Wednesday, May 31, 2023

Maha Maya

Maha là lớn 
Maya là tình yêu hoặc ảo mộng/giấc mộng

Còn có câu: Mẹ của mọi vị Phật là Maya. Với hàm ý rất sâu sa. 

Phật ra đời thì cũng đồng nghĩa với ảo mộng liền phải sớm tan rã. Bởi Phật đại diện cho Sự Thật Chân Lý thì còn mộng mê ảo tưởng gì nữa.


Maha Maya (sinh ? - mất 563 TCN)

Cứ chiểu theo thuyết luân hồi, biết đâu vì lưu luyến và nhớ thương con ruột quá mà bà Maha Maya lại đầu thai chuyển kiếp vào làm em con chú con bác của Tên được chọn là Tất-Đạt-Đa (Siddhartha) có nghĩa là "người thành đạt mọi nguyện vọng"

Thích Ca Mâu Ni Phật (563-483 TCN) 







Em con chú con bác của Tất Đạt Đa là A Nan biệt danh “siêu trí nhớ”, bộ nhớ khủng, kinh dị chống thấm chống tràn, chống lãng quên để lưu lại bao kinh văn cú điển cho hậu thế “bất khả cãi bàn”.

Không biết là lợi hay là hại…

A-Nan (605-485 TCN)


Cứ theo Wikipedia và sử liệu chính thống thì Tất Đạt Đa hơn A Nan 42 tuổi.

Cũng cơ sở khi cho rằng bà Maha Maya qua đời 7 ngày sau khi Tất Đạt Đa ra đời vì biến chứng sau khi sinh nở. Hồi sức trong 42 năm trên cung trời Đâu Suất xong rồi thì tức tốc hạ phàm. Lấy thân nam để hầu cận, làm thị giả Phật, trợ giúp Phật sự…

Chuyện này nghe thì huyễn hoặc nhưng biết đâu là thật. Một ngày trên cõi trời là 10 năm hoặc 100 năm dưới đất. Thì hồi sức 42 năm tuổi đời người mặt đất có khi cũng chỉ là vài ngày nghỉ phẻ, chưa kịp lại hơi ở trên trời mà thôi. 




Saturday, May 27, 2023

Ăn đòn vì ngu


Câu chuyện ngu dại của ngày hôm qua khá nguy hiểm. 


Mình ngu mà cứ tỏ ra nguy hiểm từ bé. Hôm qua thì nguy hiểm thật chứ chẳng đùa. Mình đã được cho ăn đòn vì lý do chính đáng. 


Mình đã ngu, không biết mình đang làm gì. Hành động xong rồi vẫn còn chưa biết chuyện gì vừa xảy ra. Mãi sau khi nhận thức được thì mới khóc lóc mếu máo. Xém chút là mình đi đời rồi, tự sát hoặc ngộ sát.


Chuyện là ở nước này nhà ai cũng thủ sẵn súng ống đạn dược. Để săn bắn giết động vật lấy thịt hoặc để tự vệ. Từ khi lo lắng sẽ có kẻ xấu tấn công lúc ban đêm, chồng đã giấu một khẩu súng lục nhỏ ngay dưới đầu giường, cách đầu mình có một gang tay thôi. Chồng dặn đi dặn lại cấm được sờ vào nó. Vừa dặn dò vừa đút từng viên đạn vào nó ngay trước mắt mình để mình biết là súng đã nạp đầy đạn, chỉ để phòng lúc nguy cấp buổi đêm. Tuyệt đối cấm mình động vào.


Nửa năm mấy tháng trôi qua không vấn đề gì. Mình quả thực lờ đi không bao giờ động tới, có thấy nó cũng  chẳng quan tâm gì. Đến hôm qua, ma xui quỷ khiến thế nào. 


Chiều tối ăn no tắm mát xong lên giường chuẩn bị đi ngủ, mình dửng mỡ hí hửng dọn giường. Đang phủi gối thì thấy khẩu súng lục lòi ra ngay phía dưới giường. Rảnh tay, đãng trí quên khuấy mất là nghiêm cấm không được sờ vào nó. Bèn lôi ra xem. Mân mê ngó nghía thế nào, còn chĩa cả đầu súng vào mặt mình. Khẩu súng lục kiểu cổ. Nhìn một lúc thấy mấy lỗ rỗng, cứ tưởng là súng không có đạn. Sau mới biết là súng đã nạp đầy đạn, chỉ là mình nhìn ngược chiều, từ họng súng mà nhìn thì lỗ rỗng chứ từ cò súng nhìn thì full loaded. Nguyên tắc là không bao giờ được nhìn từ họng súng. 


Mình nằm chơi còn xoay xoay thao tác súng như đúng rồi. Chả hiểu sao trước giờ không tò mò thích thú gì động tới thứ đó. Hôm qua lại phởn chí coi thứ nguy hiểm chết người đó là đồ chơi trong khi chờ đợi.


Chồng đang ở ngoài, chuẩn bị để mai đi xa một chuyến, vừa pha nước ấm xách vào buồng tắm định tắm xong thì đi ngủ. Bỗng ĐOÀNG một tiếng nổ.


Chồng hốt hoảng thất thanh hỏi mình còn sống hay chết, tưởng kẻ xấu tới. Nhìn qua cửa sổ lều thấy mình nằm như chết rồi. 


Mình im thim thít còn chưa biết cái gì vừa xảy ra. Chỉ thấy mắt toé lửa và tai ù đi như điếc. Lúc bấm cò không thấy súng nổ, chắc mẩm không có đạn còn táy máy xoay xoay một lúc. Cái cò có hai bộ phận, bấm rồi phải kéo cái phần ở trên nữa thì súng mới nổ. Mình nhìn tới cái phần tưởng là “không liên quan” kia, kéo nhẹ một phát. Thế là thôi.


Mắt còn đang dí sát vào cây súng nằm ngang trên bàn tay, mắt cách súng chỉ vài cm. Không đầy nửa giây sau khi kéo cò thì súng nổ. Sét từ đạn bắn toé ra lóa mắt suýt mù và tiếng nổ như sấm vang tai, suýt thủng màng nhĩ. Mất nửa phút mình không nhìn hay nghe thấy gì nữa. Chỉ ngửi thấy mùi khói súng khét lẹt. Sau khi cơn chói loá qua, thị giác khôi phục, mình nhìn thấy khẩu súng vẫn đang bốc khói trên tay. Vội đặt nó xuống và vẫn không biết là mình vừa nổ súng. Tưởng rằng nó tự nổ thôi, mình còn đang nghiên cứu mà nó chả may tự nổ. 


May rằng họng súng đang hướng chệch. Mình không ăn đạn chết tươi mà là cái lều. Hành động kéo cò xong rồi vẫn chưa biết đạn bay hướng nào. Cả căn lều rung lên, quạt đang quay cũng đứng lại.


Chồng vào nhìn quanh mãi mới thấy một lỗ thủng nhỏ trên lều, ngay cạnh đầu giường.


Khi bị hỏi cung khảo tội: Vì sao dửng mỡ làm thế, vì sao chơi ngu nghịch dại? Idle hands are the devil's playground/ playmate


The proverbs idle hands are the devil's workshop, idle hands are the devil's playthings, and idle hands are the devil's playground mean that someone who is unoccupied and bored will find mischief. Or, someone who has nothing to do will partake in something that will get him into trouble.



https://www.christianity.com/wiki/sin/what-is-the-origin-of-idle-hands-are-the-devils-workshop.html?amp=1


Mãi mình chẳng biết nói gì. Sống chết trong gang tấc chỉ ở một phát súng nổ như thế. 


Mình mếu máo trình bày tưởng là súng không có đạn. Còn khóc ăn vạ hỏi: “Tại sao người ta phải tạo ra súng mà làm gì?” Thế là ăn cái tát lệch mặt nữa. Vì biết rồi còn hỏi, làm sai nghịch dại còn đổ tội cho cái súng hay người khác. 


Đây là lần thứ hai ăn tát. Lần thứ nhất ăn tát nảy lửa là khi đang ngồi sau lưng xe máy phóng đi chơi xa, đi mãi càng đi càng xa, chẳng biết lúc nào về. Được nửa ngày đường tới giữa đèo thì mình định nhảy xuống vì đòi về mãi mà không được. Trưa hè nắng và mình sốt cao đau đầu, buồn ngủ, ngủ gật sau lưng chồng. Dọa nhảy xuống không được vì xe đang phóng nhanh, mình sợ ngã đau. Cả người đang nóng nực nhựa đường hầm hập, mình bèn nảy ra ý khiến xe buộc phải ngừng lại là cởi áo thoát y cho mát. Nói là làm. Chưa cởi được xong thì xe đã đỗ lại bên lề đường. Cúc áo nhanh như cắt được cài lại tử tế và liền đó là hai cái bạt tai như trời giáng khiến bay cả mũ bảo hiểm lăn lóc. Mồ hôi mồ kê nhễ nhại khóc một trận phát ngất giữa đường. Khóc xong thì cũng nguôi cơn sốt nóng bừng và trời bớt nắng, lại đi tiếp. Đi một đoạn nữa thì gặp được nước suối mát để rửa mặt uống nước (hôm đó quên mang đủ nước, giữa đường khát khô cả cổ mà không có chỗ nào mua hay xin được).  


Kết luận thoát y hay nhảy xuống giữa đường đều gây tai nạn nghiêm trọng, nguy hiểm đến tính mạng cho cả người tham gia giao thông khác, ăn đòn là xứng đáng. 


Trở lại vấn đề, lần này ăn đòn cũng phải, xém chút tự sát hoặc ngộ sát bằng “thứ mạnh nhất trong tất cả các loại vũ khí”. 


Súng là thứ nguy hiểm không phải để đùa chơi táy máy nghịch ngợm kể cả khi không đạn lẫn khi có đạn. Một ngón tay dịch chuyển thì một mạng có thể chết trong trong chưa đầy nháy mắt.


Chồng trích dẫn thêm Kinh Thánh, giải thích rõ cho mình sau khi đã nguôi giận: rằng tuy không thích nhưng vẫn phải có súng, nhưng súng không phải đồ chơi cho trẻ con. Cuộc đời không phải là trò đùa, sống chết là chuyện nghiêm túc, nỗ lực nghiêm túc, chứ không phải chuyện chơi. 


Đứa trẻ con như mình thì từ giờ trở đi tuyệt đối không được chạm súng. Cầm hộ một giây cũng không khiến, không nhờ nữa.


“And he shall rule them with a rod of iron” (Revelation 2:27). 


Khải Huyền 2:27 và Thi Thiên 2:9 nói


“Kẻ đó sẽ cai-trị bằng một cây gậy sắt, và sẽ phá tan các nước như đồ gốm, khác nào chính ta đã nhận quyền cai-trị đó nơi Cha ta.”


“Rod of iron” nghĩa là gậy - roi sắt, biểu tượng của vũ khí, bạo lực, … 


Rod: 

Thông dụng

Danh từ: 

Cái que, cái gậy

Gậy, roi; (nghĩa bóng) sự trừng phạt; (the rod) sự dùng đến roi

(từ Mỹ, nghĩa Mỹ) súng lục, súng ngắn




Chồng bảo: Súng chính là để ngày Jesus trở lại, những người theo ngài sẽ nổi dậy (một khi họ nhận ra sự thật và thức tỉnh)… mà lật đổ hệ thống hàng loạt những kẻ độc ác đang thống trị (rule) trong chính phủ toàn cầu này. Dùng chính vũ trang súng ống ấy để đưa những kẻ cầm quyền đầu sỏ độc ác vào tù.


Chứ không phải để những đứa ngu mà nguy hiểm như mình nghịch dại.


Lại nhớ câu kinh điển mà chột dạ:


“Anh em đừng tưởng Thầy đến đem bình an cho trái đất; Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo.”


Lời Chúa: Mt 10, 34 - 11, 1


Một hôm Đức Giêsu nói với các Tông Đồ rằng: “Anh em đừng tưởng Thầy đến đem bình an cho trái đất; Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo. Quả vậy, Thầy đến để gây chia rẽ giữa con trai với cha, giữa con gái với mẹ, giữa con dâu với mẹ chồng. Kẻ thù của mình chính là người nhà. Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được. Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy. Ai đón tiếp một ngôn sứ, vì người ấy là ngôn sứ, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ; ai đón tiếp một người công chính, vì người ấy là người công chính, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc công chính. Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu.” Ra chỉ thị cho mười hai môn đệ xong, Đức Giêsu rời chỗ đó, đi dạy dỗ và rao giảng trong các thành thị trong miền.


https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/thu-hai-tuan-15-thuong-nien-b-16-7-2018-thay-khong-den-de-dem-hoa-binh-nhung-dem-guom-giao-mt-10-34-11-1-32874












Sunday, May 21, 2023

Nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy

Một lời không nên nói mà nói, không nên làm mà làm, thì làm hại cả một con người, cả một gia đình, cả một thế hệ, cả một quốc gia, cả một quả đất. Một lời nói ra, bốn ngựa (nay nhanh hơn là máy bay) đuổi không kịp.

Nói nhiều tổn khí, tức là tổn thọ. Lời nói là thể hiện tâm ý, những người có thể kiệm lời thì mới có thể kiệm Đức để không lãng phí Đức của tất cả. Tiết kiệm cái miệng (tịnh khẩu, tiết khẩu, tiết thực) là giữ lại những tinh hoa của ý, không để nó trôi tuột ra hết đằng miệng.

Hôm rồi có nhỡ thêm dầu vào lửa, nói ra một điều mà khiến nhà người ta tan đàn xẻ nghé. Một ngọn lửa nhỏ mà làm chảy cả rừng công đức. Thần tiên dị giới gì mà chỉ toàn bịa đặt huyễn hoặc, hoa ngôn xảo ngữ để phục vụ cho mục đích phát tiết những vấn đề thuộc về cá nhân. Một con sâu làm rầu nồi canh, mà cả nồi canh có toàn những con sâu to đùng to đoàng là cái bản ngã ngã khổng như vậy, thì ai mà chấp nhận nổi.

Dẫu có bao ý hay, nguyện đẹp đi chăng nữa thì một bất toàn dù là nhỏ nhất thôi cũng khiến người ta không xứng đáng với sự Tinh Khiết của Tình Yêu Toàn Thiện.

- - -

Lời nói một khi còn ở trong đầu thì chỉ gây hại bản thân và tác động vào trường thức nghiệp chung trên bình diện vô thức. Một khi đã công khai nói ra, thì sẽ tác động trực tiếp đến những ai nghe, đọc nó. Mình đã đọc bao sách, báo, truyện, văn hóa phẩm "đồi trụy" một cách vô tội vạ chẳng phân biệt gì. Đã làm ô uế cái thể tình cảm bằng đủ thứ chất thải và rác rưởi thế gian rồi.

Nhà có nuôi một con chó, nó cứ chồm lên người vì mừng và quý người vậy. Chân tay bẩn thỉu, bị xích một chỗ trên đất, kít đái ỉa gì nó thải ra, nó cũng dẫm phải suốt ngày. Nó chồm lên người thì bẩn quần áo lại phải giặt. Không muốn đối xử phân biệt nhưng vẫn đành phải phân biệt, phải quát tháo dọa nạt thậm chí đánh đòn để nó không được như thế nữa. Cứ chồm lên người ta vô ý vô tứ, vô phép vô tắc, chẳng có kiềm chế gì.

Cũng như thế là những gì thuộc về Tình Yêu Đại Toàn Thiện. Những bậc chân tu đã chứng quả vị nhất phẩm là Tình Yêu Tinh Khiết, phải chăng đều coi những sự vô ý vô tứ, vô duyên (no grace) 
trong: ý nghĩ, lời nói, hành động bất kỳ của con người phàm phu tục tử ... cũng "bẩn" như ví dụ ở trên vậy. Dù không muốn cũng phải giữ khoảng cách, hoặc tránh xa, để đỡ tốn công thanh tẩy khử trược. Muốn giặt rửa một bộ quần áo hay đồ vật thì chỉ cần xà phòng và nước là đủ, nhưng muốn giặt rửa thanh tẩy tâm hồn - tâm cảm - tâm trí ...  thì cần nhiều hơn thế rất nhiều. Đòi hỏi phải trải qua rất nhiều công đoạn. 


Vậy nên tự biết một khi chưa đạt tới quả vị Tình Yêu Tinh Khiết, thì cần vô cùng cẩn trọng trong ý nghĩ, lời nói, hành động bất kỳ. Để tránh phóng uế bừa bãi lên nhau mãi.

- - -

Cụ thể sự việc lỡ lời khiến gia đình người ta "nhà tan cửa nát" như sau:

Mình đã viết blog điêu toa đặt điều nói Liên Hoa Sanh có "không chỉ một'' phối ngẫu.

Ba chữ "không chỉ một" cứ như Satan ám ảnh người ta vậy. Thế là bạn đọc tin sái cổ và vội làm phép so sánh liên tưởng: nghĩ Liên Hoa Sanh tài đức vậy mà còn phải nhờ vào "vợ". Thì hắn tài chẳng bằng ai, đức cũng chẳng ai công nhận, có khi phải 8 người vợ tài đức trợ lực, giỏi việc nước đảm việc nhà mới mong "công thành danh toại". Bắt chước idol của bao người thì có gì sai đâu.

Chỉ ý nghĩ vậy thôi đã khiến vợ hắn xót xa đau lòng đến không rơi nổi lệ. Thế mà hắn còn công khai bố cáo với bàn dân thiên hạ. Thế là vợ hắn bỏ hắn chỏng chơ một góc, lại khăn gói quả mướp về nhà mẹ đẻ. Ngựa quen đường cũ, người quen suy nghĩ cũ. Mém động tới một cái là không kìm được miệng mà phụt ra như bị Tào Tháo đuổi vậy.

Hắn ức lắm vì có phải tại hắn đâu! Chỉ là hắn chót đọc được và trộm nghĩ linh tinh thế thôi. Vợ hắn có biết đâu 8 bà vợ tài đức cũng là 8 Vị Đại ca Long Hải "đầu thai chuyển kiếp". Ý là Bát Chánh Đạo (Chánh Kiến - Chánh Niệm - Chánh Tín - Chánh Định - Chánh Tinh Tấn ... )

Kể như thật là Liên Hoa Sanh có "không chỉ một" vợ đi chăng nữa, thì đó cũng là nỗi xấu hổ đáng nhục của Phật Giáo Nguyên Thủy rồi. Huống hồ sự thực có khi Liên Hoa Sanh còn phải giấu đầu lòi đuôi mãi một mống vợ đã khổ. Giấu mãi không nổi mới phải gọi là "phối ngẫu tâm linh". Gắn thêm chữ "tâm linh" cho oai và dễ chấp nhận, vì dù sao cũng mang tiếng là Đạo Sư rồi. Cũng có "nghề" tâm linh thật! Biệt danh Liên Hoa Sanh (người sinh ra từ Hoa Sen) là cái tên hắn tự gọi, để thể hiện phẩm chất cao quý không nhiễm bùn nhơ của mình. Tuy nói không nhiễm bùn nhưng hoa sen mọc lên từ bùn.

Trước khi tới Tây Tạng, Liên Hoa Sanh thực hành phép yoga tantra, quan hệ thể xác đến đã đời, với một cô gái khuyết tật (bàn tay có màng dính các ngón tay lại với nhau). Lợi dụng tình cảm và tình dục của cô gái ấy để "song tu phối luyện" yoga tantra rồi bỏ cô gái lại sau lưng vì không thể đem theo được. Có thể đó còn chưa phải là "mối tình đầu" của Liên Hoa Sanh, mà nghe đâu còn có mấy nữ giáo viên dạy du già mật điển (yoga tantra) trước nữa. *Những điều này đều là truyền thuyết được kể lại*

Khi tới Tây Tạng, gặp được gái trẻ đẹp xinh, vua dâng tận nơi "cúng dường" thì còn ngại gì mà không nhận! Mọi sự dục tình này vốn không định công khai bày ra ánh sáng, Liên Hoa Sanh cứ định ém nhẹm đi, hưởng một mình thôi. Nhưng mà khổ nỗi thân phận đặc thù và khả năng của cô gái kia lại ác quá, hắn đành phải phóng lao thì theo lao. Đành phịa như thật, để "khè" quần chúng rằng hắn không chỉ có một phối ngẫu mà còn có hàng trăm, hàng ngàn. Nào là hắn bất tử, khi xưa lúc hắn ở Ấn Độ thì chính là Thích Ca Mâu Ni Phật. Mà Thích Ca Phật có một vợ chính thức và 500 cung nữ cũng xuống tóc đi tu cùng ai cũng biết. Không tin cứ lấy kinh cú ra mà soi.

Lúc ở Tây Tạng hắn đã già rồi, hơn cô gái được vua dâng kia 30 tuổi là ít. Cũng chẳng còn lực mấy mà đáp ứng sức trẻ. Hắn nghĩ mãi mới đành không tiếc của giời nữa mà đưa tiền đưa vàng cho "phối ngẫu" làm của hồi môn mà đi tìm chồng mới. Những tưởng thoát được kiếp ăn chơi sa đọa rồi. Ai ngờ nàng ta chẳng những quay về mà còn dẫn theo bao nhiêu người. Một kẻ là trai trẻ xứng đôi với nàng theo yêu cầu của hắn thì đã đành, lại thêm một thiếu nữ non tơ, ngây thơ e ấp, băng thanh ngọc khiết nữa.

Hắn "thèm" lắm mới xin nàng giao cho hắn người thiếu nữ kia để hắn đích thân dạy bảo mật truyền. Liên Hoa Sanh muốn lấy lại sự công bằng ... vì hắn đã cho nàng tự do, thì nàng cũng phải cho hắn được tự do chứ! Hắn bảo nàng thực hành và truyền dạy phép đại lạc với trai tân, thì nàng cũng phải cho hắn được "dạy dỗ" từ đầu cô bé ngây thơ duyên dáng kia chứ!

Thế là thôi ... từ đấy trở đi có một đồn mười. Liên Hoa Sanh trong truyền thuyết là vị đạo sư có hàng trăm hàng ngàn "phối ngẫu - tâm linh". Tâm linh với xác thịt đều như nhau cả, chả có gì phải ngại hay sợ về sự thật hiển nhiên ấy. Các Lama ăn chơi đời sau đua đòi theo thì cứ phải gọi là ...
 thác loạn.


Vừa làm việc, vừa dạy đạo, vừa quan hệ, với cả hai "vị phối ngẫu tâm linh" đều còn trẻ như thế. Lao lực quá sức thì tổn thọ. Tu mật lạm dụng việc bế tinh nghịch khí thái quá để duy trì trạng thái cứng như kim cương thế, ăn ở sinh hoạt tình dục trái tự nhiên thì chắc chắn chết sớm. Tinh phải thoát ra để cho sự sống mới được sinh sôi, và chỉ vì mục đích đó mà sinh tinh, chứ không phải để bế tắc kìm lại vì bất kể mục đích gì khác.

Cả cuộc đời Liên Hoa Sanh không vợ mà chỉ có phối ngẫu, tự do vô cùng không có bất cứ ràng buộc hay trách nhiệm trần gian gì. Hắn không coi phối ngẫu tâm linh là vợ mà chỉ là công cụ "dạy và học" môn Đại Lạc hay Cực Khoái - kêu hơn nữa là "THỨC BỔN TÂM - GIÁC TÍNH NGÂY THƠ".

Hắn cũng chẳng có con vì mải bận luyện bế tinh điều khí. Tuy giao hợp với nhiều "vị phối ngẫu tâm linh" nhưng tuyệt không có con. Đến lúc hắn muốn có con thì lại chẳng có được. Những năm cuối đời hắn làm rất hăng nhưng chẳng có kết quả hoa trái gì (Đây là quả báo của nghiệp tà dâm đã phạm). Nhiều người hồ nghi hắn bị vô sinh, làm thế làm nữa cũng không có con được với bất kỳ phối ngẫu nào. Hắn cứ cố mãi để sinh được một đứa ngây thơ, một đứa con làm giống của riêng hắn cho đời. Cố quá, quá cố! Liên Hoa Sinh kiệt sức hao lực, suy thận sinh bệnh, suy tinh mà chết ở tầm tuổi 60, sau khi đã tới đất Tạng trên dưới 10 năm. Người đời tôn hắn lên bậc thần tượng tôn giáo, có biết đâu sự thật

Mấy chuyện này hậu thế không biết, Duyên Tu Hành không giống Duyên Hồng Trần. Thế mà cứ cố kham cho đủ năm thê bảy thiếp, chật hậu cần giao phối, để vừa được giao hợp dục tính ngẫu nhiên đầy sự lựa chọn, vừa được phối ngẫu tâm ... linh tinh ... Nào ai biết TÂM LINH là sự THỦY CHUNG tuyệt đối với DUY NHẤT CHỈ MỘT dù thể xác hay tinh thần. Một Đời một Đạo, một Đường, một vợ một chồng cam kết chuyên tâm trọn vẹn. Đến chừng nào vợ chồng chết, bỏ hay phản bội mình đi theo người khác, vẫn còn không thôi. Như Thiên Chúa vẫn yêu con người dù con người bỏ Ngài vậy. 

- - -

Người bạn kia ngây thơ như trẻ con chỉ muốn bắt chiếc các tiền bối. Nào đâu hiểu có những điều cả thiên hạ tôn sùng lại chỉ là một vết nhơ, vết xe đổ không nên đi vào.

Còn đối với tình cảm vợ chồng, chẳng riêng gì người nữ, mà cả người nam. Sẽ thế nào nếu đổi ngược lại, ông chồng chợt nghe hay biết vợ mình vẫn cứ suy nghĩ mãi về việc có mình thôi chưa đủ (hoặc có nên bỏ mình để "phối ngẫu" tâm linh hay thể xác với vài người nữa). Vì mình bất tài vô dụng, xấu xa hèn kém quá, chả có gì hấp dẫn nên vợ chán vợ chê, vợ ngóng vợ mong, không chỉ một mà nhiều người đàn ông khác ... đẹp trai, tài giỏi, đức độ, ga lăng hơn mình.

Dù có tự tin đến mấy mà khi nghe người bạn đời nói vậy. Có người phụ nữ hay đàn ông nào không giận dỗi và tự ái? Mình chưa đủ tốt, chưa đủ xinh, chưa đủ tài, chưa đủ đức hay sao nên vợ hoặc chồng mới cần bao người khác nữa để thỏa mãn nhu cầu? Mình đã cố gắng hết lòng, hết tâm, hết sức rồi mà vẫn chưa đủ, vậy thì thôi khỏi cố nữa đi, ai cố được thì cố hộ, cho mình nhẹ nợ. Cần ai thì cần, cần gì mình nữa!

Cho bọn con tan đàn xẻ nghé, nó lớn nó tự hiểu. Cha mẹ nó không hợp, không đủ cho nhau, thì có cha khác hoặc mẹ khác. Nuôi thì vẫn nuôi chứ cha một nơi mẹ một nẻo. Để chúng nó cảm thấy chúng nó là đồ thừa, sản phẩm không mong muốn tòi ra giữa hai kẻ chả có liên quan gì. Chúng nó tìm hiểu thì biết là phải có quan hệ abcxyz, lằng nhằng rắc rối xoắn ADN lắm mới sinh ra chúng nó ở đời. Thế là chúng nó sợ, ghét, hoặc coi khinh mối quan hệ vợ chồng thiêng liêng tinh khiết. Chúng nó lao vào xả láng với bao nhiêu thì bao, hỏng đời thì thôi, đau hay khổ gì cũng kệ. Sướng vui tạm thời, chả cần quan trọng ai hay ai, chồng hay vợ gì. Một vợ một chồng lỗi mốt rồi. Tân tiến là phải 1 với 10 hoặc 1 với 100, dân chơi sợ gì hỏng đồ chơi.  

Thiên Chúa ghét mọi sự Ly Hôn, Phân ly. Thế mà bao kẻ nhân danh Thiên Chúa để kết hôn rồi lại tự ý phân ly bởi những suy nghĩ cạn cợt không đầu không đuôi như vậy.

- - -

Không thì lại cứ như ông Phật trên cao kia, vô dục vô cầu.




Wednesday, May 17, 2023

Tình Yêu và Tình Bạn

Tình Yêu và Tình Bạn

Bất cứ khi nào, ở đâu, bất cứ giới tính ra sao. Hễ có hai kẻ hiểu nhau và có thể "communicate" - trao đổi hay chia sẻ ý nghĩ, cảm xúc, nguyện vọng, ... thì được gọi là Tình Bạn.

Tình Yêu là sự cam kết trọn đời đồng hành, hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa những người bạn (đồng giới hoặc khác giới). Khi hai người bạn có sự hòa hợp trong tính cách và quan điểm, thái độ, mục tiêu, lý tưởng ... thì có thể trở thành bạn cả đời chứ không phải bạn nhất thời.

Tích xưa có những tình bạn khăng khít thân thiết vô cùng. Ví dụ như Đức Thích Ca và Thị giả A Nan, Thầy Khổng Tử và Trò Nhan Hồi, Người đàn Bá Nha và người nghe Tử Kỳ... Những tình bạn này tuyệt nhiên trong sáng không hề có dục vọng bất kỳ. Những tấm gương như thế chẳng thể gọi là đồng tính luyến ái được.

Tình bạn vốn vô biên không phân biệt giới tính. Tuy nhiên khi hai người bạn có sự khác biệt giới tính thì lẽ dĩ nhiên - tất yếu và cũng là cần thiết phải nảy sinh nhiều phân biệt, giới hạn. Đặc biệt là giới hạn về Dục Tính. Vậy nên mới có câu "nam nữ thụ thụ bất thân" để tránh sự hiểu lầm, và những tai nạn giao lưu không mong muốn. Nam nữ thời xưa không được thân quá. Một khi thân quá thì ranh giới giữa tình bạn và tình gì khác là rất mong manh. Nam nữ một khi thân quá, yêu quá, tiến tới giới hạn Dục rồi, thì chỉ có thể hoặc là thành vợ thành chồng, hoặc là thành hối thành hận, nhớ nhung âu sầu, đôi bên bất cập.

Trong truyện Thần Điêu Đại Hiệp của Kim Dung: Tiểu Long Nữ và Dương Quá từ tình thầy trò, tình bạn, lâu dần chuyển thành tình yêu. Kết truyện/phim, cả hai cùng bay dưới trăng ... lấy nước mắt của không biết bao nhiêu khán giả.

Nhưng đời thực, khi ai đó chợt nhận ra một sự tuần hoàn là: Một ngày chỉ có quanh đi quẩn lại mỗi chuyện ăn với uống, ỉa với đái. Làm việc để kiếm sống và làm tình để sinh con, nuôi con lớn lại gả vợ lấy chồng cho con, rồi chết. Hết một đời như vậy là xong bổn phận và nghĩa vụ làm người?!

Chó mèo rồi lại đùa cợt, vớ vẩn rồi lại linh tinh. Viển vông rồi lại viễn mộng. Phiêu lưu rồi lại du hý. Ảo tưởng rồi lại lâng lâng với ba cái chuyện vặt vãnh hay quan trọng - tình yêu tình báo... Cứ vậy rồi cũng hết một đời hao cơm tốn gạo. Rốt cục chẳng hoàn thành được mục đích gì kỳ tột.

- - -

Dẫu có thơ văn lời lẽ chữ nghĩa cũng chỉ là sự hời hợt rỗng tuếch, nặng về vần âm thanh điệu mà nhẹ về ý nghĩa nội hàm. Kẻ làm thơ, làm văn mà chỉ để "thủ dâm tinh thần" bản thân mãi như thế thì thà một chữ bẻ làm đôi không biết còn hơn.

Xưa nay vốn chẳng coi việc đọc thơ hay thưởng thơ là cái thú. Vài câu chữ gắng gượng gán ghép với nhau để thành vần, kỳ thực chỉ là sự thô thiển trong cái tinh tế vô ngôn, vi diệu của huyền âm tỏ lộ.

Vài dòng này ghi lại trước khi bắt đầu nghiêm túc dịch một cuốn tự truyện (autobiography) có nhan đề: Mùa Gặt Châu Á (An Asia Harvest) của tác giả Paul Hattaway.



 

Monday, May 15, 2023

Tây Du Ký. Hồi thứ 67

Hồi thứ sáu mươi bảy:

CỨU VỚT ĐÀ LA THIỀN TÍNH VỮNG THOÁT LÌA Ô UẾ ĐẠO TÂM TRONG

- - -

Bốn thầy trò Đường Tăng thoát khỏi Tiểu Tây Thiên, hớn hở lên đường. Qua một tháng rong ruổi, đúng tiết xuân nồng hoa nở, mấy chốn cây vườn đều mượt màu xanh. Tam Tạng ghim cương nói:
- Đồ đệ à, trời đã muộn rồi, tìm lối nào nghỉ nhờ đi!

Hành Giả cười bảo:
- Sư phụ yên tâm. Nếu không có chỗ ngủ nhờ, ba chúng con đây đều có chút nghề mà. Bát Giới bổ củi, Sa Hòa thượng bẻ cành, Lão Tôn làm thợ mộc, dựng một túp lều cỏ tại đây, có thể ở được cả năm ấy chứ! Sư phụ nóng ruột làm gì!

Bát Giới nói:
- Đại huynh à, chỗ này sao mà ở được! Đầy núi toàn hổ báo sói sâu, chật đất những quỷ ma yêu mị. Giữa ban ngày còn khó đi, nói gì chuyện ngủ đêm!

Hành Giả nói:
- Chú Ngốc! Vội vàng làm sao đi xa được! Không phải Lão Tôn mạnh miệng đâu, chỉ cần cây gậy này nắm chắc trong tay, là có thể xô đổ cả trời mà chống rồi!

Thầy trò đang bàn bạc, chợt thấy đằng xa xa một sơn trang.

Hành Giả bảo:
- Được rồi, có chỗ ngủ rồi!

Trưởng lão hỏi:
- Ở đâu?
- Chỗ lùm cây kia chẳng phải có nhà dân hay sao? Chúng ta tới nhờ một đêm, sớm mai lên đường.
Trưởng lão mừng rỡ thúc ngựa, tới cửa nhà ấy thì xuống.

Cửa rào khép chặt. Trưởng lão gõ cửa gọi:
- Mở cửa, mở cửa với!

Từ bên trong, một lão già tay cầm gậy lê, chân dận hài cỏ, đầu đội mũ lông chim, thân khoác áo vải thô, ra mở cửa, hỏi ngay:
- Ai mà gọi to thế?

Tam Tạng chắp tay trước ngực, cúi mình thi lễ, thưa:
- Lão thí chủ ơi, bần tăng ở Đông Thổ Đại Đường, phụng mệnh sang Tây Thiên lấy kinh. Tới đây thì trời tối, đành to gan tìm tới lão ông xin tá túc một đêm.

Ông lão nói:
- Hòa thượng này, ngài muốn tới Tây thiên nhưng đi chẳng được rồi. Chốn này là Tiểu Tây Thiên. Nếu tới Đại Tây Thiên, đường còn xa lắm. Chưa nói phía trước đầy gian nan, chỉ ở đây thôi đã khó khăn lắm rồi.

Tam Tạng hỏi:
- Khó khăn gì vậy?

Ông già chỉ tay bảo:
- Cách thôn trang chúng tôi về phía tây hơn ba mươi dặm, có một vùng Hồng Thưa, núi gọi là Thất Tuyệt.

Tam Tạng hỏi:
- Vì sao gọi là Thất Tuyệt?

Ông già đáp:
- Đường qua núi dài tám trăm dặm, khắp núi đều là quả hồng. Người xưa có câu: Cây hồng có bảy tuyệt: một là ích thọ, hai là lắm bóng râm, ba là không tổ chim, bốn là không sâu bọ, năm là lá màu sương trắng có thể chơi, sáu là quả ngon, bảy là lá cành to lớn. Vậy nên có tên là núi Thất Tuyệt.

Chỗ Chúng tôi đất rộng người thưa, núi sâu từ cổ xưa không ai qua lại. Hàng năm hồng chín rụng ngập khắp nơi. Lại bị mưa sương tuyết rắc, qua hè nhũn chảy, thành một vùng ô uế. Người ở đây đều gọi quen là vùng phân, cứ gió tây thổi qua là khí xú uế tỏa ra, còn thối hơn mùi nhà xí. Bây giờ đang đúng mùa xuân, gió đông nam thổi mạnh, nên còn chưa thấy thối đó.

Tam Tạng phiền não buồn rầu không nói. Hành Giả không nén nổi, cao giọng nói:
- Cái lão già này chẳng thông hiểu gì cả! Chúng ta từ xa tới xin ngủ nhờ, lão lại kể lể những lời làm người ta phát hãi. Nếu nhà lão chật hẹp không có chỗ, chúng ta sẽ ngồi dưới cây này cũng đủ qua đêm, cớ sao lại lắm lời như thế!

Ông lão nhìn tướng mạo xấu xí, vội bịt mồm, kinh hãi quá, lấy hết can đảm, quát một tiếng, giơ gậy lên dọa:
- Cái giống này, xương đầy mặt, nhô cả đầu, mũi tẹt dí, tai dựng đứng, lông mày lông mắt, như quỷ ốm o, không hiểu cao thấp, còn nhọn mỏ dám xông vào nhà ta à!

Hành Giả cười nịnh:
- Cụ ơi, cụ có mắt mà không ngươi, không biết quỷ ốm o ta rồi! Tướng pháp dạy rằng: Hình dung cổ quái, trong đá ẩn ngọc đẹp sâu xa. Nếu cụ đem lời nói, mặt mũi mà xét người, thời sai quá đấy. Ta tuy xấu xí, nhưng cũng có chút nghề.

Ông lão nói:
- Ngươi là cái giống quê ở đâu? Tên họ là gì? Có chút nghề gì?

Hành Giả cười:
- Ta đây:
Tổ ở Đông Thắng Đại Thần châu,
Núi Hoa Quả ấy tu từ lâu,
Đích thân vái lạy Linh Đài tổ,
Học nên võ nghệ đủ muôn màu.
Có tài khuấy biển hàng Long Mẫu,
Biết cả nghiêng non đuổi Nhật đầu.
Bắt quái trói yêu xưng bậc nhất,
Dời sao chuyển nguyệt quỷ thần sầu.
Trời thua đất sợ thanh danh lớn,
Ta là biến hóa vô cùng Mỹ Thạch hầu.

Ông lão nghe nói, chuyển giận thành mừng, lại cúi mình chào, thưa rằng:
- Xin mời vào tệ xá nghỉ ngơi!

Bốn thầy trò dắt ngựa gánh đồ cùng vào. Chỉ thấy gai góc rậm rạp um tùm hai bên, cửa hai tầng đều là gạch đá xếp chồng, gai góc lợp mái, vào tận bên trong mới là ba gian nhà ngói. Ông lão kéo ghế mời ngồi pha tra, rồi gọi người làm cơm. Một lúc sau, mời qua bàn ăn, có bao nhiêu là đậu phụ, giá đỗ, rau cải, gạo thơm canh nóng, canh rau nghi ngút. Thầy trò ăn một bữa thỏa thuê.

Bát Giới kéo Hành Giả, hỏi:
- Sư huynh à, ông lão này lúc đầu không chịu cho vào, nay lại làm cơm thịnh soạn là sao nhỉ?

Hành Giả nói:
- Thế này có đáng bao nhiêu tiền! Ngày mai, sẽ đòi ông lão mâm cơm mười loại quả, mười loại rau để sư đệ ăn.

Bát Giới bảo:
- Không biết dơ! Nhờ vài câu khoe khoang của đại huynh, mới dọa được ông ta cho một bữa ăn. Ngày mai đã đi rồi, ông ấy còn đãi ta nữa chắc!

Hành Giả nói:
- Đừng có vội, ta có cách rồi.

Chẳng bao lâu, hoàng hôn buông dần, ông già gọi châm đèn. Hành Giả cúi mình hỏi:
- Cụ quý tính là gì ạ?
- Tôi họ Lý.
- Vậy nơi này gọi là Lý gia trang rồi!
- Không phải đâu, nơi này gọi là Đà La trang, có hơn năm trăm người sinh sống. Khác họ có nhiều lắm, chỉ tôi là họ Lý thôi.

Hành Giả nói:
- Lý thí chủ à, các vị có ý tốt gì mà đãi cơm chúng tôi thịnh soạn thế?

Ông lão đứng lên nói:
- Mới rồi nghe nói ngài có tài bắt quái, chúng tôi ở đây có một con yêu quái, phiền ngài bắt giúp, chúng tôi xin hậu tạ.

Hành Giả lập tức vái mà nhận lời. Bát Giới nói:
- Lại rước vạ vào rồi! Nghe nói bắt yêu quái là ừ lấy ừ để!

Hành Giả bảo:
- Hiền đệ không hiểu gì cả. Ta to mồm nhận lời như thế là để định giá đấy, ông lão sẽ không đi nhờ người khác nữa đâu.

Tam Tạng nghe vậy nói:
- Con khỉ này làm việc gì cũng tự tiện. Nếu mà yêu tinh thần thông quảng đại, bắt nó không nổi, chả hóa ra người xuất gia bọn ta nói khoác ư?

Hành Giả cười:
- Sư phụ đừng có trách, để con hỏi lại đã!

Ông lão kia nói:
- Còn hỏi gì nữa?

Hành Giả nói:
- Chỗ của cụ đây địa thế thanh bình, lại có nhiều người sinh sống, chẳng phải nơi hẻo lánh thì có yêu quái gì dám phạm vào chốn nhà cao cửa rộng?

Ông lão đáp:
- Quả không dám giấu, chỗ chúng tôi từ lâu đã yên bình lắm. Bỗng cách đây ba năm, vào tháng sáu, một cơn gió ùa đến, khi ấy người người đang bận rộn, hái lúa mạch đồng, gieo mạ non ngoài ruộng, ai nấy đều hốt hoảng, đều cho là trở trời. Ai ngờ gió qua rồi, có một con yêu tinh đi bắt trâu bắt ngựa của nhân dân mà ăn thịt, gặp lợn gặp dê cũng ăn, gặp gà gặp ngan nuốt gọn, lại nuốt tươi cả đàn ông đàn bà nữa.

Từ lần ấy, cứ hai năm lại xảy ra tàn hại một lần. Trưởng lão ơi, nếu ngài có tài nghệ xin hãy bắt nó đi, làm sạch chốn này, chúng tôi nhất định hậu tạ, không dám sơ suất.

Hành Giả nói:
- Vụ này xem ra khó đây!

Bát Giới bảo:
- Quả là khó, khó lắm! Chugns ta là người hành khước, ngủ nhờ một đêm, sáng mai đi rồi, bắt yêu tinh làm gì!

Ông lão nói:
- Hóa ra ngài là hòa thượng lừa đảo kiếm cơm. Lúc gặp thời to mồm khoe khoang, nói là có tài chuyển nguyệt dời trăng, hàng yêu bắt quái, đến khi nói tới việc thì chối đây đẩy là khó lắm!

Hành Giả nói:
- Cụ à, yêu tinh thì bắt được, chỉ do dân các vị ở đây không bằng lòng cho nên mới khó bắt.

Ông lão hỏi:
- Sao lại biết lòng người không cùng?

Hành Giả nói:
- Yêu tinh quấy nhiễu đã ba năm, làm hại bao nhiêu sinh linh. Ta nghĩ, mỗi nhà chỉ cần bỏ ra một lạng bạc, năm nhà cộng thành năm lạng, không ngại đi cầu một vị pháp quan nào đó bắt yêu tinh, chứ sao lại cam chịu suốt ba năm tàn hại?

Ông lão đáp:
- Nếu nói dùng tiền thì thẹn chết đi được. Nhà chúng tôi ai chả tốn năm ba lạng bạc rồi. Năm trước từng mời một vị hòa thượng trong Sơn Nam tới bắt quái mà có thắng được đâu.

Hành giả hỏi:
- Hòa thượng ấy bắt thế nào?

Ông lão đáp:
- Vị tăng già ấy khoác áo cà sa.

Trước bàn Khổng tước, sau niệm Pháp Hoa.
Đốt nhang lò nóng, tay rung thanh la
Chính khi tụng niệm, kinh động yêu tà.
Gió lồng mây cuộn,
Tới thẳng làng nhà.
Sư đấu cùng quái,
Gớm ghê thực là,
Một phát một đấm nện
Một phát một gạt qua
Hòa thượng vẫn ứng chiến,
Đầu tóc bung cả ra.
Chốc lát yêu quái thắng,
Vút thẳng về trời xa.
Chúng tôi lại gần ngó,
Đầu trọc nát như dưa.

Hành giả cười:
- Nói vậy là chịu thua hả!

Ông lão đáp:
- Hòa thượng ấy chỉ mất một mạng, còn chúng tôi chịu khổ trăm đường: Mua quan tài chôn cất, lại mất tiền cho đồ đệ của ông ta. Đồ đệ ấy đến nay chưa chịu yên, vẫn còn đi kiện đấy!

Hành giả nói:
- Sau còn nhờ ai bắt quái nữa không?

Ông lão đáp:
- Năm trước lại nhờ một đạo sĩ.

Vị ấy thân khoác áo pháp
Đầu đội mũ vàng
Lệnh bài rổn rẻng,
Phù thủy múa mang.
Xua thần khiến tướng
Dụ được yêu vương.
Gió giông cuồn cuộn,
Mây đen mê man.
Quái cùng đạo sĩ,
Hai bên tranh cường.
Đấu tới trời tối,
Quái về trời ngang.
Trời đất thanh lặng hẳn,
Chúng tôi đều xếp hàng,
Bổ đi tìm đạo sĩ,
Đã chết dúi khe hoang.
Kéo lên cho mọi người nhìn rõ,
Thì đã như gà luộc nồi thang.

Hành giả cười:
- Nói vậy là lại chịu thiệt rồi!

Ông lão đáp:
- Vị đạo sĩ ấy chỉ mất một mạng, còn chúng tôi lại tốn bao nhiêu lượng tiền.

Hành giả nói:
- Đừng có cuống, để ta đi bắt nó giúp cho.

Ông lão nói:
- Nếu quả ngài có tài bắt được nó, chúng tôi sẽ mời mấy vị trưởng lão lập một văn thư: ví mà thắng được, ngài muốn bao nhiêu bạc hậu tạ sẽ không thiếu một ly. Ví mà thua, hãy đừng có buộc chúng tôi vào, ai nấy có mệnh rồi mà.

Hành giả cười:
- Ông cụ này bị người phiền nhiều đâm sợ quá! Chúng ta không phải hạng người ấy đâu. Mau đi mời các trưởng lão đi.

Ông già mừng hớn hở, sai ngay bọn nhỏ đi mời tám chín người già tới gặp. Gặp Đường Tăng rồi, nói chuyện yêu quái không ai không phấn khởi. Các vị ấy hỏi:
- Vị cao đồ nào đi bắt quái vậy?

Hành giả khoanh tay nói:
- Là tiểu hòa thượng ta.

Các vị run rẩy nói:
- Không được, không được! Yêu tinh thần thông quảng đại, thân thể to lớn. Vị trưởng lão này nhỏ bé gầy gò, chả đủ cho nó nhét đầy một kẽ răng đâu.

Hành giả cười:
- Các vị xét không đúng người rồi. Ta bé nhỏ từ xưa, bé hạt tiêu đấy.

Các vị nghe vậy đành y theo mà bảo:
- Trưởng lão à, bắt được yêu quái, ngài đòi lễ tạ bao nhiêu?

Hành giả đáp:
- Hà tất phải nói tới chuyện ấy! Tục ngữ có câu: Tiền bạc lạnh tình nghĩa. Chúng ta là hòa thượng tích đức, quyết không vì tiền đâu!

Các vị nói:
- Đã nói như vậy thì đều là cao tăng thụ giới rồi. Đã không đòi tiền, há lại không công? Chúng tôi nhà nhà đều sống bằng chài lưới ruộng vườn. Nếu quả thực ngài hàng được yêu quái, làm sạch đất này, chúng tôi mỗi nhà sẽ tặng ngài hai mẫu ruộng tốt, cộng thành một ngàn mẫu, nằm riêng một chốn, thầy trò các ngài dựng chùa tại đó tham thiền, riêng hẳn một phương!

Hành giả lại cười:
- Thái bất cập! Đã nói tới ruộng thì lại cần nuôi ngựa nuôi trâu, tích lương làm cỏ. Chiều tối không được ngủ, năm canh chả được nằm.

Các vị nói:
- Mọi thứ đều không cần, vậy phải tạ lễ cái gì đây?

Hành giả đáp:
- Ta là người xuất gia, chỉ cần một mâm cơm một bình trà là đủ!

Các vị mừng rỡ bảo:
- Điều này dễ quá. Nhưng chẳng hay ngài bắt yêu quái thế nào?

Hành giả đáp:
- Nó đến đây thì bắt nó!

Các vị nói:
- Nó to lắm! Trên chạm trời, dưới chạm đất, tới thì gió nổi, đi thì mây mù. Làm sao ngài lại gần nó được?

Hành giả cười:
- Nếu yêu quái hô mây gọi gió thì chỉ vào hàng con cháu của ta thôi. Nếu yêu quái thân to mình lớn ắt sẽ có cách đánh nó!

Đang nói thì nghe gió vù vù, tám chín vị trưởng lão hoảng hốt run lập cập nói:

- Hòa thượng này thiêng thế! Nói yêu quái là yêu quái tới liền!

Ông già Lý mở cửa nhỏ, gọi họ hàng cùng Đường Tăng vào trốn.
- Vào đi, vào đi! Yêu quái tới đấy!

Bát Giới sợ quá cũng chạy vào. Sa Tăng cũng theo đuôi.

Hành Giả giang hay tay kéo lại:
- Các ngươi chả hiểu đạo lý già cả. Người xuất gia mà thế à? Đứng lại, đừng chạy nữa! Hãy theo ta đi xem là yêu quái gì!

Bát Giới nói:
- Sư huynh ơi, họ có kinh nghiệm rồi. Gió vù vù là yêu quái tới. Họ đều trốn cả, chúng ta chả phải họ hàng gì, cũng chả quen biết, chẳng phải cố nhân, giúp họ làm gì?

Hành Giả sức vốn mạnh, không nói nữa, kéo cả hai đi. Cuồng phong ngày một mạnh. Gió này:

Cây rạp đổ rừng, hùm sói sợ
Nghiêng sông khuấy biển quỷ thần sầu.
Lật nhào Hoa, Nhạc ba non đá,
Nhấc bổng càn khôn bốn bộ châu.
Thôn xóm nhà dân đều đóng cửa,
Đầu làng trai gái thảy vùi đầu.
Mây đen cuồn cuộn che Ngân hán,
Đèn lửa mờ đi khắp chốn rầu.

Bát Giới hoảng hốt run cầm cập, phủ phục xuống đất, dũi mỏ xuống đào hố mà trốn. Sa Tăng thì ôm kín đầu mặt, mắt nhắm tịt.

Hành Giả nghe gió nhận ra yêu quái, thoắt cái gió vụt qua đầu, chỉ thấy lưng trời thấp thoáng hai ngọn đèn, bèn cúi đầu gọi:
- Các huynh đệ! Gió qua rồi, ngẩng nhìn đi!

Chú ngốc nghểnh mõm, phủi đất ngẩng mặt, nhìn trời một cái thấy hai ngọn đèn bỗng cười ngất bảo:
- Đùa khéo nhỉ! Đùa khéo nhỉ! Hóa ra là có yêu tinh thật. Phải đánh bạn với nó mới được.

Sa Tăng nói:
- Đêm tối thế này, lại chưa gặp mặt bao giờ, làm sao biết được tốt xấu thế nào?

Bát Giới nói:
- Người xưa có câu: Đi đêm đốt đuốc, không đuốc không đi. Nhìn kìa, nó đốt đèn lồng dẫn đường thế kia, nhất định là tốt rồi.

Sa Tăng nói:
- Sư huynh nhìn sai rồi. Kia có phải đôi đèn lồng đâu, mà là hai mắt của yêu tinh đấy!

Chú ngốc kinh hãi kêu la:
- Ôi cha mẹ ơi! Mới có mắt mà đã to như thế, không biết mồm còn rộng bao nhiêu nữa!

Hành Giả nói:
- Hiền đệ đừng sợ! Hai người hãy bảo vệ sư phụ, để Lão Tôn đi chạm mặt với nó một cái xem là giống yêu gì!

Bát Giới nói:
- Sư huynh à, không cần khai ra chúng đệ đâu nhé!

Hành Giả vút một cái, nhảy phắt lên không. Cầm thiết bổng, cao giọng quát lớn:
- Chờ đó! Chờ đó! Có ta ở đây!

Yêu quái thấy vậy, vươn mình vung một cây thương dài múa loạn. Hành Giả gạt ra hỏi:
- Ngươi là yêu quái ở đâu? Tinh linh chốn nào?

Yêu quái chẳng đáp, chỉ múa thương loạn lên. Hành giả hỏi lại, nó vẫn không đáp. Hành Giả cười khinh:
- Đúng là tai điếc miệng câm! Đừng có chạy, xem gậy của ta đây!

Yêu quái chẳng sợ, vung thương che đỡ. Giữa không trung bên qua bên lại, một lên một xuống, đấu qua canh ba vẫn chưa phân thắng bại. Bát Giới, Sa Tăng náu mình trong giếng trời nhà họ Lý nhìn thấy hết thảy. Thì ra yêu quái chỉ múa thương che chắn, chẳng hề có ý đánh giết. Gậy của Hành Giả không rời đầu của yêu quái. Bát Giới cười bảo:
- Sa Tăng này, đệ ở đây bảo hộ Sư Phụ. Để Lão Trư đi đánh giúp, không thể để con khỉ một mình lập công.

Chú ngốc bèn nhảy lên mây đuổi đánh. Yêu quái vẫn dùng một thương chống đỡ. Hai cây thương như rồng bay lóe diện. Bát Giới khen:
- Yêu quái này thương pháp hay quá!

Hành Giả bảo:
- Chú ngốc đừng có nói nhảm! Có gì đáng gọi là hay?

Bát Giới cãi:
- Sư huynh xem, nó múa đầu thương kháng cự, không hề thấy cán thương, chẳng biết cất chỗ nào.

Hành Giả nói:
- Có thể là thế Nhuyễn bỉnh thương, nhưng con quái này không biết nói, chắc là chưa đạt đạo người, âm khí còn nặng. Chỉ sợ khi trời sáng, dương khí thịnh, nó phải đi rồi. Nhưng nhất định phải đuổi theo, không cho nó thoát.

Bát Giới bảo:
- Đúng thế! Đúng thế!

Lại đấu hồi lâu, bất giác hừng đông lóe sáng. Yêu Quái không dám tham chiến, quay đầu bỏ chạy. Hành Giả cùng Bát Giới nhất tề đuổi theo, chợt thấy làn khí ô uế kinh người, đúng là ở ngõ phân núi Thất Tuyệt. Bát Giới nói:
- Đây là cái nhà xí đấy! Trời ơi thối quá!

Hành Giả bịt mũi một mực kêu:
- Mau mau đuổi theo yêu quái!

Quái vật luồn qua núi, hiện nguyên hình, thì ra là một con rắn lớn vảy đỏ. Những là:

Mắt tóe sao mai, mũi phun mù sớm,
San sát răng như kiếm nhọn,
Cùm cụp móng tựa móc vàng.
Đầu nổi một khối u thịt,
Giống y ngàn viên mã não xâu hàng.
Thân đầy đám vẩy đỏ,
Chẳng khác muôn lớp son xếp chồng
Quấn quanh như một tấm chăn gấm,
Bay lên tựa dải cầu vồng.
Nơi nằm nghỉ khí tanh ngột ngạt,
Khi chuyển xoay mây đỏ bao lồng.
To chẳng to, đứng hai bên không thấy
Dài chẳng dài, như một quả núi suốt bắc nam.

Bát Giới nói:
- Hóa ra là con rắn dài! Nếu mà nó ăn thịt một bữa thì phải mất năm trăm người còn chưa no đấy!

Hành Giả nói:
- Cái cán thương mềm chính là cái râu nó đấy! Bọn ta đuổi từ sau, đánh thốc lên nhé.

Bát Giới cuốn mình đuổi theo, vung đinh ba bổ xuống. Quái vật chui tọt đầu vào hang, còn cái đuôi dài bảy tám thước vẫn ở bên ngoài. Bát Giới bổ xuống, ghim chặt lại quát:
- Giỏi nhỉ! Giỏi nhỉ!

Rồi lấy hết sức kéo ra ngoài, không ngờ chỉ kéo được có một ly. Hành Giả cười:
- Ngốc ạ, bỏ nó ra đi, đã có cách rồi, không cần làm thế!

Bát Giới buông tay, con quái rút tuột vào hang. Bát Giới oán giận:
- Nếu không buông tay thì một nửa nó đã là của ta rồi! Nó co vào như thế, giờ làm sao cho nó ra được?

Hành Giả nói:
- Con này thân thể kềnh càng, lỗ hang nhỏ hẹp, quay mình chắc không nổi. Nhất định phải có cửa sau. Đệ hãy mau vòng qua cửa sau chặn, đợi ta đánh nó ở cửa trước.

Chú ngốc nhanh như cắt chạy vòng quanh núi. Quả là có một lỗ hang, chú ngốc bèn chặn chân vào đó. Còn chưa đứng vững, bất ngờ Hành Giả từ cửa trước chọc gậy một cái, quái vật đau bò thẳng ra cửa sau. Bát Giới chưa kịp phòng vệ bị cái đuôi của nó quét qua một cái không đứng nổi, ngã lăn ra đất. Hành Giả nhìn hang trống không, thò gậy vào rồi xuyên mình qua đuổi theo.

Bát Giới nghe tiếng gọi tự thấy xấu hổ, nhịn đau đứng dậy, vung đinh ba bổ loạn. Hành Già thấy vậy cười bảo:
- Yêu quái đi rồi, đệ còn đánh gì nữa?

Bát Giới nói:
- Lão Trư ở đây đánh cỏ đuổi rắn đấy chứ!

Hành Giả bảo:
- Chú ngốc xảo biện. Đuổi mau đi!

Hai người đuổi qua khe suối, thấy yêu quái cuốn thành đống, dựng đầu há to mồm muốn nuốt Bát Giới. Bát Giới hoảng quá, lui về phía sau. Hành Giả lại xông lên bị nó nuốt gọn. Bát Giới đấm ngực co chân kêu gào:
- Sư huynh ơi! Thôi đời sư huynh rồi!

Hành Giả trong bụng yêu tinh, chống thiết bổng lên nói:
- Bát Giới chớ sầu bi, ta sẽ bảo nó bắc cầu cho đệ xem!

Yêu quái cong lưng như một cây cầu vồng. Bát Giới bảo:
- Tuy là giống cầu thật nhưng ai mà dám đi!

Hành Giả lại nói:
- Ta bảo nó làm thuyền cho mà xem!

Rồi trong bụng yêu quái, dùng gậy chọc vào. Da bụng nó phồng lên, đầu ngỏng lên, chẳng khác gì một chiếc thuyền hàng.

Bát Giới bảo:
- Tuy là giống thuyền, nhưng chẳng có cột buồm, lái gió sao được?

Hành Giả nói:
- Đệ tránh ra, để ta bảo nó làm gió cho mà xem!

Rồi dùng gậy giã lên xương sống nó, ước chừng dài ra năm bảy thước, giống y cột buồm. Yêu quái nhịn đau liều mạng chồm lên một phát, nhanh hơn cả gió, luồn lại đường cũ, xuống núi hơn hai mươi dặm thì ngã vật ra đất. Cứng đơ hổn hển mà chết.

Bát Giới đuổi theo, vung đinh ba định bổ xuống. Hành Giả kêu lên ngăn lại:
- Nó chết rồi còn đập nó làm gì!

Bát Giới nói:
- Sư huynh không biết Lão Trư một đời thích đánh rắn chết à?

Nói rồi bèn thu binh khí, nắm đuôi rắn kéo lê về. Ở trang Đà La, ông lão Lý cùng mọi người thưa với Đường Tăng:
- Hai đồ đệ của ngài đã một đêm rồi không về, chắc là mất mạng rồi.

Tam Tạng nói:
- Không thể như vậy. Chúng ta đi xem xem.

Chốc lát đã thấy cả hai hổn hển lôi về một con mãng xà lớn. Già trẻ trai gái đầy thôn đều quỳ lạy:
- Ôi cha mẹ ơi! Đúng là con yêu tinh này hại người ở đây. May nhờ các vị ra tay, cho chúng tôi được yên thân mà sống.

Nhà nhà đều cảm kích ríu rít mời mọc. Thầy trò được lưu giữ qua năm bảy ngày nữa, từ chối hết lời mới có thể lên đường. Các nhà thấy ân nhân không đòi tiền bạc thì đều đưa lương khô, trái quả rồi trinh trọng đưa tiễn.

Chẳng mấy chốc đã tới ngõ phân thối núi Thất Tuyệt. Tam Tạng nghe chuyện xú uế, lại thấy đường sá nghẽn tắc, nói:
- Ngộ Không, thế này làm sao mà qua được?

Hành Giả bịt mũi bảo:
- Chỗ này lại khó đây!

Tam Tạng thấy Hành Giả nói khó thì hai mắt ứa lệ. Ông Lý và mọi người tiến lên thưa rằng:
- Lão gia đừng vội sốt ruột. Chúng tôi tiễn tới đây là có chủ định cả rồi. Nhờ đồ đệ giỏi của lão gia hàng yêu giệt quái, trừ tai họa cho dân. Chúng tôi ai nấy thành tâm sẽ mở một lối đi riêng tử tế để tiễn các vị.

Hành Giả cười:
- Ông lão lời nói cũng khó nghe thế. Lúc đầu ông bảo núi này tám trăm dặm, các người lại không có binh thần như Đại Vũ làm sao có thể bạt núi mở đường? Nếu để sư phụ qua núi, cần tới các người trợ sức cũng làm chẳng được đâu.

Tam Tạng xuống ngựa nói:
- Ngộ Không, sao lại lên mặt thế!

Hành Giả cười:
- Trước mắt, muốn qua núi cũng khó. Nếu nói là muốn mở đường càng khó hơn. Vẫn phải đi qua ngõ cũ thôi. Chỉ sợ không có người nấu cơm.

Ông già Lý thưa:
- Trưởng lão đừng ngại, bốn thầy trò các vị lưu lại bao lâu chúng tôi cũng xin cúng dường đầy đủ cả, nói gì không có người nấu cơm!

Hành Giả đáp:
- Đã vậy các vị hãy nấu cho hai thạch gạo làm cơm nắm, làm cả một ít thức bánh khô nữa. Để hòa thượng mõm dài của chúng tôi ăn no, biến thành chú lợn to, mở mang đường lối! Sư phụ sẽ lên ngựa, chúng tôi mặc sức lên đường.

Bát Giới nghe vậy bảo:
- Sư huynh các người ai cũng muốn sạch sẽ, cớ sao độc chỉ sai Lão Trư làm việc ô uế?

Tam Tạng nói:
- Ngộ Năng, đúng là con có tài mở mang đường lối, đưa ta qua núi thì công đầu là của con đó.

Bát Giới đáp:
- Sư Phụ ở trên soi xét, các vị thí chủ chứng giám, chớ có đùa. Lão Trư ta vốn có ba mươi sáu môn biến hóa. Nếu bảo là biến ra nhỏ xinh mỹ miều thì khó, chứ bảo biến ra cây, núi, đá tảng, gò đất, voi dữ, lợn rừng, trâu hay lạc đà thì chấp hết. Nhưng biến càng to, dạ dày càng rộng. Cần phải ăn no mới làm việc được!

Mọi người đáp:
- Có gì đâu, có gì đâu! Chúng tôi mang theo lương khô, hoa quả, bánh trái đủ cả đây. Định là đưa tiễn qua núi sẽ dâng cúng. Nay liền bày hết ra để ngài dùng cả. Đợi biến hóa rồi, khi ngài ra tay, chúng tôi lại về lấy thêm để đưa tiễn.

Bát Giới hoan hỷ, cởi áo ngoài, vứt đinh ba, bảo với mọi người:
- Xin chớ nói chơi, hãy xem Lão Trư làm vụ thối tha này!

Chú ngốc bắt quyết, lắc mình một cái, quả nhiên trở thành một chú lợn to lớn. Thực là:

Mõm dài lông ngắn mỡ màng nhiều,
Từ nhỏ ăn mầm thuốc núi đèo,
Mặt đen, mắt vành như nhật nguyệt,
Đầu tròn tai lớn tựa tàu tiêu.
Tu thành xương cứng ngang trời thọ,
Luyện đạt da dầy sánh thép keo.
Sùng sục mũi phì hơp kịt kịt,
Khò khò trong cổ tiếng vang kêu.
Bốn chân móng trắng cao ngàn thước,
Lông cứng thân dài trăm trượng kiêu
Từng thấy trên đời heo mỡ béo
Đến nay mới thấy vượn "sơn tiêu"
Đường Tăng cả bọn đều khen ngợi,
Khen mãi Thiên Bồng pháp lực cao.

Tôn Hành Giả lập tức bảo những người đưa tiễn mau đem các thức ăn xếp ra một đống cho Bát Giới dùng. Chú ngốc chả nề sống chín, một hơi nhồi nhét sạch. Hành Giả bảo Sa Tăng cởi giày, gánh theo hành lý mời Sư Phụ lên ngựa ngồi vững, dặn dò mọi người:
- Nếu các vị có lòng, hãy sớm tiếp thức ăn cho sư đệ ta!

Đám kia bảy tám trăm người đưa tiễn, một nửa phi ngựa như bay về thôn trang làm cơm. Từ thôn trang tới núi hơn ba mươi dặm, quay lại làm cơm là thêm ba mươi dặm nữa. Quay đi quay lại khá xa, thầy trò đã đi được khá xa rồi. Mọi người không chịu bỏ cuộc, thúc ngựa đuổi theo, suốt đêm tới sáng mới kịp. Họ gọi:
- Các vị đi lấy kinh ơi, chậm lại chậm lại với! Chúng tôi mang cơm tới đây!

Trưởng lão nghe vậy cảm tạ không ngớt rằng:
- Quả là người thiện tín.

Rồi gọi Bát Giới lại ăn thêm cơm quả cho phấn chấn. Chú ngốc dũi hai ngày, đang cơn đói mèm. Bao nhiêu người chỉ ăn hết bảy tám thạch gạo, chú ngốc bất luận cơm gạo, bánh trái gom cả lại nhồi nhét vào bụng. Ăn một bữa no, lại xông lên mở đường!

Tam Tạng cùng Hành Giả, Sa Tăng đáp tạ thôn dân, chia tay đi tiếp. Đúng là:

Đà La dân xóm về nhà hết,
Bát Giới mở núi qua lối dài.
Tam Tạng tâm thành thần lực giúp
Ngộ Không pháp hiện quỷ bi ai.
Vùng Hồng ngàn thuở ngày nay sạch
Thất Tuyệt nơi xưa lối rộng dài
Sáu Dục nỗi trần đều dứt tuyệt
Bình an thanh thỏa tới Liên Đài.

Chuyến này đi không biết còn xa bao nhiêu, còn gặp yêu quái gì, hãy chờ hồi sau phân giải.





Thursday, May 11, 2023

C46: Sơ Tổ Mật Thừa

Chương 46: Sơ Tổ Mật Thừa

Ai bảo "tu" là không được tận hưởng Dục Lạc. Cực Lạc hay Cực Khoái gì gì cũng được hết, miễn sao thực tâm cầu Đạo, thực sự yêu Đạo trọn Đời.

Tuy đã cam kết trong bản hợp đồng rằng tuyệt đối đến chết cũng không tiết lộ bí mật của nhau. Nhưng vì cơ sự cớ tình nào đó mà cây kim trong bọc cũng có ngày tòi ra. Người ở vùng ấy biết rằng Đạo Sư Liên Hoa Sanh có không chỉ một phối ngẫu. Phối ngẫu là vợ nhưng chẳng phải vợ, xịn xò hơn cả vợ.

Thiên Đế từng tuyên thuyết "Ái Dục là nguồn gốc khổ đau, vô minh. Chấm dứt, diệt trừ Ái Dục là bước đầu tiên để thoát ly Sinh Tử Luân Hồi."

Ấy nhưng trước khi qua đời, ngài cũng khẳng định đồng thời phủ định: "Ta chưa từng nói một lời."

Thiên Tử nói có là có, không là không. Nói chưa từng là chắc chắn chưa từng! Tiên chúng hồ nghi rằng nghìn năm sau lần hạ phàm đình đám ấy, Thiên Đế một lần nữa đích thân khai tông lập pháp, trở thành nhà sáng lập Mật Giáo trên đất Tạng. Lúc ấy nơi nơi đang có phong trào nghiêm túc thoát ly Sinh Tử Luân Hồi, ly khai Ái Dục. Vậy mà hắn ngông nghênh đi ngược với chỉ thị chính mình đã ban hành.

Không thể trách, có trách cũng không phải là nguồn Đạo Tâm Đức Hạnh ấy, mà chỉ là tính mê gái của Thiên Đế đã trỗi dậy sau thời gian ngủ ngầm. Nam phận mà. Không mê gái thì còn gì là đàn ông đích thực nữa. Nhất là ngay khi bắt gặp ánh mắt "sùng bái", mộ Đạo tuyệt đối của kẻ nọ. Nếu chỉ là một người nữ bình thường thì cũng thôi đi không nên chuyện. Nhưng định mệnh trớ trêu ấy lại chính là tái sinh duyên A Đường - cục nợ to đùng ngã ngửa của hắn.

Chỉ sau vài lần gặp, hắn đã nhận ra cục nợ này nhất định phải ở bên hắn mới xong. Vậy là hắn đã khăng khăng từ chối mọi cúng dàng từ vị vua sùng đạo nước ấy, rất kiêu kì mà nói chỉ cần một "Mạn Đà La" đặc biệt là người nữ thích hợp cho việc hóa độ quần sinh. Người nữ đó chính là vợ mới của vua. Nàng thường hay đi theo vua đến gặp hắn nghe Phật pháp. Vậy đó!

Nhà vua cũng quá đỗi mộ đạo và thảo lảo. Vua có đầy vợ, cho đi một vợ cũng không tiếc gì. Người nữ xưa kia như "Vật" (con vật hay đồ vật) thuộc sở hữu của chủ. Con vật hay đồ vật thì mua bán được, dùng để trao đổi được. Vốn được coi là "con hàng" - mặt hàng giá trị chất lượng cao như thế. Nàng cũng tự hào về cuộc trao đổi có giá trị lớn lao quý báu này.

Từ vợ vua, lập tức trở thành "phối ngẫu" của Đạo Sư như thế, cũng thỏa chí cầu đạo một đời. Trong bóng tối của những hang động, không biết chuyện gì đã xảy ra, những Đạo pháp gì đã được truyền thụ. Vì là Bí Mật - Tâm truyền Tâm - Một thầy một trò mà thôi. Cho nên những người khác đều không được biết! Do đó còn được gọi là Mật Thừa.

- - -

Đến một ngày có lời đồn đại, bàn tán xì xào khó chịu về hành động của Vua. Rằng chẳng những cho đi vợ mình, vua còn định dâng cho kẻ xa lạ đó cả vương quốc. Đạo Sư gì cái thứ như hắn. Ai đời từng thấy nhà sư lấy vợ? Mà cũng chẳng lấy đường hoàng chính chính, gì mà phối ngẫu tâm linh, thầy với chả trò, nghe ngứa cả tai. Giao phối thì nói thẳng ra. Đạo Phật đích thực gì mà ăn chơi hoan lạc như vậy?! Nam nữ ở trong hang ổ bí mật hành tà dâm như thế mà chấp nhận được hay sao? Vua đích thân tiếp tay, bao che cho sự xằng bậy ấy hay sao?

Vua đau đầu khốn khổ với bá quan thiên hạ. Ai nấy chê cười đã đành, sức ép và đàm tiếu của văn võ bá quan còn đe dọa đến tình hình đất nước. Thù trong giặc ngoài thì ai cũng biết, những lời của bọn họ cũng làm vua lung lay vô cùng. Nhỡ đâu kẻ đó thực sự là mối họa. Hắn mặt dày thì vua đã biết, từ khi hắn đòi vợ của ngài. Còn tâm đen thì ... biết đâu, đến lúc biết thì đã quá muộn.

Thế là một hôm, vua gọi hắn tới nói chuyện riêng, trình bày rõ ràng nguyện vọng của tất cả, ánh mắt vua đầy nghi ngờ và thận trọng dò xét. Thái độ vẫn tôn trọng nhưng ý tứ thì đã rõ ràng. Vua muốn tiễn khách. Thực ra quần thần đã muốn đuổi thẳng, tống cổ hắn từ những ngày đầu hắn tới đây. Không thiếu lần đe dọa giết hại. Nếu không nhờ vua bảo trợ thì hắn đã toi rồi.

Vua hỏi: "Đạo Sư thấy sao? Ngài có muốn trở về nước cùng nàng ấy? Coi như là kết nối tình giao hữu lân bang lâu dài. Ta cũng có vài lời muốn nhờ ngài chuyển tới đức vua nước bạn."

Đạo Sư không nói hồi lâu, chầm chậm đáp bằng tiếng thổ ngữ nước Tạng: "Bệ hạ nghi ngờ ta cũng đúng thôi. Nhưng bần đạo đã nguyện coi nơi này là quê hương rồi. Mục đích chưa đạt được, ta nhất định không đi khỏi dù chỉ một ngày. Chuyện liên quan tới nàng ấy là chuyện khác. Bệ hạ đừng lo, ta sẽ có cách giải quyết."

Thấy ánh mắt kiên định không che giấu gì của hắn. Nhà vua cũng nguôi nghi ngờ và tin rằng hắn không hề có dã tâm dục vọng. Không biết hắn định làm gì nàng, cùng lắm là trả lại nàng cho vua là được. Chuyện ấy cũng không cần vội. Nàng đã ở bên hắn mấy năm rồi, cũng cần thời gian "thích nghi" lại.  

Không ngờ, cách giải quyết của hắn khác với dự tính của vua. Khiến bao sự đồn đại đàm tiếu càng dữ dội. Người ta nói rằng: "Liên Hoa Sanh đã giết hoặc giấu nàng ở đâu đó. Hắn có phép thuật, là tay đại phù thủy đê tiện bỉ ổi. Ban ngày hắn ra vẻ đạo mạo thuyết giảng đạo đức, còn ban đêm hắn lộ nguyên hình là con quỷ trụy lạc. Vợ vua đã bị hắn bắt cóc, đến cả vua cũng bị hắn bỏ bùa."


- - -


Không ai biết hắn đã cùng quẫn đến tan nát cõi lòng. Một đêm hắn mơ một giấc lạ:

Hắn trang nghiêm trước bệ Phật mà rạch phanh ngực mình, móc ra trái tim ấy. Rồi cầu khẩn nài xin Phật hãy nhận lấy nó, hãy yêu lấy nó. Rồi thoát nhiên, Phật bỗng hóa thành Nàng. Hắn muốn vứt quả tim ấy đi. Nhưng cứ lưu luyến mãi. Sau cùng vẫn quyết định dâng cúng nó. Hắn khóc đến thảm thiết, tỉnh lại vẫn chưa ra khỏi ác mộng. Nàng đem quả tim của hắn đi thật xa ... trở về quê hương hắn. Còn hắn bơ vơ lạc lõng nơi đất lạ.

Từ lúc trở về sau lần gặp vua, hắn không nhìn mặt nàng mà lạnh lùng yêu cầu nàng ở riêng một chỗ "tự tu" tự chứng. Đã mấy tuần trôi qua, một hôm hắn bỗng gọi nàng lại. Nghiêm trang và chân thành, tuyệt vọng mà thiết tha trong ánh mắt, trìu mến ôm hôn rồi dịu dàng nói:

"Con/em/baby thân yêu, đây là tất cả số vàng mà ta đã tích cóp. Hãy nhận lấy mà đem đi trên đường... Người nữ đã trưởng thành, người nữ đang thời kỳ đẹp nhất, người nữ được tự do! Hãy đi đi và tìm một người bạn đồng hành cùng con thực hiện những Đại Lạc. Đừng quên những gì mà ta đã chỉ dạy. Hãy trở về quê hương ta mà truyền trao những điều đó."

Nói những lời ấy rồi mắt hắn không kìm được lại ngấn lệ. Trái tim như có những đôi bàn tay cào cấu. Hắn nhắm mắt lại để không nhìn thấy nàng nữa, cố gắng bình ổn hơi thở. Một lần này phải quyết tâm đoạn tuyệt. Một lần là mãi mãi. Vì Phật pháp, vì Chúng sinh, vì tất cả. Nàng nhất định phải rời xa hắn. Trong hắn chỉ có Phật. Ngoài Phật ra cũng chẳng có gì khác. Hắn niệm Phật, nhẩm đi nhẩm lại chữ nào cũng là Không - là Phật. Sự thanh tĩnh tâm hồn đến độ không còn một điều gì khác xuất hiện trong tâm trí.

Không biết bao lâu sau, nàng nhìn số vàng bên cạnh rồi lại nhìn hắn, ngạc nhiên mà đau đớn. Cơn đau ập tới, hơn bất cứ nỗi đau thể xác nào. Hắn vẫn nhắm mắt không nghe không thấy bất cứ một điều gì. Hắn chỉ nghe hai chữ "Thật sao?" rồi từ đó không nghe được một tiếng nào nữa. Nàng cũng không nói, chỉ đăm đăm nhìn hắn không chớp mắt. Hắn không đáp gì chỉ nhắm mắt bình thản. May thay hắn nhắm mắt nên không thấy được châu lệ tuôn như mưa nào. Kìm nén không nổi tiếng khóc, cuối cùng nàng òa lên nức nở khiến hắn như chết đi sống lại không biết bao nhiêu lần, mà như có mãnh lực nào khiến hắn không thể nhúc nhích, mắt vẫn nhắm chặt, tai ù đi như điếc. Cứng rắn như Kim Cương - Kim Cương Thừa chính là bắt nguồn từ đó. Tâm Tình hắn một khi đã định thì không gì lay chuyển.

Hết một ngày như vậy, khi chiều tà chập tối. Hắn vẫn nhắm chặt mắt như chìm vào thiền định. Còn nàng như cũng đã như mù, cả hai mắt đỏ sưng vù. Không nhìn thấy, chỉ nghe thấy giọng nói như lạc đi khàn khàn. Trang nghiêm mà cung kính, xác quyết ngắn gọn: "Đệ Tử sẽ sớm lên đường!"

Nàng nói rồi cầm lấy số vàng và rời khỏi hang. Trong bóng tối hắn nghe tiếng tim mình đập ngày một lớn, muốn gọi nàng trở lại để dùng dao rạch phăng nó ra, van xin nàng hãy lấy nó mà mang đi cùng nữa. Song một lời hắn cũng không thể thốt lên được. Cứ thế hắn chìm ngập cả một đêm dài.

Ngày hôm sau mặt trời đã lên cao, hắn liền mong nhìn thấy nàng như chưa bao giờ mong đến vậy. Nhưng cả ngày cũng không hề thấy. Hắn không dám đi tìm nàng, một nửa bước cũng không dám rời khỏi hang động. Hắn tự giam mình như thế cho đến ngày thứ tám, không thể kìm chế được nữa. Hắn sợ rằng nếu còn tiếp tục như vậy nữa hắn sẽ thực sự tự moi trái tim ra mất. Hắn chạy đi tìm nàng. Chỉ thấy nàng đã vui vẻ sắp xếp mọi thứ, còn đang viết điều gì đó khi hắn đến. Nàng mỉm cười rạng rỡ nhìn hắn khiến hắn quên đi tất cả. Trong phút chốc chỉ muốn lên đường cùng nàng.

- - -

Hắn tiễn nàng đi như Thầy tiễn Trò, thực lòng hắn chúc phúc cho nàng. Ngàn vạn lần chúc phúc. Trăm ngàn lần cầu nguyện nàng bình an vô sự. Hắn không dám nghĩ nhiều hơn thế nữa bởi e rằng những cơn ghen lên sẽ giết chết hắn từng ngày. Liên Hoa Sanh lao vào những việc bận rộn cùng vua, những việc Phật sự trọng đại. Tự tay hắn điều ngự kiểm soát mọi sự nhỏ nhoi bất kì. Tự nhủ "điều ngự trượng phu" chính là như vậy. Đến nỗi ngay cả những giấc mơ, hắn cũng điều khiển và chế ngự được. Từ khi nàng rời khỏi, không một lần nào hắn mơ thấy nàng nữa. Trái lại, chỉ mơ thấy một kẻ đầu trọc lốc, bình bát cơm thiên hạ, mây trắng hỏi đường xa.

Rất nhiều kẻ trọc lốc vây quanh hắn mỉm cười...

Liên Hoa Sanh không ngờ rằng đã nhanh như thế nàng trở lại bên hắn. Còn mang theo một nam tử trẻ tuổi rạng ngời với đôi mắt sáng, rất có khí chất. Hắn đành phải nhận thêm đệ tử và cắn răng chịu đựng mọi thứ khác sau này. Lịch Sử Mật Tông cũng biết đến một người nữ bằng xương bằng thịt, là Yeshe Tsogyal (
sinh năm 757/777 – mất năm 817), "phối ngẫu tâm linh", đệ tử thượng thủ - chân truyền mật pháp của Liên Hoa Sanh chứ danh thiên hạ.

https://en.wikipedia.org/wiki/Yeshe_Tsogyal


Hơn 1000 năm sau đó, Thiên Đế lại làm giáo chủ, khai môn lập phái ở làng quê ngài, Hòa Hảo. Rồi tức cảnh sinh tình mới mần thơ rằng:

"Nếu khách má hồng muốn được yêu
Thì trong tâm chí hãy xoay chiều
Hướng về phụng sự cho nhân loại
Sẽ gặp tình ta trong khối yêu..."

Cả bài thơ là:

Tình Yêu

Ta có tình yêu rất đượm nồng

Yêu đời yêu lẫn cả non sông

Tình yêu chan chứa trên hoàn vũ

Không thể yêu riêng khách má hồng


Nếu khách má hồng muốn được yêu

Thì trong tâm chí hãy xoay chiều

Hướng về phụng sự cho nhơn loại

Sẽ gặp tình ta trong khối yêu


Ta đã đa mang một khối tình

Dường như thệ hải với sơn minh

Tình yêu mà chẳng riêng ai cả

Yêu khắp muôn loài lẫn chúng sinh

Miền Đông, năm 1946


- - -

Chuyện này là bí sự tuyệt mật. Chỉ Trời biết Đất biết và những ai yêu Đạo cực kì mới hiểu hay biết.

Tình Yêu vốn là bí ẩn hàm hồ khó tỏ. Hoang đường bịa đặt nào là thực tại duy nhất một đời?!
 
 

 

 




 

Tuesday, May 9, 2023

C45: Những Trang Giấy Trắng

Chương 45: Những Trang Giấy Trắng

Mỗi một lần sinh tử là một chương mới bắt đầu. Giấy trắng tha hồ có để viết vẽ tùy ý, ấy là món quà từ Chân Không Vĩnh Diệu.

A Đường ở hạ giới trong những ngày nhàn hạ vô cùng, cơm no ấm cật dậm dật mọi nơi, chẳng có bất kỳ áp lực nào tự tạo hay bị đặt, ngoài việc viết lách linh tinh cho thỏa chí tung hoành ngang dọc trên trang giấy trắng. 

 

Thủa nhà nghèo xưa kia, mỗi khi nhìn vào bất kì một trang giấy trắng nào đó, hắn đều rất áp lực. Đầy sợ hãi, bụng bảo dạ phải cẩn thận lắm. Bởi viết hỏng thì lãng phí giấy (làm từ da thú, thẻ tre, giấy cói, ...) Trang giấy mới đẹp như thế, mà viết bậy viết bạ rồi thì chẳng bao giờ còn là một trang giấy trắng nữa. Viết một chữ cũng phải xét xem có nên hay không, điều viết ấy có quan trọng gì, xứng đáng hay không xứng đáng để viết. Từng ký tự, dấu chấm dấu phẩy, cần phải xuống dòng ngắt đoạn ở đâu?

Rồi nào là, viết sao cho dễ hiểu, đúng ngữ pháp quy chuẩn. Đầy đủ rõ ý mà vẫn cô đọng, ngắn gọn. Để đỡ tốn giấy là thứ nhất, thứ hai là khi đọc không nhàm chán vì sự lặp lại. Chưa hết, một nét bút đặt xuống đòi hỏi mọi sự chuyên tâm chú ý sao cho hoàn hảo nhất. Không thêm không bớt được nếu viết xong rồi. Khi đọc lại mà muốn thêm bớt gì thì chỉ có cách viết lại từ đầu một bản khác. Thành ra mọi sự viết "nháp" đều phải thực hiện trong tâm trí mà thôi. Nghĩ rồi mới viết. Nếu viết sai một chữ thì phải lo tẩy xóa, gạch bỏ ốm hơi.

Ấy là khi chưa có công nghệ làm giấy. Một tờ giấy cũng là quý giá vô cùng, chứ không phải dùng để viết vẽ vài cái rồi vo viên nếu không ưng. Hoặc như con nít vẽ bậy vẽ bạ lên trang giấy trắng tinh mà các bậc phụ huynh cũng có điều kiện nên tha hồ cho con thỏa thích. Thời đó, Giấy là một thứ xa xỉ chỉ được lưu hành ở tầng lớp thượng lưu. Biết đọc hay biết viết cũng đã là cả một kỳ tích. Còn thời đại hoàng kim của trí thức, chữ nghĩa đã phổ cập. Máy tính hay điện thoại thông minh giúp gõ cả nghìn chữ như một, khỏi cần lo viết tay đẹp xấu. Vừa chuẩn mực dễ nhìn, vừa dễ chỉnh sửa, xóa hay thêm bớt cũng không hề để lại dấu vết. Sao chép cái roẹt, nhanh như chớp nhoáng. Khi sự dư thừa văn chương bút sách, giấy trắng mực đen đã lên tới đỉnh điểm thì cũng là lúc người ta chẳng biết nên làm gì với những trang giấy trắng vô hạn nữa. Âu cũng chẳng gì "thừa" trong tiến trình phát triển vô biên của Tình Yêu Vĩnh Diệu.

Bây giờ giấy trắng còn được dùng để chùi đít, lau rồi vứt. Giấy vệ sinh được tạo ra với mục đích chuyên để như thế. Những trang sách, báo in, tất tật đều có thể dùng làm mồi nhóm lửa. Còn những trang giấy điện tử, thì có thể dùng để bôi ra những điều tạp nham, bịa đặt, thượng vàng hạ cám gì cũng có.

Mỗi trang giấy trắng cũng như một đứa bé vừa chào đời. Thời đại nào cũng có chuyện những đứa bé vừa chào đời có thể bị vò nát ngay lập tức, hoặc bôi đen toàn bộ, để rồi lại dùng phông chữ màu trắng để viết lên trang giấy đen ấy. Hai màu đối lập tương phản này cũng như sự Đúng và Sai, Thiêng và Tục, Hạnh Phúc và Đau Khổ một kiếp đời, trong những tạo lập đan xen bởi những Vòng Xoay Vô Hạn. Của loài người, của những vì tinh tú, hay của một Đấng Tạo Thành Thiên Cổ.

Sự đau khổ dẫu có nhiều, cũng đâu thiếu những gì là hạnh phúc trong từng giây phút. Rồi có khi, những cơn đau tột độ cũng là hạnh phúc vô biên. Bởi có đau khổ, hạnh phúc mới hiện tồn. Như sự trắng và đen tương phản đồng thời hiển hiện trên trang giấy.

- - -

Một đứa trẻ không biết và cũng chẳng định nghĩa, giới hạn gì là Tình Yêu cho đến khi chúng được dạy - bảo rằng Tình Yêu là gì vậy. Đó là một trạng thái luân hồi. Trạng thái tình si dai dẳng bất trị này tồn tại giữa tất cả và chẳng biết vì sao cả.

Bản thân sự sống hay chết đã là Tình Yêu bất khả tận, vĩnh viễn không thể ngừng. Không thể chấm dứt sự sinh tử luân hồi để đi tới một nơi nào đó. Luân hồi không phải là đau khổ. Mà đau khổ là sự không nhận ra được điều gì là hạnh phúc chân thật. Đau khổ khi cá nhân hay cả một tập thể cứ quẩn quanh lầm đường lạc lối, bất mãn và bế tắc.

Để rồi, lại bày vẽ ra thêm cho nhau những con đường, đạo lộ mới mẻ, những tưởng rằng đường ấy sẽ hứa hẹn một hạnh phúc tốt đẹp hơn. Song vì hạnh phúc chân thật còn chưa nhận ra được nên cứ tiếp bước trên đường hướng tới những hạnh phúc giả tạm, đau thương đội lốt mà thôi. Dẫu vậy như đã kể, hạnh phúc và đau khổ như trắng và đen trên từng trang giấy, vốn được tạo ra để song hành trong Hồng Trần Cõi Học.

Đấng đã tạo ra cả Đen và Trắng trong Chân Không đã, đang, và sẽ không ngừng tuôn đổ Tình Yêu Vô Hạn một cách bình đẳng, ngang bằng, đồng đều tới tất cả. Xắc suất ngẫu nhiên ai đó bỗng yêu say đắm cả cuộc đời này là 100%. Bởi chắc chắn ngay khi nhận ra Tình Yêu là định mệnh duy nhất của mọi cuộc đời - mọi sinh linh, thì cũng là lúc chẳng có một điều gì nằm ngoài sự Mến Thương Tột Độ đó cả.

Phải ghi nhớ là sự Mến Thương Tột Độ tất cả này không có nghĩa là phải đè tất cả ra làm tình, làm dục để thỏa mãn đồng đều Tình Yêu với tất thảy. Tình Yêu không chỉ là Tình Dục.  

- - -

Tình Yêu và Tình Dục đều là hai điều khó nói, bất khả nghĩ bàn nhất trên đời. Cũng có người cố gắng truyền đạt hay thể hiện gì đó về chúng. như Đạo Sĩ Osho chẳng hạn, thì kết cục chỉ càng làm cho người ta mơ hồ mà thôi.

Đặc biệt về Tình Dục, người ta thường ngại đả đụng, cũng không nên đả đụng thật vì Dục Hỏa Hồi Cuồng. Nếu dùng biểu tượng liên tưởng thì liền nghĩ đến con rắn. Con người thường sợ hãi và ghét con rắn. Đa phần mặc định là nhìn nó trông rất kinh, rất ghê. Người nó dài loằng ngoằng, uấn éo khó lường. Nó cứ im ỉm không nói bao giờ, mà rắn độc thì nó cắn một phát là chết. Nọc độc rắn chỉ cần một nửa giọt là đủ. Rắn là động vật máu lạnh, không nuôi con hay ấp trứng. Rắn con mới nở đã biết tự sinh tồn theo bản năng.

Chuyện xưa tích cũ kể "anh chị" Adam và Eva bị con rắn dụ ăn trái cấm, ăn xong thì mới xảy ra sự chết, bị trục xuất khỏi vườn địa đàng, sinh ra cả nhân loại. Không hề ít người tin chắc nịch, coi ấy là 100% sự thật tuyệt đối! Đức Tin Tuyệt Đối về nguồn gốc loài người chỉ đơn giản, nhanh gọn nhẹ như vậy. Chuyện hay, hấp dẫn người đọc và người nghe, bao giờ cũng có yếu tố kỳ ảo. Mà sự kỳ ảo của phép thuật nào đã tạo nên Trời Đất, muôn vật, muôn loài, trong đó có loài người, mãi là điều khó tỏ.

Thực ra mọi câu chuyện đều có cốt chuyện tương đồng và lặp lại. Quen thuộc mà lạ lẫm vô cùng là Tình Yêu muôn thủa. Cho đến một ngày, người ta dừng mọi ghen tuông, ganh tị, chấp kỷ... Để nghiệm xem Tình Yêu thực sự là gì?

Là nhiều hay ít, bất biến hay rời đổi, không hay có, cho đi hay gom lại?

Tình Yêu là bất cứ gì ngoài sự Nhàm Tẻ.

Tình Yêu là trạng thái và sự kiện lặp đi lặp lại, nhưng luôn sinh động, mới lạ vô biên. Muôn sự muôn loài đều sinh lại trong Tình Yêu Mãi Mãi.

Tình Yêu là bản chất, bản sự, bản thể: Hằng Sống, Không Thể Chết...

Là Vô Thức cùng Duy Thức, Bất Đẳng Thức khó giải nhất ở đời.


- - -


Số phận của những kẻ làm thì ít mà nghĩ thì nhiều là ắt hẳn trở nên vô dụng. Cả một đời hắn tái mét nhợt nhạt đêm ngày. Một vẻ tái nhợt này là báo ứng của sự nghịch thiên từ lâu lắm. Hắn xuyên qua tầng tầng lớp lớp cõi đời, và đồng hóa mọi buồn đau bất hạnh trong nhân thế này với cuộc đời của chính hắn.

Trừ những lúc vô vàn cảm xúc cực độ hóa thành nước mắt tuôn chảy, vẻ nhợt nhạt như chết rồi kia liền được thay bằng luồng hỏa rực thiêu đốt. Khiến cả người hắn nóng bừng và khuôn mặt và làn môi trắng ởn bỗng chuyển thành hồng hào, đỏ au. Có vẻ như khi ấy Âm Dương Khí nghẹt ngòi trong trong hắn bùng nổ. Mọi sự bùng nổ thực ra là hữu ích vô cùng.

Chu Độ lúc nào cũng hồng hào như tiên ông uống rượu, là bởi hắn không ngừng làm việc - lao động tay chân, và vận động thân thể. Một nhát bổ củi là một lần rung chuyển trấn động toàn châu thân trăm mạch. Khí huyết không ngừng lưu thông như vậy là căn bản quyết định sức sống và sinh lực một đời. Trái ngược với kẻ chỉ ngồi lì một chỗ mà bao biện về việc làm đầu óc viển vông nào đó.

A Đường biết vậy nhưng ngựa quen đường cũ, giang sơn dễ đổi bản tính khó rời. Cả ngày hắn chỉ thích ngồi một chỗ trong cái hang sâu an ổn, suy nghĩ mọi chuyện trên trời dưới biển. Sểnh ra là lại vùi đầu vào việc tìm đọc đến mờ cả mắt mọi tri kiến, sách vở, thông tin này nọ. Dây mơ rễ má, cái nọ rọ cái kia, lọ chai lỉnh kỉnh. Ngôi nhà tâm của hắn bao đời bừa bộn, thượng vàng hạ cám, trên trời dưới bể gì cũng có. Tri thức hay trí thực là thứ gì đó hấp dẫn hắn hơn mọi sự. Ai bảo rằng BỘI THỰC TRI THỨC cũng là một căn bệnh ăn không tiêu, ì ạch bí bách, phì độn vô cùng.


...


Có câu nói rằng: "Biết chết liền!" Quả thực như vậy. Ngay khi biết rằng Tình Yêu là Định Mệnh Duy Nhất của tất cả. Hắn đã chết đi trong mối tình si - Hy Vọng cùng Tuyệt vọng đối với cả cuộc đời này. Để rồi bất chợt hồi đáp nào dồn dập ùa tới, ngay lúc hơi thở này ngừng lại, cũng là khi Phục Sinh Tình Ấy nơi nào. 

 

https://dembuon.vn/threads/lich-su-phat-minh-ra-giay-cua-trung-quoc.104481/

https://thangmocali.com/giay-duoc-ai-cap-phat-minh-cach-day-5000-nam-tai-sao-van-noi-do-trung-quoc-phat-minh/

https://vnexpress.net/nghe-lam-giay-coi-ai-cap-4339705.html