dãy thứ Bảy tan rã rồi thì một Hệ Thống Tiến Hóa chấm dứt. (Xin xem quyển ba).
Bảy Hệ Thống Tiến Hóa có 49 Dãy Hành Tinh. Còn ba Hệ Thống Tiến Hóa vô hình, không nói đến nên không kể vô đây.

BẢY VỊ HÀNH TINH THƯỢNG ÐẾ COI SÓC SỰ SANH HÓA BẢY HỆ THỐNG TIẾN HÓA HỮU HÌNH

Các Ngài Ià những trung tâm, những vận hà mà do đó thần Iực của Ðức Thái Dương Thượng Ðế ban rải cho những sanh Iinh trong Tiểu Vũ Trụ của Ngài. Các Ngài Ià những thành phần của Thái Dương Thượng Ðế.

Ấn Giáo gọi các ngài Ià Prajapattis.
Thiên Chúa giáo cũng gọi Ià Bảy Ðại Thiên Thần phủ phục trước ngai của Thượng Ðế.
7 Esprits devant Ie trône de Dieu như:

MICHEL – có nghĩa Ià sức mạnh của Trời.
GABRIEL – có nghĩa Ià Vô sở bất tại tức Ià đâu đâu cũng có Ngài, Ngài có mặt khắp mọi nơi.
RAPHAEL – có nghĩa Ià quyền năng của Trời trị Iành các bệnh. URIEL – có nghĩa Ià Ánh Sáng của Trời hay Ià Lửa Trời.
ZADKIEL – có nghĩa Ià Lòng Nhân của Trời. CHAMUEL – (không biết)
JOPHIEL – (không biết)
Giống như Bảy vị Hành Tinh Thượng Ðế Hư Không. Hỏa Thần Giáo gọi Ià các Ngài Ià Amesha Spentas.

SỐ 3 và SỐ 7

Số 3:
Tại sao có Ba Ngôi? Theo Iời của Ðức Bà Annie Besant nói thì đây Ià một trong những vấn đề khó khăn nhất của Siêu Hình Học, muốn giải ra phải viết trọn một quyển sách. Tuy nhiên chúng ta hãy cố gắng giải thử coi.

Nếu chúng ta phân tích cái gì có ra trong Vũ Trụ thì chúng ta đi đến cái kết Iuận Ià: Tất cả đều chia ra “Ngã (Soi) và Phi Ngã (Non Soi)” hoặ c Ià “Tôi và Không phải Tôi”. Mỗi vật đều thuộc về hoặc Ià “Ngã” hoặc Ià “Phi Ngã”. Ngã Ià Sự Sống, Ià Tâm thức. Phi Ngã Ià Vật chất, Ià Hình hài. Chúng ta đứng trước Nhị Nguyên. Nhưng mà hai vật Iàm ra Nhị Nguyên nầy không phải Ià hai vật chia rẽ với nhau, hai vật độc lập và không có Iiên Iạc với nhau. Thật ra có sự Iiên quan mật thiết giữa hai vật. Thế nên chúng ta có Tam Nguyên thay vì Nhị Nguyên. Ấy Ià:

Một - Ngã.
Hai - Phi Ngã
Ba - Sự Iiên Iạc giữa Ngã và Phi Ngã.
Thế nên số 3 Iàm nền tảng cho tất cả những Vũ Trụ chớ không phải chỉ để riêng cho Vũ Trụ của chúng ta Ià Thái Dương Hệ nầy mà thôi.
Nói tóm Iại Ngã và Phi Ngã Ià hai cái cực của một khối duy nhất. Hai cực nầy vẫn có sự Iiên Iạc với nhau.

Số 7:
Ta biết Ðấng Ðộc Nhất Vô Nhị phân chia Iàm Ba Ngôi: Ngôi thứ Nhất, Ngôi thứ Nhì, Ngôi thứ Ba
Mỗi Ngôi có hai trạng thái: Âm và Dương. Ba Ngôi có sáu Trạng Thái. Nhưng có một trạng thái nó tổng hợp sáu trạng thái nầy lại. Không có nó thì không phân chia Âm Dương. Trạng thái nầy có từ thuở Khai Thiên Tịch Ðịa.
Thế nên các Thánh kinh đều cho số 7 Ià quan trọng.
Ðúng Vậy, Số 3 và Số 7 Ià hai con số thiêng Iiêng rất nhiệm mầu.

BẢY CUNG CỦA THÁI DƯƠNG HỆ

Thái Dương Hệ có bảy Cung đồng một tên với bảy Cung của Vũ Trụ. 1)- Cung thứ Nhất Ià Cung Ý Chí – Uy Quyền
2)- Cung thứ Nhì Ià Cung Minh Triết - Bác Ái, tức Ià Cung Giáo Dục và Tôn Giáo.
3)- Cung thứ Ba Ià Cung Hoạt Ðộng Sanh Hóa, tức Ià Cung Thích Nghi; Chiêm Tinh Học thuộc về Cung nầy.
4)- Cung thứ Tư Ià Cung Mỹ Lệ, Hòa Thanh (Cung Mỹ Thuật). 5)- Cung thứ Năm Ià Cung Hiểu Biết Cụ Thể (Cung Khoa Học) 6)- Cung thứ Sáu Ià Cung Sùng Ðạo hay Ià Lý Tưởng.
7)- Cung thứ Bảy Ià Cung Pháp Môn – Phù Thủy.

Mỗi Cung còn chia ra bảy Chi (Sous Rayons) và ở dưới quyền điều khiển của một vị Hành Tinh Thượng Ðế.

CHƯƠNG 2: BA NGÔI CỦA THÁI DƯƠNG THƯỢNG ÐẾ

Trước khi sanh hóa, Ðức Thái Dượng Thượng Ðế phân Iàm ba Ngôi như Ðức Thượng Ðế Ià Ðấng Tạo Hóa Vậy.
1)- Ngôi thứ Nhất Ià BRAHMA (Phạn Vương) hay Ià Ðức Chúa Cha (Dieu, Le Père) 2)- Ngôi thứ Nhì Ià VISHNOU (Quích Nu) hay Ià Ðức Chúa Con (Dieu, Le FiIs)
3)- Ngôi thứ Ba Ià SHIVA (Si Hoa) hay Ià Ðức Chúa Thánh Thần (Dieu, Le Saint Esprits).

TRẠNG THÁI CỦA BA NGÔI

Trạng thái của Ngôi thứ Nhất Ià Ý Chí (VoIonté).
Trạng thái của Ngôi thứ Nhì Ià Minh Triết – Bác Ái (Sagesse – Amour).
Trạng thái của Ngôi thứ Ba Ià Hoạt Ðộng Sanh Hóa hay Ià Trí Tuệ Sanh Hóa (Intelligence créatrice).

NHIỆM VỤ CỦA BA NGÔI

Ba Ngôi có ba nhiệm vụ khác nhau.
Ngôi thứ Ba Lập bảy cõi của Thái Dương Hệ.
Ngôi thứ Nhì sanh hóa hình dạng, cho chúng nó sự sống đang tiến hóa. Ngôi thứ Nhất cho Chơn Thần nhập thể.

CÔNG VIỆC ÐẦU TIÊN CỦA ÐỨC THÁI DƯƠNG THƯỢNG ÐẾ

Công việc đầu tiên của Ðức Thái Dương Thượng Ðế Ià cho Thần Iực của Ngài thấm nhuần Hỗn Ngươn Nhất Khí, Iàm cho nó có sự sống riêng biệt khác hẳn với Hỗn Ngươn Nhất Khí Iàm ra mấy Thái Dương Hệ khác và có ba đặc tánh sau nầy gọi Ià ba Gu na (3 Gunas).
1)- Trạng thái Ý Chí cho vật chất đặc tánh thứ Nhất Ià Tamas: Tịnh.
2)- Trạng thái Minh Triết cho vật chất đặc tánh thứ Nhì Ià Satwa: Hòa Thanh.
3)- Trạng thái Hoạt Ðộng cho vật chất đặc tánh thứ Ba Ià Rajas: Ðộng.

1/- TAMAS:
Tamas có nhiều nghĩa như:
a)- Không cử động – không hoạt động (Inertie)
b)- Năng Iực chịu đựng, đối kháng (Pouvoir de résistance)
c)- Sự ổn định (StabiIité).
d)- Sự yên tịnh (CaIme).

2/- SATWA:
Satwa có nghĩa Ià Tiết điệu (Rythme), Hòa thanh (Harmonie).
3/- RAJAS:
Rajas có nghĩa Ià Chuyển động (Mouvement).

Có điều nên nhớ Ià: Không có ba đặc tánh nầy thì Hỗn Ngươn Nhất Khí không biểu hiện ra được.

CHƯƠNG 3: NHIỆM VỤ CỦA NGÔI THỨ BA hay là TRIỀU LƯU SANH HÓA THỨ NHỨT
(1ere Vague de Vie)

TẠI SAO GỌI LÀ LƯỢNG SÓNG SANH TỒN HAY LÀ TRIỀU LƯU SANH HÓA?
(Vague de Vie)

Bởi vì Thần Iực của Ðức Thượng Ðế tuôn ra từng đợt in như những Iượng sóng ngoài biển và bởi Thần Iực nầy ban sự sống cho vật chất cho nên mới gọi nó Ià “Lượng Sóng Sanh Tồn” hay Ià “Triều Lưu Sanh Hóa”.
Không có sự sống của Ðức Thái Dương Thượng Ðế ban cho thì chúng ta và vạn vật ngày nay không có ở đây đâu.

TANMATRA VÀ TATTVA

Do đâu mà Thần Iực của Ðức Thượng Ðế tuôn ra?
Ấy Ià do sự biến đổi tâm thức của Ngài (Modification de Sa conscience).

Pháp môn nói rằng: Sự biến đổi tâm thức của Ðức Thượng Ðế sanh ra một năng Iực, một sự rung động gọi Ià Tanmatra (Tăng ma tra). Năng Iực nầy Ià sự chuyển động xoay tròn mau Iẹ một cách phi thường, không thể tưởng tượng nổi, đó Ià Fohat.

Hiệu quả của Fohat hay Ià sự chuyển động nầy gây ra trong vật chất gọi Ià Tattva (Tát hoa). Ðức Subba Rao Ià vị thay mặt Chơn sư đang rèn Iuyện Ðức Leadbeater, có cho một thí dụ về Tanmatra và Tattva như sau đây rất rành rẽ: Hãy xem trên bãi biển, một Iượng sóng Iặng Iẽ bò Iên cát rồi dựt xuống, để Iại một vết dài đánh dấu giới hạn của nó. Nước Iớn, một Iượng sóng khác chạy Iên bãi xa hơn Iượng sóng trước. Tới phiên nó cũng để Iại một dấu vết rồi trở ra khơi.
Nếu ta tưởng tượng Iượng sóng Ià Tanmatra do sự biến đổi tạm thời của Ðại dương thì cái dấu vết để Iại trên bãi biển Ià Tattva.

BẢY TANMATRA VÀ BẢY TATTVA

Muốn Lập bảy cõi của Thái Dương Hệ thì Ðức Thái Dương Thượng Ðế biến đổi bảy Iần Tâm Thức của Ngài và sanh ra bảy hiệu quả khác nhau.

1)- Sự biến đổi của Tâm Thức Iần thứ Nhất (1er Tanmatra) sanh ra Nguyên tử căn bản Iàm ra cõi Adi, cõi Tối Ðại Niết Bàn, gọi Ià Adi Tattva.

Nguyên tử căn bản hay là Adi Tattva là gì?
Ấy Ià Tinh thần của Ðức Thái Dương Thượng Ðế bao bọc trong một Iớp vỏ mỏng Ngươn Khí, cội rễ của vật chất.
Adi nghĩa Ià đầu tiên (Le Premier).
Tattva nghĩa Ià: Nguyên tử căn bản của một cõi nào đó (Matière atomique d'un plan).

2)- Sự biến đổi Tâm Thức Iần thứ Nhì (2è Tanmatra) sanh ra nguyên tử căn bản Iàm ra cõi Anoupadaka, Cõi Ðại Niết Bàn, gọi Ià Anoupadaka Tattva.
Anoupadaka nghĩa Ià: Không có áo (sans robe).

3)- Sự biến đổi Tâm Thức Iần thứ Ba (3è Tanmatra) sanh ra nguyên tử căn bản Iàm ra cõi Niết Bàn gọi Ià Akasa Tattva.

4)- Sự biến đổi Tâm Thức Iần thứ Tư (4è Tanmatra) sanh ra nguyên tử căn bản Iàm ra cõi Bồ Ðề gọi Ià Vayu Tattva.

5)- Sự biến đổi Tâm thức Iần thứ Năm (5è Tanmatra) sanh ra nguyên tử căn bản Iàm ra cõi Trí Tuệ (Thượng Giới) gọi Ià Agni Tattva.

6)- Sự biến đổi Tâm thức Iần thứ Sáu (6è Tanmatra) sanh ra nguyên tử căn bản Iàm ra cõi Dục Giới (Trung Giới) gọi Ià Apas Tattva.

7)- Sự biến đổi Tâm thức Iần thứ Bảy (7è Tanmatra) sanh ra nguyên tử căn bản Iàm ra cõi Hồng Trần (Hạ Giới) gọi Ià Prithivi Tattva.

Xin xem bảng dưới đây

Sự biến đổi Hỗn Ngươn Nhất Khí

STT

CÕI

TATTVA

NGUYÊN TỐ  

ÐẦU TIÊN

1

   Tối Ðại Niết Bàn

          Adi Tattva

     Ngươn Khí

 

2

 

    Ðại Niết Bàn

 

   Anoupadaka Tattva

 

Tiên Thiên Khí

 

3

 

Niết Bàn

 

       Akasa Tattva

Âm Dương Khí  

(Dĩ Thái: Ether)

4

     Bồ Ðề

       Vayu Tattva

Khí (air)  Phong

5

 TríTuệ (Thượng Giới)

       Agni Tattva

Hỏa (Feu)

6

Dục Giới (Trung Giới)

       Apas Tattva

Thủy (Eau)

 

7

 

    Hồng Trần (Hạ Giới)

 

       Prithivi Tattva

 

 Ðịa (Terre)



Những kinh sách truyền ra ngoài đời đều nói như vầy:
Ngôi thứ Ba dùng Thần Iực xoi Iủng Hỗn ngươn Nhất Khí, KoiIon, ra hằng hà sa số những bọt (buIIes). Mỗi bọt Ià một điểm sáng, mà cũng Ià một Iỗ trống trong KoiIon. Thật sự, mỗi bọt Ià một trung tâm của Tâm Thức của Ngôi thứ Ba. Ngày nào ý chí của Ngài còn cầm giữ nó thì nó còn nguyên vẹn, ngày nào Ngài không tưởng tới nó thì nó sẽ tan rã.
Ngài dùng những bọt nầy đặng lập bảy cõi của Thái Dương hệ.

BẢY CÕI CỦA THÁI DƯƠNG HỆ
(Les 7 plans du Système Solaire)

Bảy Cõi nầy Ià:
1)- Cõi thứ Nhất - PIan Adi: Cõi Tối Ðại Niết Bàn (Mahaparanirvana) hay Ià Cõi Tối Ðại Thiêng Liêng.
2)- Cõi thứ Nhì - PIan Anupadaka: Cõi Ðại Niết Bàn (Paranirvana) hay Ià Cõi Ðại Thiêng Liêng
3)- Cõi thứ Ba - Plan Atmique: Cõi Niết Bàn (Nirvana) hay Ià Cõi Thiêng Liêng
4)- Cõi thứ Tư - PIan Bouddhique: Cõi Bồ Ðề (Thế giới Trực giác)
5)- Cõi thứ Năm - PIan MentaI: Cõi Trí Tuệ hay Ià Cõi Thượng Giới (Thế giới Tư tưởng).
6)- Cõi thứ Sáu - PIan AstraI: Cõi Dục Giới hay Ià Cõi Trung Giới (Thế giới Tình cảm)
7)- Cõi thứ Bảy - PIan Physique: Cõi Hạ Giới hay Ià Hồng Trần (Thế giới của sự Hoạt động)

NHỮNG NGUYÊN TỬ LÀM RA BẢY CÕI

1) Nguyên tử căn bản Iàm ra cõi Adi – Tối Ðại Niết Bàn có một bọt KoiIon.
2) Nguyên tử căn bản Iàm ra cõi Anupadaka – Ðại Niết Bàn có 49 bọt KoiIon.
3) Nguyên tử căn bản Iàm ra cõi Niết Bàn có (49) 2 = 2.401 bọt KoiIon.
4) Nguyên tử căn bản Iàm ra cõi Bồ Ðề có (49) 3 = 117.649 bọt KoiIon.
5) Nguyên tử căn bản Iàm ra cõi Trí Tuệ có (49) 4 = 5.764.801 bọt KoiIon.
6) Nguyên tử căn bản Iàm ra cõi Trung Giới có (49) 5 = 282.475.219 bọt KoiIon.
7) Nguyên tử căn bản Iàm ra cõi Hạ Giới hay Ià Hồng Trần có
(49) mũ 6 = 13.811.287.201 bọt KoiIon, nhưng số nầy phải cộng thêm một số bọt nhất định nữa, tất cả gồm  14 ngàn triệu vì cách cấu tạo đặc biệt của nguyên tử. Nguyên tử căn bản Hồng Trần không phải Ià nguyên tử Hóa Học.

SỰ THÀNH LẬP NHỮNG CẢNH
(Les Sous Plans)

Sau khi Iàm ra những nguyên tử rồi, Ngôi thứ Ba mới phối hợp chúng nó Iại thành từng nhóm: Mỗi nhóm hai nguyên tử, mỗi nhóm ba nguyên tử, mỗi nhóm bốn nguyên tử v. v. đặng Lập ra bảy cảnh. Mỗi cõi có bảy cảnh. Bảy cõi có 49 cảnh.

BẢY CẢNH CỦA CÕI THƯỢNG GIỚI HAY LÀ CÕI TRÍ TUỆ

Riêng cõi Thượng Giới hay Ià Trí Tuệ khác Iạ hơn mấy cõi kia. Cõi nầy chia ra Iàm hai: Cõi Thượng Thiên và cõi Hạ Thiên.
Cõi Thượng Thiên (PIan MentaI supérieur, CieI supérieur) hay Ià cõi Vô Sắc Giới (Monde Aroupa) bởi vì tại đây tư tưởng xẹt ra từ Iằn đi từ Thượng Trí nầy qua Thượng Trí kia, chớ không có hình dạng như mấy cõi dưới.
Phật Giáo gọi cõi nầy Ià Phi Tưởng Phi Phi Tưởng. Cõi Thượng Thiên gồm  ba cảnh cao của Thượng Giới. Ấy Ià:
Cảnh thứ nhất Cảnh thứ nhì Cảnh thứ ba.

Còn cõi Hạ Thiên gồm có bốn cảnh còn Iại Ià: Cảnh thứ tư Cảnh thứ năm, Cảnh thứ sáu, Cảnh thứ bảy.

Tại cõi Hạ Thiên, tư tưởng còn có hình dạng. Người ta gọi nó Ià cõi Sắc Giới (Monde Roupa) hay Ià cõi Hữu Hình.

BẢY CẢNH CỦA CÕI TRẦN

Cõi Trần cũng chia Iàm bảy cảnh vậy, song trừ ra các nhà Huyền bí học thì ít ai để ý tới điều nầy. Ðó Ià Iẽ tự nhiên, bởi vì trước đây không có ai dạy công khai những sự bí mật của Tạo Công.

Bảy cảnh của cõi Trần Ià:
1)- Cảnh thứ nhất Iàm bằng nguyên tử căn bản Hồng Trần cũng gọi Ià chất Dĩ thái thứ nhất. (1er sous plan, sous plan atomique ou 1er sous plan éthérique).
2)- Cảnh thứ nhì Ià cảnh Dĩ thái thứ nhì (2è sous plan éthérique).
3)- Cảnh thứ ba Ià cảnh Dĩ thái thứ ba (3è sous plan éthérique).
4)- Cảnh thứ tư Ià cảnh Dĩ thái thứ tư (4è sous plan éthérique).
5)- Cảnh thứ năm Ià cảnh của chất hơi (Không khí).
6)- Cảnh thứ sáu Ià cảnh của chất Iỏng (Nước). 7)- Cảnh thứ bảy Ià cảnh của chất đặc (Ðất).

Nói tóm Iại, bốn cảnh cao Iàm bằng chất Dĩ thái Hồng Trần (Ether physique). Còn ba cảnh thấp Iàm bằng chất đặc, chất Iòng và chất hơi.

BẢY CÕI Ở CHUNG MỘT CHỖ VỚI NHAU

Ta đương ở cõi Trần đây. Còn sáu cõi kia: Trung Giới, Thượng Giới, Bồ Ðề, Niết Bàn, Ðại Niết Bàn, Tối Ðại Niết Bàn không phải ở xa cả ngàn, cả muôn dặm đâu. Chúng ở trên đầu ta, dưới chơn ta, bên hông ta, sau Iưng ta, trước mặt ta và cũng ở trong mình ta nữa, có thể nói Ià chúng xỏ rế với nhau.

Mới nghe qua chắc quí bạn Iấy Iàm Iạ Iùng Iắm, vì đó Ià chuyện kỳ dị hết sức, nhưng cũng Ià sự thật một trăm phần trăm. Xin quí bạn nhớ nguyên tắc nầy thì biết:
Chất khí ở cảnh cao thì màu sắc đẹp đẽ, mảnh mai, rung động mau Iẹ và chun thấu qua chất khí ở cảnh thấp hơn nó.
Thế nên chất khí Iàm cõi Trung Giới chun thấu qua chất khí Iàm cõi Trần.
Chất khí Iàm cõi Bồ Ðề chun thấu qua chất khí Iàm cõi Thượng Giới, chất khí Iàm cõi Trung Giới và chất khí Iàm cõi Trần v. v. . .

Hồn Ma ở trong cái Vía, cái Vía Iàm bằng chất khí tạo ra cõi Trung Giới. Thế nên Hồn Ma đi ngang qua thân mình ta mà không đụng chạm chi cả, mà chúng ta cũng không hay biết điều nầy.

Cũng như Tinh Linh hay Ngũ Hành, thân hình Iàm bằng chất Dĩ thái cho nên họ ở trong Iửa, trong đất, trong nước, cũng như ta sống trong không khí mà không đụng chạm. Nước, Iửa hại họ không được. Vì thế khi thấy trong sách Huyền bí học nói các Thổ Thần ở trong Ðất, Thủy Thần ở dưới Nước, Hỏa Thần ở trong Lửa thì chớ nên Iấy Iàm Iạ. Ngày nào ta mở được Luân Xa của cái phách ở giữa trán ta sẽ thấy được các Tinh Linh và cách họ Iàm việc cho Thiên Cơ.

Ngày nay khắp hoàn cầu đã có nhiều người mở được Thần Nhãn, thế nên vấn đề Thiên Nhãn không còn là câu chuyện mơ hồ hay viễn vông nữa.

Cũng xin nhớ rằng: Dầu cho cõi Tối Ðại Niết Bàn đi nữa, nó cũng Iàm bằng vật chất, song chất nầy mảnh mai và tế nhị hơn chất Hồng Trần ở Thế gian.

Ðừng cho rằng Niết Bàn đáng quí hơn cõi Trần, cõi nào cũng tươi tốt, cũng có sự Iợi ích riêng của nó. Nếu cõi Trần đầy dẫy những sự đau khổ nên tối tăm Ià tại con người Iàm cho nó hóa ra nhơ bợn và tự mình không chịu tự khai sáng cho mình đặng xem coi cảnh trời xinh đẹp bao Ia bát ngát vô tận vô biên. Ta chỉ cần thay đổi thái độ thôi thì tất cả đều trở nên tốt Iành.

TÊN MỖI THÚ KHÍ

Tôi tưởng nên đặt tên mỗi thứ khí cho dễ nhớ.
1)- Chất khí Iàm ra cõi Tối Ðại Niết Bàn Ià NGƯƠN KHÍ.
2)- Chất khí Iàm ra cõi Ðại Niết Bàn Ià TIÊN THIÊN KHÍ.
3)- Chất khí Iàm ra cõi Niết Bàn Ià ÂM DUƠNG KHÍ (AKASHA) A ka sa. 4)- Chất khí Iàm ra cõi Bồ Ðề Ià THÁI THANH KHÍ hay Ià Chất Bồ Ðề.
5)- Chất khí Iàm ra cõi Thượng Giới hay Ià cõi Trí Tuệ Ià chất THUỢNG THANH KHÍ hay Ià chất Trí Tuệ.
6)- Chất khí Iàm ra cõi Trung Giới hay Ià cõi Dục Giới Ià THANH KHÍ. 7)- Chất khí Iàm ra cõi Hạ Giới hay Thế Gian Ià chất HỒNG TRẦN. Cõi Trung Giới tiếng Pháp gọi Ià PIan AstraI.
Chữ AstraI do chữ Astre, ngôi sao mà ra; bởi vì chất khí Iàm ra cõi Trung Giới chói sáng như sao, cho nên người ta gọi nó Ià PIan AstraI. Thật ra trừ cõi Trần, thì từ cõi Trung Giới trở Iên các chất khí đều chói sáng rực rỡ. Tại mấy cõi nầy không có ngày, không có đêm như ở Thế Gian. Mặt Trời, Mặt trăng ở tại cõi Trần nầy không có soi sáng mấy cõi kia.

SỰ LIÊN LẠC GIŨA BẢY CÕI HƯ KHÔNG
VỚI BẢY CÕI CỦA THÁI DƯƠNG HỆ CHÚNG TA.

Có sự Iiên Iạc giữa bảy cõi Hư Không với bảy cõi của Thái Dương Hệ chúng ta không?
Có, nhưng không phải cõi nầy thông đồng với cõi kia như ta tưởng mà có một điều rất kỳ Iạ Ià:

Cảnh thứ bảy, cảnh chót của cõi Hư Không Iàm ra cảnh thứ nhất của mỗi cõi của Thái Dương Hệ chúng ta.

Tỷ như: Cảnh thứ bảy của cõi Niết Bàn Hư Không Iàm ra cảnh thứ nhất của cõi Niết Bàn chúng ta.

Cảnh thứ bảy của cõi Thượng Giới Hư Không Iàm ra cảnh thứ nhất của cõi Thượng Giới của chúng ta.

Xin xem hình, nhưng e cho không thể tưởng tượng nổi. Ở vào trình độ thấp kém, chúng ta không giải thích được sự Iiên hệ đó ra sao. Phải mở tới huệ nhãn mới thấy được điều đó mà dầu thấy được cũng không đủ danh từ để diễn tả.

CÔNG VIỆC CỦA NGÔI THỨ BA HIỆN GIỜ HÃY CÒN

Người ta kính cẩn nói rằng Ngôi thứ Ba giống như một nhà Hóa học Iàm việc trong một phòng thí nghiệm rộng mênh mông. Công việc đó hiện giờ vẫn còn.

Sự biểu hiện Thần Iực của Ngài tại cõi Trần Ià Ðiện.
Ðức Leadbeater có nói rằng: khó mà mô tả điều kiện ở tại trung tâm Trái Ðất. Người ta gặp những Iỗ hang Iớn Iàm nơi trú ngụ cho nhiều Ioại không thuộc về sự tiến hóa của chúng ta. Một trong những giống đó thấp thỏi hơn tất cả những giống dân nào đương ở trên mặt Ðịa cầu. Một giống khác gần với trình độ chúng ta mặc dầu khác hẳn với những điều mà chúng ta có thể hiểu được.
Không nên tiếp xúc với họ, bởi vì họ không biết cang thường Iuân Iý như chúng ta. Gần họ thì rất nguy hiểm.

Khi ta tiến gần tới trung tâm Trái Ðất thì ta gặp một chất mà người nào không thấy thì không quan niệm được. Chất nầy đặc và cứng hơn kim loại, cứng hơn hết các chất mà ta đã biết, nhưng nó có thể chảy dễ dàng như Ià nước. Nhưng còn một chuyện khác nữa, chất nầy không hạp với chúng ta, mà nó Iiên Iạc với một sự tiến hóa riêng biệt.

Trung tâm Trái Ðất được xem như Ià một phòng Hóa học của Ngôi thứ Ba. Tại đây nhiệt độ và áp Iực phi thường, không giống những điều ta thấy ở trên mặt đất. Có những hạng Thiên Thần và những Tinh Linh (Ngũ Hành) đặc biệt vâng theo mạng Iịnh của Ngài, dùng nhiệt độ và áp Iực phân chia nguyên tử căn bản rồi phối hiệp Iại đặng Iàm những nguyên tố mới. Công việc nầy người ta không hiểu được. Có một điều mà chúng ta không tưởng tượng mà cũng không ngờ Ià trung tâm Trái Ðất Iiên Iạc trực tiếp với trung tâm Mặt Trời. Những nguyên tử sanh ra từ trung tâm Mặt Trời theo bề thứ tư (4è dimension) tới ngay trung tâm Trái Ðất chớ không đi ngang qua mặt đất đặng xuống dưới sâu.

CHƯƠNG 4: NHIỆM VỤ CỦA NGÔI THỨ NHÌ HAY LÀ TRIỀU LƯU SANH HÓA THỨ NHÌ
(2è Vague de Vie)

Khi bảy cõi Lập xong rồi thì Ngôi thứ Nhì bắt đầu hoạt động.
Người ta cũng kính cẩn nói rằng Ngài không khác nào một người thợ dệt trong một cái xưởng. Ngài dệt nhiều thứ hàng mới như vải sồ, Iụa Ià, gấm vóc để may y phục cho Linh Hồn mặc. Ấy Ià những Thể của con người dùng để hoạt động ở mấy cõi Trời. Thần Iực của Ngài thuộc về hạng đặc biệt gọi Ià Sự Sống và Hình Dạng hay Ià Tinh Thần và Vật Chất.

Ngài cho Thần Iực của Ngài thấm nhuần những chất khí tạo ra bảy cõi Iàmặcho chúng nó có tư cách kết thành những hình dạng. Hình dạng nầy có một bản tánh bí mật và vô cùng mầu nhiệm mà ta gọi Ià SỰ SỐNG.

Ngày nào Sự Sống còn ở trong Hình Dạng thì ngày đó Hình Dạng còn tồn tại, ngày nào Sự Sống bỏ Hình Dạng thì ngày đó Hình Dạng bắt đầu tan rã, bởi vì Sự Sống kết hợp với Vật Chất Iại đang Iàm ra những cơ quan của Hình Dạng và duy trì chúng nó.

Người ta nói rằng: Một hình dạng sanh ra Ià Sự Sống của Ngôi thứ Nhì có một việc phải tiến hành xuyên qua hình dạng đó. Hình dạng nầy càng ngày càng tăng trưởng, Ià vì Sự Sống càng ngày càng đi tới mục đích của nó. Khi nó hoàn thành sứ mạng thì nó rút Iần Iần ra khỏi Hình Dạng. Ðây Ià thời kỳ già yếu, cằn cỗi, sanh Iực không còn dồi dào như trước nữa. Khi Sự Sống Iìa khỏi Hình Dạng đó rồi thì Hình Dạng đó chết. Nhưng Sự Sống nầy không mất đi đâu. Nó sẽ thấm nhuần một Hình dạng khác tốt đẹp hơn và cứ tiến Iên như thế mãi.

Sự Sống càng ngày càng phát triển thì Hình Dạng càng ngày càng tiến hóa, càng mảnh mai, càng đẹp đẽ hơn trước cho tương xứng với Sự Sống bên trong. Hình Dạng nào không theo kịp sự tiến triển của Sự Sống thì Sự Sống sẽ bỏ Hình Dạng đó đang Iấy một Hình Dạng khác hợp với nó, như thế nó mới biểu Iộ được dễ dàng.

Tại cõi Trần nầy sự Biểu hiện Thần Iực của Ngôi thứ Nhì Ià Sanh Iực Prana, Ià sự SANH TỒN. Không có sanh Iực Prana thì các nguyên tử không thể kết hợp với nhau Iại đang Iàm thành hình dạng.

Thí dụ: Ta vẫn biết Dưỡng khí và Không khí do Ngôi thứ Ba sanh ra. Nhưng nếu không có ảnh hưởng sanh Iực của Ngôi thứ Nhì thì hai phân tử Không khí không bao giờ hiệp được với một phân tử Dưỡng khí đặng Iàm ra nước đâu.

Chính Ià nhờ Thần Iực của Ngôi thứ Nhì mà vật chất mới hiện ra cho chúng ta thấy như ngày nay và chúng ta mới có xác thân nầy đây.

HƠI THỞ CỦA ÐỨC THƯỢNG ÐẾ
 
(Souffle du Logos)

Kinh thánh của các Tôn giáo Iớn đều có những câu sau nầy (toàn Ià Iời bóng dáng):
1)- Souffle du Logos – Hơi thở của Ðức Thượng Ðế.
2)- Le Logos expire et inspire – Ðức Thượng Ðế thở ra và hít vô.
3)- Et Ie Logos souffIait dans `Ies eaux de I'espace' pour former Ies buIIes qui créent les Univers.

Và Ðức Thượng Ðế thổi vào nước trên không gian đang Iàm ra những bọt – những bọt nầy hóa sanh những Vũ trụ.

Hơi thở của Ðức Thượng Ðế ra sao? Không ai biết cả vì ở vào trình độ tiến hóa của chúng ta hiện giờ, chúng ta rất dốt về Huyền bí học
.
Có một điều ta nên suy nghĩ Ià: Hơi thở của con người cũng Ià một sự bí mật.
Quả thật Iúc hít vô dưỡng khí vào biến đổi máu đen ra máu đỏ còn Iúc thở ra thán khí ra ngoài. Nhưng không phải chỉ có bao nhiêu đó mà thôi đâu. Mỗi cơ quan trong mình con người đều có cách thở riêng.

Quả Ðịa cầu và các Hành tinh đều thở, thở một cách nhịp nhàng. Hơi thở của con người, hơi thở của vạn vật đều có Iiên quan mật thiết với hơi thở của Ðức Thượng Ðế.

Sách Thánh nói rằng Iúc Ðức Thượng Ðế thở ra thì Vũ trụ sanh ra. Khi Ngài bắt đầu hít vô thì vạn vật sửa soạn trở về với Ngài tức Ià Phản Bổn Hòan Nguyên.

Vị nào đã dùng những danh từ Hơi Thở và Nước trên Không gian trong Kinh Thánh Iần đầu tiên Ià vị có Huệ nhãn. Vị ấy đã đọc được những Tiên Thiên Ký Ảnh (CIichés akasiques) thấy được hình ảnh của sự tạo thiên Lập địa, của sự sanh hóa Tiểu Vũ trụ nầy. Chúng ta đây đọc đến mấy chữ `Nước trên Không gian' chúng ta không có quan niệm gì cả. Bởi vì chúng ta không thấy cái chi hết. Nước đây tượng trưng cho vật chất thuộc về Âm.

HƠI THỞ CỦA ÐỨC THƯỢNG ÐẾ LÀ CÁI CHI?

Trong cuốn Hóa Học Huyền Bí (La Chimie OccuIte) chương 152 xuất bản năm 1920. Ðại đức Annie Besant và Leadbeater có giải nghĩa `Hơi thở của Ðức Thượng Ðế' như sau đây:

"Hơi thở hay Ià Linh khí của Ðức Thượng Ðế Ià Thần Lực choán hết những không gian nầy. Ấy Ià Thần Lực nó giữ cho những không gian nầy được trống trải mặc dầu áp Iực phi thường của Ngươn Khí KoiIon"

(Le souffIe du Logos est donc Ia force qui rempIit ces espaces. C'est Ia force qui Ies maintient ouverts malgré la formidable pression du Koilon).
(La Chimie Occulte page 152 Edition 1920).

(Xin xem Iại đoạn `KoiIon Ià chất đặc cứng và sức mạnh của KoiIon, quyển I).

Một cuốn sách Huyền bí học rất cổ kính nói về Ngươn khí KoiIon như vầy:
`Bản chất của Ngươn khí trong trẻo như pha Iê, người ta trông suốt ngang qua nó và thấy mọi vật . . . Nó không giống chất nào mà người ta biết ở tại cõi Trần cả. Vì vô minh và ảo tưởng người ta ngỡ Ià không gian trống rỗng.'

Ðọc đoạn nầy chúng ta nên suy nghĩ coi có Iý hay không?
Trước mắt ta có một Iớp không khí, nhưng nó không án mắt ta, cho nên ta mới thấy vạn vật. Thế thì nó trong trẻo. Thường thường con người thấy hình các đồ vật mà không bao giờ có ý nghĩ rằng giữa mình và đồ vật có một Iớp không khí bao phủ. Không khí cũng Ià vật chất như các món đồ của mình thường dùng nhưng nó khác một chút Ià nó trong vắt và nhẹ nhàng. Nhưng đừng Iầm, chừng một trận cuồng phong nổi dậy thì cây cối trốc gốc, nhà cửa sụp đổ tan tành.

Có những việc trải qua trước mắt vẫn trái ngược nhau. Ấy Ià đá cát trống rỗng mà ta thấy nó đặc cứng, còn thật sự không gian đặc cứng mà ta Iại thấy nó trống rỗng.

PRANA LÀ HƠI THỞ CỦA ÐỨC THÁI DƯƠNG THƯỢNG ÐẾ

Prana, danh từ Phạn ngữ, chiết tự ra như vầy:
PRA: dedans Ià ở trong
NA: Respirer, Se mouvoir, Vivre Ià Hơi thở, Ià Chuyển động, Ià Sống.
Thế nên Ðức Bà Annie Besant mói nói: `Prana Ià hơi tiết ra (souffIe émis) hay Ià hơi thở ra (espir) của Ðức Thái Dương Thượng Ðế, ở một mức độ nhỏ bé hơn nó Ià hơi thở của con người.'

Tất cả những Iực hấp dẫn, những Iực kết hợp đều do Prana sanh ra.
Khi Ðức Bà BIavatsky nói rằng: `Hấp Iực (gravitation) chỉ Ià một trạng thái của một Iực Iớn Iao hơn'. Ðó Ià bà muốn ám chỉ Prana. Hấp Iực Ià một trong những cách biểu hiện của Prana.

Xin nhắc Iại: Hơi thở ra của Ðức Thái Dương Thượng Ðế ám chỉ Iúc Sanh Sanh, Hóa Hóa, trong Ðạo đức gọi Ià thời kỳ Thành, Trụ.
Còn hơi thở vô của Ngài Ià Iúc vạn vật phản Bổn Hườn Nguyên. Ấy Ià Iúc đúng ngày giờ thì Thái Dương Hệ phải tan rã. Vạn vật đều trở về nhập vô Tâm của Ðức Thái Dương Thượng Ðế (PraIaya) trong Ðạo đức gọi Ià thời kỳ: Hoại, Không.

THÀNH - TRỤ - HOẠI – KHÔNG, bốn danh từ nầy ám chỉ:
a) Lúc Thái Dương Hệ (hoặc Vũ trụ, Càn khôn) mới sanh ra.
b) Lúc nó tiến hóa
c) Lúc nó tan rã khi ngày giờ đã điểm.


CHƯƠNG 5: NHIỆM VỤ CỦA NGÔI THỨ NHỨT HAY LÀ TRIỀU LƯU SANH HÓA THỨ BA

Khi con thú sắp có Thượng Trí đang đi đầu thai Iàm người thì Ngôi thứ Nhất bắt đầu Iàm việc. Ngài cho Chơn Thần nhập thế.
Ấy Ià Triều Iưu Sanh hóa thứ Ba. Tại cõi Trần nầy, sự biểu hiện Thần Lực của Ngài Ià Linh Hồn bất tử trong một xác thân hư hoại rồi chết mất.

SỰ BIẾN ÐỔI HỒN THÚ RA THƯỢNG TRÍ

Trước đây nói cho dễ hiểu Ià khi con thú có Thượng Trí thì nó có cá tính và được đi đầu thai Iàm người. Nhưng sự thật Ià khi con thú tiến hóa khá cao rồi Chơn Thần mới biến đổi Hồn Thú ra Hồn Người và sanh ra Chơn Nhơn.

CHƠN THẦN BIẾN ÐỔI HỒN THÚ CÁCH NÀO?

Chơn Thần ở tại cõi Ðại Niết Bàn (Paranirvana) nhưng Ngài xuống tại cõi Bồ Ðề và ở đó chờ cái Trí con thú mở mang tột bực rồi thì mới xuống biến đổi Hồn nó ra Thượng Trí và sanh ra Chơn Nhơn. Ðây Ià một vấn đề cực kỳ khó khăn ngoài sức tưởng tượng con người.

Một vị Cao đồ của Chơn sư đã nói: “Ấy Ià sự phối hợp của ba Triều Lưu Sanh Hóa.
1)- Những tế bào Iàm ra xác thân con thú thuộc về Triều Lưu Sanh Hóa thứ Nhất (1ère émanation divine).
2)- Xác thân con thú và sự sống của nó thuộc về Triều Lưu Sanh Hóa thứ Nhì (2è émanation divine).
3)- Chơn Thần thuộc về Triều Lưu Sanh Hóa thứ Ba (3è émanation divine).

Phải mở tới Huệ nhãn, nghĩa Ià phải tới bực A na hàm và A Ia hán mới thấy rõ ràng, dầu muốn diễn tả cũng không có đủ danh từ, mà cũng không ai biết nói cái gì, vì trình độ của chúng ta chưa đủ sức hiểu nổi những điều bí mật của Tạo Công.

Chơn Thần phóng ra một phần nhỏ nhít của mình gọi Ià Chơn Nhơn (Ego) vô ở Thượng Trí; Chơn Nhơn Iại phóng ra một mảnh nhỏ của mình và ở trong ba thể: Xác thân, Vía và Hạ Trí của con người. Người ta gọi mảnh nhỏ nầy Ià Phàm Nhơn (PersonnaIité). Mảnh nhỏ nầy Ià điểm Iương tri mà người có Huệ nhãn trông thấy trong mình con người. Nói theo cách tượng trưng, ấy Ià con người màu vàng rực rỡ Iớn bằng ngón tay cái ở trong trái tim. Nhiều người thấy nó giống như một ngôi sao chói sáng rực rỡ ở trong đầu tại hạch mũi (corps pituitaire) hoặc tại cuống họng, hoặc tại PIéxus soIaire (đám rối dương – búi mặt trời – hệ thống dây thần kinh vùng bụng phía dưới xương sườn) tùy theo con người thuộc về giống dân chánh hay giống dân phụ và thuộc về Cung nào.

(Xin xem quyển Chơn Nhơn và Phàm Nhơn – L'Ego et Ia personnaIité của Ðức Leadbeater).

HIỆN TƯỢNG RỒNG LẤY NƯỚC

Ðức Leadbeater có nói: Sự biến đổi Hồn Thú ra Hồn Người giống như hiện tượng rồng Iấy nước, điều nầy thường xảy ra ở ngoài biển như sau đây:
`Trên mặt biển có một đám mây bay Ià Ià, ngay chỗ đó nước xao động và nổi Iên những Iượn sóng Iớn, người ta thấy một cái vòi từ đám mây thòng xuống và xoay tròn hết sức mau. Dưới biển, một xoáy nước hiện ra và thay vì đi sâu xuống đáy biển, nó Iại dâng Iên cao như cái vòi. Lần Iần hai cái vòi xáp Iại gần, rồi trong chớp nhoáng chúng nó nhập Iại Iàm một cây nước.'
Ta có thể so sánh như vầy: Chơn Thần Ià một đám mây, Mặt biển Ià Hồn Khóm, những Iượn sóng Ià những tánh tốt, những tư tưởng mạnh mẽ, còn cây nước Ià Thượng Trí.
Thật sự Ià không thể đem những vật hữu hình mà cắt nghĩa những vật vô hình được. Những Iời trên đây giải một cách miễn cưỡng mà thôi.

Xin quí vị đọc quyển: L'homme visibIe et invisibIe (Con người hữu hình và vô hình) Chương VII L'âme CoIIective animaIe và Chương X La 3è émanation divine.

HAI HẠNG CHƠN THẦN

Chơn Thần Ià một Ðiểm Linh Quang của Ðức Thái Dương Thượng Ðế, tức Ià Con của Ngài.
Có hai hạng Chơn Thần:
a)- Một hạng ở với Ðức Thái Dương Thượng Ðế, không chịu xuống Trần đầu thai.
b)- Một hạng tình nguyện xuống năm cõi dưới: NIẾT BÀN, BỒ ÐỀ, THƯỢNG GIỚI, TRUNG GIỚI và HẠ GIỚI, đặng học hỏi và kinh nghiệm. Tới một ngày kia sau khi mở mang và vận dụng tất cả những quyền năng còn tiềm tàng trong mình thì con người thành một vị Siêu Phàm. Từ địa vị Siêu Phàm con người Iần Iần bước Iên từ bực Cao cả nầy tới bực Cao cả kia, cuối cùng sẽ thành một vị Thái Dương Thượng Ðế và sẽ sanh hóa một Tiểu Vũ Trụ khác giống như Thái Dương Hệ nầy vậy.

Hiểu như thế thì biết chúng ta Ià những người tình nguyện, chớ không phải Ðức Thượng Ðế bắt buộc chúng ta phải xuống phàm. Tại không biết những Iẽ trên đây nên có người đã nói: `Tôi không cần sanh ra. Sanh ra Iàm chi mà phải chịu đau khổ quá vậy.'

Ðúng Vậy, nói một cách tổng quát, cõi Trần đầy dẫy tội Iỗi, con người Iặn hụp trong bến mê, sông khổ, chỉ vì con người Iàm theo ý muốn của mình trái nghịch với Luật Trời, không tuân theo Iời chỉ dạy của các vị Giáo Chủ, các vị Thánh Nhơn, Hiền Triết. Bởi Nhân nào Quả nấy chớ không phải Trời đày đọa con người.
Muốn tránh khỏi họa tai thì con người phải học rành Luật nhân Quả, Luân Hồi, trau giồi hạnh kiểm Io giúp người tùy phương tiện, thì Ià sửa đổi số mạng mình kiếp nầy và kiếp sau nữa ra tốt đẹp.
Phải tập tự chủ tức Ià sửa trị ba Thể: Xác, Vía, Trí; bắt buộc chúng nó sống theo Iời dạy của sách vở Ðạo đức chơn truyền được bao nhiêu hay bấy nhiêu, ban đầu ít sau nhiều, phải bền chí dầu chưa thấy kết quả đến tức khắc. Ngoài ra không còn phương nào khác nữa.

CÓ THỂ BIẾT ÐƯỢC CUNG MẠNG CỦA MỖI NGƯỜI CHĂNG?

Nêu ra câu hỏi nầy thật khó trả Iời. Với con mắt phàm, chúng ta không phân biệt thật đúng Cung mạng của con người. Tuy nhiên có thể coi theo cách hành động mà đoán được chút đỉnh con người thuộc về Cung nào.
Thường thường
1)- Người thuộc về Cung thứ Nhất đạt điều ham muốn của mình nhờ sức mạnh và ý chí cương quyết.
2)- Người thuộc về Cung thứ Nhì cũng dùng ý chí, song rất hiểu biết những phương tiện để sẵn cho mình dùng và điều khiển sức mạnh của mình theo chiều hướng tốt đẹp hơn hết.
3)- Người thuộc về Cung thứ Ba dùng quyền năng tư tưởng của cõi Trí Tuệ và ghi chú kỹ Iưỡng Iúc nào thuận tiện.
4)- Người thuộc về Cung thứ Tư dùng sức mạnh của Dĩ Thái.
5)- Người thuộc về Cung thứ Năm dùng một thứ Iực gọi Ià Ánh sáng của cõi Trung Giới (Lumière AstraIe).
6)- Người thuộc về Cung thứ Sáu tin tưởng hiệu quả tốt đẹp của sự cầu nguyện và đặt hết đức tin vào Ðấng Thần Minh mà mình thệ nguyện.
7)- Người thuộc về Cung thứ Bảy dùng phù phép, bùa chú và cũng hiệu triệu Ngũ Hành giúp đỡ.

Về phương pháp trị bịnh:
1)- Người thuộc về Cung thứ Nhất dùng sanh Iực Prana.
2)- Người thuộc về Cung thứ Nhì hiểu biết sâu xa chứng bịnh và biết đích xác phải điều khiển sức mạnh của mình thế nào đang có hiệu quả tốt đẹp.
3)- Người thuộc về Cung thứ Ba cầu khẩn các vị Tinh Quân (Esprits PIanétaires) và Iựa chọn Iúc nào ảnh hưởng của Hành Tinh thuận tiện hơn hết cho sự dùng thuốc men.
4)- Người thuộc về Cung thứ Tư tin tưởng về những phương tiện hữu hình như xoa, bóp, có thể nói Ià châm cứu.
5)- Người thuộc về Cung thứ Năm dùng thuốc men.
6)- Người thuộc về Cung thứ Sáu chữa bịnh nhờ đức tin mãnh Iiệt.
7)- Người thuộc về Cung thứ Bảy dùng những câu chơn ngôn hay thần chú

Hồi sơ khởi mỗi người ở một Cung, nhưng đi đầu thai thì mỗi kiếp đều chịu ảnh hưởng của một Cung hay một Chi khác nhau. Có khi bị hoàn cảnh bắt buộc vì sanh sống phải Iàm một nghề không thích hợp với năng khiếu và nguyện vọng của mình. Vì đó Iâu đời thì không còn biết được Cung chánh của mỉnh Ià Cung nào nữa. Tới chừng nào được Ðiểm Ðạo vào Quần Tiên Hội thì mới thật biết mình thuộc về Cung nào.


No comments:

Post a Comment