Wednesday, June 28, 2023

C62: Tương Đồng và Dị Biệt

 Chương 62: Tương Đồng và Dị Biệt


Đạo ở trần gian xưa nay vốn nhuốm màu kỳ dị phân biệt. 


Nói về Đạo Thiên Cổ - vốn có nguồn gốc rất xa xưa, từ thời kỳ Noah đóng thuyền tránh lũ. Đạo Thiên Cổ trải qua mấy nghìn năm dâu bể thăng trầm với bao ngôn sứ, tiên tri, bao ước vọng thiêng liêng hay trần tục của con người. Để rồi bao mong mỏi ngàn năm chút tất lên đầu một người tên là Jesus - cũng chính là Thiên Đế đầu thai miền hạ.


Nào là sự sinh ra "vô nhiễm". Đức Mẹ là "trinh nữ" chưa biết mùi đàn ông là gì, mà hoài thai Đấng Thánh Linh. Sinh ra Chúa rồi cũng vẫn còn Đồng Trinh mãi mãi...


Nào là đóng đinh hành hình mà vẫn không chết. Vẫn phục sinh, rồi bay thẳng về trời... và hứa sẽ trở lại "lần thứ hai" để phán xét tất cả trong "Ngày Công Phán".


- - -


Đại Đạo Vô Kỷ là thế, mà khi hội nhập vào Trần Gian, thì thói Ích Kỷ cứ trá danh, trá hình để trục lợi. Con người ta xưa nay vẫn cứ thích được "lãnh đạo", thích tôn, nên phong tạo, bầu bình một "vua chúa" hay ""hoàng gia", "quân chủ" nào đó. Rồi để cho "vua" hết đời này đến đời khác làm tình làm tội, muốn sao thì sao, rồi lại khóc lóc thở than kêu trời...


Cũng như thế, Giáo Hoàng - Giáo Hội - Tôn Giáo có thực quyền. “Miệng nhà quan có gang có thép”. Nói có người nghe, đe có người sợ, đến Vua cũng phải sợ Giáo Hội. Vì chăng QUYỀN LỰC lu mờ mọi sự khác trên đời? Là vì bản ngã và cái tôi, những ý niệm "độc tài" thường trực nơi lòng. Như một hạt giống ác trong mỗi con người, chỉ cần có đất (là tiền tài, địa vị, quyền lực), thì trùng trùng nhân lên mãi mãi.

 

Chuyện này vốn không định viết thành chương, nhưng vì liên quan tới Thiên Đế, Người Yêu của Vạn Thế cho nên đành phải đả đụng vài lời.

Thiên Đế bí mật hạ phàm thời đại ấy chính là William Tyndale. Ít ai ngờ bởi hành tung bí ẩn và thinh lặng một đời ấy. Thiên Đế xưa nay thích độc lai độc vãng... Du ngoạn khắp nơi, một công đôi ba việc. William Tyndale sinh ra ở Anh quốc, trong chương trước đã kể, bạn đọc có thể xem lại một lần nữa.


Ngày mà William Tyndale bị thiêu sống là ngày một người phụ nữ trẻ tên là Anne Boleyn đã chứng kiến và xúc động khôn nguôi. Người phụ nữ này mấy năm sau trở thành vợ của vua nước Anh là Henry VIII.  


Nhờ sự ảnh hưởng của Anne Boleyn mà vua ban hành lệnh mới, cho phép tự do tín ngưỡng, tự do cho "những kẻ dị giáo".


<A Đường không phải là người nữ đó, bởi vì lúc ấy hắn đã là một nam tử hán đại trượng phu đích thực, là nhân vật quan trọng nhất nhì trong lịch sử đạo: Ignatius Loyola - nhà sáng lập cả một Dòng Tên (Jesuits) hoành tráng lừng danh khắp bốn biển.>


Sở dĩ đề cập tới người nữ Anne là vì người nữ này là mắt xích quan trọng của đạo Tin Lành (Cải Cách Tiến Bộ của Cơ Đốc Giáo những năm 1500-1600).


Tin Lành khi ấy cũng như Đại Thừa, Công Giáo ví như Tiểu Thừa, còn Mật Thừa thì coi như từ thủa Adam và Eva cho dễ hiểu. 


Giáo Hội nắm quyền hành lâu đời không chấp nhận một sự Cải cách ngang ngược bố láo bố toét nào đó của những vị như Martin Luther hay chính William Tyndale. Họ nghĩ “chúng nó” là ai mà dám dạy khôn những bậc “lão thành” trưởng thượng trong nhà thờ mấy trăm năm tuổi đạo.


Khi William Tyndale bị thiêu trên giàn hỏa, một người nữ chứng kiến và nghe được lời khấn nguyện đó, hay chính cô là người có lời khấn sâu sa đó, và quyết tâm thực hiện bằng mọi giá. Từ địa vị cao tột, được vua đặc sủng, trở thành tội nhân bị chém đầu, chỉ trong vài năm thôi. Chi tiết lịch sử nếu bạn đọc có quan tâm tìm hiểu xin mời xem: 

https://vi.m.wikipedia.org/wiki/Anne_Boleyn


Mối quan hệ của Anne với vua là nguyên nhân khiến vua thất sủng và chán ghét vợ cũ, bằng mọi giá muốn ly hôn - đoạn hôn vợ cũ để kết hôn với người mới là Anne Boleyn. 


https://vi.m.wikipedia.org/wiki/Catalina_của_Aragón


Sự việc đình đám này sử ghi rất chi tiết. Và Bloody Mary là con gái của vua và bà vợ cũ này. Có thể thấy Mary đã hận Anne Boleyn và trút giận lên rất nhiều người theo Tin Lành (Cải Cách - Kháng Cách https://vi.m.wikipedia.org/wiki/Kháng_Cách)


Cả cuộc đời Anne Boleyn là một người phụ nữ tài hoa và có đời sống  nội tâm cũng như ngoại giao phong phú. Bà biết nhiều thứ tiếng và biết cầm kỳ thi hoạ. Bà tôn sùng William Tyndale cũng như nhiều vị học giả khác. Tinh thần cải cách thậm chí truyền tới cả con gái bà là nữ hoàng Elizabeth lừng danh. https://vi.m.wikipedia.org/wiki/Elizabeth_I_của_Anh


Ông vua này chỉ muốn có một đứa con trai để “nối dõi” vương quyền. Lấy 6 bà vợ tất cả, phế và chém 3 trong số đó. Chỉ duy nhất một bà vợ là sinh được con trai, sinh xong lập tức qua đời. Và con trai cũng yểu mạng. Đây là vấn đề thuộc về nghiệp. Xem chi tiết cuộc đời ông vua mê chim này ở đây: 

https://vi.m.wikipedia.org/wiki/Henry_VIII_của_Anh


Phế vợ yêu thứ nhất đường đường chính chính với vợ thứ hai (Anne). Chém đầu vợ yêu thứ hai để yêu vợ thứ ba (Jane - bà vợ hiền dịu sinh được quý tử nhưng sinh xong liền chết. 

https://vi.m.wikipedia.org/wiki/Jane_Seymour )


Tiếp tục lấy thêm ba vợ nữa cố để kiếm thêm mấy thằng ngẩu làm giống song vô ích. Cuộc đời vương giả hoàng tộc nhàm tẻ là thế, song lại là thứ duy nhất được ghi lại trong lịch sử, bởi mấy nhà sử học chuyên thích săm soi “chuyện nhà” của vua.


Dẫu sao, có cũng hơn không, là cớ để từ đó hậu thế lần tìm lại dấu vết những gì đã cai trị gian trần.


-


Nếu Anne Boleyn không quyến rũ mồi chài vua Henry, thì Tin Lành vẫn không khởi sắc, Kinh Thánh dịch bởi William Tyndale và những người đi trước cũng không được phổ cập ở Anh. 


Nếu Anne không cướp chồng của bà vợ cả. Thì Bloody Mary đã không thống hận thay cho mẹ, không hận Anne mà giết cả mấy trăm mạng vô tội khác. 


Nếu Anne biết thân biết phận, thì đã không bị bá quan ghét và ám hại, không bị vu khống tội ngoại tình để rồi bị chém.


Còn ông vua mê ngẩu, chỉ vì muốn có một thằng ngẩu cũng như mình mà cả đời bê bối vợ nọ con kia. Chứ ông nào có lòng lang dạ sói gì, nhìn mặt hiền khô, đần không hà … Đàn ông thì bản năng mà, gái nào mà chả thích. Là vua lại càng thế, vua có quyền to nhất, vua thích ai là quyền của vua, thích bao nhiêu cũng là quyền của vua. Giáo hoàng cấm, Giáo hội cản không cho ly hôn, không được tự do thì “ly khai” khỏi Giáo Hội luôn. Sợ gì! 


Chuyện Trần gian toàn những ly khai, chia rẽ, đổi thay, phản bội, xập xí xập ngầu vì những tư kỷ của vua chúa hay quan lại, của chim cu hay bòi ngẩu, cao quý hay thấp thỏi nào nào.


Ấy âu cũng là bài học trong sân chơi Vô Thường, mà ai cũng sẽ lần lượt được chơi thoả.

C61: Những vị tử đạo thời "Bloody Mary” (1555)

NHỮNG VỊ TỬ ĐẠO THỜI “BLOODY MARY” (1555)

Máu đổ không ngớt trong thời kỳ hỗn loạn ở Anh, những năm 1555. Tôn giáo, chính trị, đức tin và sự đen tối cùng thống trị.

Sau khi vua Henry VIII qua đời, người kế vị là con trai ông, Edward  VI. Vị vua nhỏ tuổi này rất cởi mở với những tư tưởng “cải cách” và khuyến khích nhiều đổi mới trong tôn giáo và chính trị nước Anh. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi khi Edward trị vì, những “kẻ dị giáo” tưởng như đã có đất sống và tương lai tươi sáng. Tiếc rằng thời gian ấy không kéo dài, Edward VI qua đời sau vài năm tại vị. Những người ủng hộ trong triều đình chia làm hai phe tốt và xấu. Edward trước khi qua đời đã lập di chiếu cho người kế vị là Lady Jane Gray, một hoàng thân cận huyết.

Phe tốt trong triều đình phò tá vị nữ hoàng mới rất xứng đáng này. Lady Gray, người thiếu nữ trẻ khiêm nhường và có đức tin trong sáng chỉ ở ngôi nữ hoàng trong 7 ngày, sau đó bị hạ bệ bởi Mary Tudor (biệt danh là Bloody Mary). Lady Gray vui vẻ nhường ngôi và ủng hộ, bởi Mary Tudor là con gái ruột đầu lòng của vị vua quá cố Henry VIII. Bà này có thế lực và đã thành lập cả một quân đội của riêng mình.

Dù đã được ngôi nữ hoàng, Bloody Mary (Mary khát máu) vẫn không thỏa mãn và xử tử Lady Gray cùng những người ủng hộ yêu mến cô, và cả những giám mục, linh mục quen biết hay được vua trẻ quá cố Edward coi trọng. Một thời kỳ đen tối đẫm máu, thử thách mọi Đức Tin chính thức bắt đầu.

Biệt danh Bloody Mary là bởi vị nữ hoàng độc ác này, chỉ trong khoảng thời gian ngắn tại vị, đã ra lệnh giết tất cả những ai theo “Cải Cách Tôn Giáo”. Bà ta tin vào Đạo Thiên Chúa chính thống, tin rằng chỉ giáo hội mới có thẩm quyền giảng đạo, tất cả những kẻ dị giáo xứng đáng với tội chết bởi sự vô phép tắc. Vừa lên ngôi bà ta lập tức ra lệnh bắt giữ tất cả những linh mục, tu sĩ đã công khai theo chủ nghĩa Cải Cách. Nicholas Ridey, Hugh Latimer và Thomas Cranmer là ba người đầu tiên. Tổng cộng 300 người khác có tên trong lịch sử tử đạo. Họ đều là những linh mục trung tín và các học giả kỳ cựu.

Thomas Cranmer là tổng giám mục. Nicholas Ridley là giám mục (giáo sĩ trưởng phụ trách các linh mục) ở London, người đã thành lập nhiều bệnh viện và trường học ở London. Hugh Latimer là cố vấn cho vua cha quá cố Henry VIII, và là thầy của vua con Edward VI. Bất kể là ai, Bloody Mary cũng không nương tay.


https://vi.wikipedia.org/wiki/Mary_I_của_Anh

Sau khi đăng quang, Mary ra thông cáo sẽ không ép buộc thần dân phải theo tôn giáo của bà, nhưng đến cuối tháng 9, những giáo sĩ chủ trương cải cách như John Bradford, John Rogers, John Hooper, Hugh Latimer, và Thomas Cranmer đều bị tống giam.[99] Quốc hội đầu tiên dưới triều Mary, họp vào đầu tháng 10, 1553, tuyên bố hôn nhân của song thân Nữ vương là hợp lệ, và hủy bỏ các luật lệ tôn giáo dưới triều Edward.[100] Nền thần học của Giáo hội trở lại với thời kỳ trước cải cách, "Sáu Tín điều" năm 1539 được phục hồi với các điều khoản như tái xác nhận quy định độc thân cho giới tăng lữ. Những linh mục đã kết hôn bị trục xuất của giáo sở.[101]

Mary luôn chống lại quyết định của Henry VIII tách khỏi Rô-ma và nỗ lực của Edward VI thiết lập giáo hội Kháng Cách. Cùng với chồng, Mary muốn nước Anh hòa giải với Rô-ma. Philip thuyết phục Quốc hội hủy bỏ luật tôn giáo đã thông qua dưới triều Henry để đưa Giáo hội Anh trở lại thần phục Rô-ma. Mất vài tháng mới có được sự đồng thuận, và Mary cùng Giáo hoàng Julius III phải chấp nhận một số nhượng bộ: không thu hồi đất của các tu viện hiện đang ở trong tay những chủ đất mới là những người có nhiều ảnh hưởng.[102] Đến cuối năm 1554, Giáo hoàng phê chuẩn thỏa thuận, và Đạo luật Dị giáo được phục hồi.[103]

Khi Đạo luật Dị giáo được áp dụng, nhiều người Kháng Cách bị hành quyết trong thời kỳ bách hại dưới triều Mary.[104] Nhiều người Kháng Cách giàu có, như John Foxe, chọn sống lưu vong, có khoảng 800 người rời bỏ nước Anh. Những cuộc hành quyết đầu tiên diễn ra trong năm ngày vào đầu tháng 2, 1555: John Rogers bị hành hình ngày 4 tháng 2, Laurence Saunders ngày 8 tháng 2, Rowland Taylor và John Hooper ngày 9 tháng 2.[105] Tổng Giám mục Canterbury đang bị cầm tù, Thomas Cranmer, bị buộc phải chứng kiến hai Giám mục Nicholas Ridley và Hug Latimer bị thiêu sống. Đến ngày ông bị hỏa thiêu, Cranmer chịu cải đạo.[106]

Theo quy trình thông thường của luật pháp, lẽ ra ông được xá tội vì đã hối cải. Song, Mary không chịu ân xá cho Cranmer. Khi lên giàn hỏa thiêu, trong một hành động gây nhiều xúc động, Cranmer rút lại lời chối bỏ đức tin Kháng Cách.[107] Tổng cộng có 283 người bị hành hình, trong đó có 56 phụ nữ, hầu hết là bị hỏa thiêu.[108] Các vụ hỏa thiêu đã gây nhiều bất bình đến nỗi Alfonso de Castro, một trong những tùy tùng của Philip, cũng lên án chúng.[109] Cố vấn của Philip, Simon Renard, cảnh báo Philip rằng "sự thực thi luật pháp cách tàn bạo" như thế có thể "gây ra một cuộc cách mạng".[110] Mary vẫn kiên trì theo đuổi chính sách này cho đến khi băng hà, đã góp phần làm gia tăng tinh thần chống Công giáo và chống Tây Ban Nha trong dân chúng Anh,[111] trong khi các nạn nhân của cuộc bách hại được tán tụng như là những người tuẫn đạo.[112]

Tháng 11, 1554, Reginald Pole, người từng được kể tên trong số các ứng viên có thể trở thành phu quân của Mary, trở về như là sứ thần của Giáo hoàng.[113] Pole được phong linh mục và bổ nhiệm làm Tổng Giám mục Canterbury ngay sau khi Cranmer bị hỏa thiêu trong tháng 3, 1556

 

Tuesday, June 27, 2023

C60: William Tyndale (1494 - 1536)

WILLIAM TYNDALE (1494 – 1536)

Khi niềm say mê biết tới Sự Thật trở nên lớn lao quá đỗi, người ta sẵn sàng hy sinh mọi thứ, thậm chí cả mạng sống mình, cho kho báu trí thức, chân tri một điều gì.

William Tyndale là một học giả có nền tảng giáo dục tốt ở Anh. Ông nhận ra nhiều hạn chế của nền giáo dục nước nhà. William học ở Oxford, Cambridge, lúc bấy giờ tuy đã là hai trường danh giá và có tiếng ở Anh, song William không thỏa mãn với những gì được dạy. Ông nói: “Trong các trường đại học, họ quy định (ordain) rằng không ai được đọc Kinh Thánh cho tới khi đã học tới năm thứ tám hoặc chín. Như thế người ta đã giới hạn và triệt tiêu mọi sự hiểu biết về Thiêng Liêng, điều là đầu tiên và thứ nhất mà một học sinh phải học ở trường. Họ dạy những quy tắc giả trá và trang bị cho người ta những vũ khí để thủ tiêu chân tri…”

William Tyndale đã quyết tâm tận hiến đời mình để cải biến chướng ngại này. Với ông, Kinh Thánh “phổ cập dành cho mọi người” chính là đáp án cho giáo dục phổ thông, và giải pháp để chấm dứt tình trạng mục nát, tham nhũng trong nhà thờ lúc bấy giờ. Kinh Thánh “cho mọi người” có nghĩa là tất cả mọi người đều có thể tự uống từ suối nguồn sự thực, không cần phải qua linh mục hay ai khác. Linh mục biết đọc thì người thường cũng biết đọc, nếu một cuốn Kinh Thánh bằng tiếng bản ngữ Anh quốc được ra đời.

William Tyndale sinh năm 1494 ở Gloucester, England (Anh), gần biên giới Welsh. 90 năm trước đó, nhà thờ đã cấm lưu hành bản kinh thánh bằng tiếng anh duy nhất, là bản chép tay cuốn kinh thánh mà John Wycliffe đã dịch.

<John Wycliffe là người đầu tiên dịch Kinh Thánh từ tiếng Latin sang tiếng Anh vào năm 1380. Ông cũng thành lập một nhóm học giả nghiên cứu và giảng dạy sâu sắc những gì đề cập trong Tân Ước. John Wycliffe trước cả Martin Luther, là người tiên phong cho thời kỳ cải cách tôn giáo, chương về Jan Hus và Jerome đã đề cập đến Wycliffe. John Wycliffe đột quỵ vào năm 1384 và 44 năm sau cái chết của ông, giáo hoàng vẫn hận đến nỗi ra lệnh đào xương cốt ông lên để thiêu và phá hủy, đốt mọi văn bản giấy tờ liên quan đến ông.

Song bản kinh thánh phiên dịch, tác phẩm quan trọng nhất thì đã được chép tay bởi nhiều học giả và William Swinderby là một trong số đó. Tên vị này có chút gần giống với William Tyndale, Swinderby cũng là một vị tử đạo, nhân đây dành vài dòng tưởng nhớ tới ông:

Sau khi John Wycliffe qua đời, William Swinderby lúc đó là một linh mục ở giáo phận Lincoln. Ông giảng dạy nhiệt thành những tư tưởng trong Tân Ước và vì thế vi phạm vào những điều cấm của giáo hội. Đe dọa và tuyệt thông vẫn không làm nhụt chí ông, William Swinderby tiếp tục giảng dạy và truyền đạo “trái phép” trong suốt 10 năm kể từ lần thứ hai bị bắt giữ. Không ai biết cụ thể những gì đã xảy ra trong chương cuối của cuộc đời William Swinderby, người ta chỉ biết rằng trái tim và tâm trí ông hướng tới một chân lý: Rằng Kinh Thánh là nền móng duy nhất của đức tin, không phải linh mục, không phải nhà thờ. Đức tin chỉ có thể có được thông qua sự hiệp thông của mỗi cá nhân – mỗi cá nhân cần đọc và cảm nhận trực tiếp những lời thiêng. Mối quan hệ giữa Thiên Chúa và Con Người là mối quan hệ của cá nhân mỗi người, mỗi người cần có trách nhiệm tự mình sốt sắng vì đó.

Hy vọng lớn lao nhất của William Swinderby có lẽ chính là phổ cập Kinh Thánh cho đại chúng, và dù ông không phải là người thực hiện điều đó bởi ông đã bị thiêu trên giàn hỏa vào năm 1401. William Tyndale là người làm tiếp công việc này.>

Bản dịch đầu tiên Kinh Thánh ra tiếng Anh của Wycliffe còn nhiều thiếu sót, nhưng đó là công trình xương máu của rất nhiều người gìn giữ. Trong những năm ấy, ai có nó là phạm pháp. Tyndale cuối cùng cũng sở hữu được một bản như thế. Ông còn đi xa hơn nữa, đối chiếu với Kinh Thánh bằng tiếng Hy Lạp và tiếng gốc Hebrew để hoàn thiện cuốn Kinh Thánh bằng tiếng Anh theo văn phong chuẩn chỉ, dễ đọc, dễ hiểu và chính xác với nghĩa gốc nhất có thể. Để người ta thậm chí có thể dựa vào đó mà dạy trẻ em biết đọc biết viết. Nhà đa ngôn ngữ William Tyndale khi ấy mới 30 tuổi.

Công việc không dễ dàng mà luôn trên bờ vực bị bắt bớ. Tyndale phải trốn khỏi Anh quốc. Ông tới Đức (Germany) và hoàn chỉnh Tân Ước vào năm 1525. Rồi lại tới Antwerp để trốn khỏi truy nã của đặc vụ giáo hội, tiếp tục hoàn thành Cựu Ước và cho in ra nhiều bản bản cuốn Kinh Thánh hoàn chỉnh bằng tiếng Anh, nhờ máy in phát minh bởi Gutenberg.

Ở Belgium, William Tyndale gặp một nhóm thương gia người Anh và từ đó ông đã bị phát giác. Henry Phillips đã tiếp cận ông dưới danh nghĩa bạn bè và rồi phản bội bằng việc tố giác ông cho chính quyền - giáo hội ở Anh. Tháng 5 năm 1535, ông bị bắt giữ và giam cầm tại Vilvoorde, gần Brussels. Ở đó ẩm ướt và lạnh lẽo trong suốt 18 tháng trước khi ông được điệu ra pháp tòa dị giáo với hàng loạt tội danh quen thuộc: chia rẽ tín chúng, gây hấn và tấn công nhà thờ, chống phá giáo hội, tuyên truyền những điều tà vạy, trái pháp luật,…

Biết cái chết là tất yếu, William Tyndale vẫn làm việc bên những trang viết, hoàn thiện và sửa đổi nốt một số dòng dịch thuật cuối cùng, trong cái lạnh của nhà tù và ánh sáng leo lắt của mùa đông nước Anh. Tuy cả người và tay run rẩy, những dòng chữ vẫn cứng cáp trên những trang giấy, mà mấy trăm năm sau vẫn còn bản lưu trữ. Nhờ một cai ngục đã cảm thông giữ hộ.

Tháng 10 năm 1536 khi trời vừa rạng sáng, William Tyndale ra pháp trường. Theo thông lệ: đối với những kẻ “dị giáo”, trước khi chết, người ta sẽ đưa ra một Ly Cứu Chuộc (Mass – kỷ niệm bữa tiệc ly cuối cùng của Đức Christ), đặt nó vào tay kẻ “tội đồ, “phản nghịch”, “ngoại đạo”…  để thể hiện lòng khoan dung của Nhà Thờ Giáo Hội, ban cho y một cơ hội ân xá vào phút chót, nếu kẻ đó công khai thừa nhận sai lầm và hối cải về việc đã làm. Nhưng đó chỉ là thủ tục chóng vánh một cách lố bịch, chiếc ly nhanh chóng bị giật lại.

Và William Tyndale hay những vị tử đạo khác vì tội danh “dị giáo” xưa nay vốn không bao giờ thừa nhận những gì mình đã làm là sai trái. Bởi sự thực, Quan tòa lương tâm – Đấng Phán Xét Cao Cả biết những điều ấy chẳng có gì là sai trái cả.

Bị trói vào giàn thiêu, khi ngọn lửa bùng lên, người ta nghe thấy William Tyndale cầu nguyện lớn tiếng rằng: “Đức Chúa, hãy mở mắt nhà vua Anh quốc.”

Lời cầu nguyện cuối cùng dành cho vị vua tàn bạo của nước Anh lúc bấy giờ là Vua Henry VIII. Thực vậy, lời cầu khẩn - trăng trối ấy đã ứng nghiệm. Không lâu sau cái chết của William Tyndale, vua Henry VIII cho phép (authorize) lưu hành và phân phát rộng rãi bản in Tân Ước, là cuốn Kinh Thánh Ma-thi-ơ.

Giáo hội không được phép “độc quyền” mọi tri thức trong Kinh Thánh như xưa nữa bởi mọi sự giữ bản quyền tri thức là ngạo mạn. Năm 1539, luật mới ban hành, vua ra lệnh yêu cầu tất cả những máy in trong và ngoài nước, những nhà xuất bản sách (sellers of books) phải ưu tiên cung cấp cuốn Kinh Thánh bằng tiếng Anh, để người dân Anh được tự do sử dụng, học nó bằng tiếng mẹ đẻ.

Giấc mơ và nguyện ước khẩn khoản của William Tyndale cuối cùng đã trở thành sự thật.

Monday, June 26, 2023

C59: Bức Hại Trong Cải Cách Tôn Giáo (1500 - 1600)

Chương 59: Bức Hại Trong Cải Cách Tôn Giáo (1500 - 1600)

PERSECUTION DURING THE REFORMATION (1500 – 1600)

Martin Luther đau đớn về những sự lộn xộn đã tận mắt chứng kiến, muốn giải quyết những sự không thống nhất giữa thần học (theology) và thực tiễn (practice), để lập lại đúng đắn trong các nhà thờ công giáo, và mở ra những diễn đàn (discussion) cho mọi người tự do bàn luận và suy nghĩ về những điểm trong các giáo lý (doctrine). Những giáo lý đã bị khảm vàng cứng nhắc qua hàng trăm năm (centuries) bởi chính trị và những nhà quản lý tồi tàn (mismanagement).

Martin Luther không định lập một nhà thờ mới, nhưng quan điểm của ông về Quyền Lực và Hiệu Lực của Sự Xá Tội (Indulgence) trong 95 Luận Án gửi tới trước cửa nhà thờ chính tòa ở Wittenberg vào ngày 31 tháng 10 năm 1517 đã dẫn tới một cuộc biểu tình lớn trong dân chúng, chống lại những sự lạm dụng của nhà thờ và các giáo sĩ. Điều này mở đường cho phong trào (movement) cải cách Tôn giáo (Protestant). <Công giáo là giáo điều của nhà thờ chính quyền, còn Tin lành – Protestant là để chỉ hệ tư duy mở từ sau cuộc cải cách (Reformation) này. >

<Chi tiết lịch sử: 95 Luận Án của Martin Luther là mẻ in đầu tiên của chiếc máy in do thợ kim hoàn Johannes Gutenberg  người Đức phát minh. Nhờ những bản in này mà Martin Luther mới có thể rải truyền đơn, phát tờ rơi khắp nơi cho công chúng. Martin Luther là khách hàng đầu tiên của Gutenberg sẵn sàng bỏ tiền túi của mình ra để in, và phân phát miễn phí những bản in đó.>

Martin Luther là một học giả (scholar), linh mục có chức sắc, và là một nhà hoạt động xã hội. Cuối cùng ông bị chính quyền và nhà thờ cáo buộc là một kẻ dị giáo (heretic) vào năm 1520, bị tuyệt thông (excommunicate), Martin Luther vẫn xuất hiện trong nhiều sự kiện và  phát biểu trước công chúng. Kết quả là, Martin được chính quyền coi như kẻ thường  xuyên phạm tội (an outlaw) và mọi bài viết của ông đều bị cẩm. Mọi sự lưu hành những tác phẩm của ông là phạm pháp, hàng lậu (contraband). Luther nợ ân tình của một người bảo trợ trung thành, tên là Frederick ở Saxony. Nhờ lãnh chúa này mà Martin sống sót và trong thời gian ẩn náu đã thực hiện công việc quan trọng và tốt đẹp nhất cho hậu thế. Toàn bộ cuốn kinh thánh lần đầu tiên được Martin Luther dịch sang tiếng Đức. Thành quả lớn nhất của Martin Luther không phải là cuộc cải cách tôn giáo mà là sự dịch thuật này.

Martin Luther mở đầu cho tiếng nói và sự tử đạo của rất nhiều người trên khắp Châu Âu. Một luật sư người Pháp tên John Calvin, tại Geneva năm 1536 đã xuất bản một Hiến Pháp Tôn Giáo Cơ Đốc (Christian Religion), là tiên đề cho tính hệ thống trong thần học và nhà thờ sau này.

Sự cải cách tôn giáo không chỉ là một phong trào. Nó là một sự phục hồi trên ý nghĩa chân giá trị của mỗi cá nhân và sự tự trị hay tự do ý chí (autonomy) thôi thúc các nhà tri thức tìm hiểu và dịch cuốn Kinh Thánh ra tiếng bản ngữ của mình. Một sự hồi lại, phục hưng tri thức cho quần chúng. Máu, lửa và hành hình hay bức hại không làm nhụt chí họ. Sau đây là những vị tử đạo trong khoảng thời gian 100 năm từ thế kỷ 15 đến 16.

 

HENRY VOES, JOHANN ECK, LAMPERTUS THORN (1523)

Đọc nhầm một cuốn sách có thể phải trả giá bằng cả một cuộc đời.

Khắp Châu Âu những năm 1521, việc đọc và lan truyền sách do Martin Luther viết là phạm pháp, là tội lỗi.  Bởi vì Martin Luther là một linh mục dòng Augustine, những tư tưởng và quan điểm của ông được dòng tu này tiếp nhận nồng nhiệt. Nhiều linh mục khác trong dòng Augustine cũng thuyết giảng dựa trên những tư tưởng đó bất chấp việc Martin Luther đã bị tuyệt thông bởi giáo hội. Khi những lời giảng này đến tai của những vị chức sắc, cả dòng Augustine bị truy tội vào năm 1522. Nhiều mục sư bị bắt, nhà thờ dòng Augustine bị phá hủy (demolish). Giáo hoàng coi họ là những kẻ bất trị, không thể dung tha, tâm thần và tâm linh họ đã bị thao túng bởi tư tưởng của Quỷ, vì thế là những kẻ ‘dị giáo’.

Jame Probst, trưởng tu viện đã trốn thoát, phụ tá của ông là Melchior Mirish nhận sai và dự phiên tòa Inquisition (Tòa án dị giáo - tổ chức do Giáo hội Công giáo La Mã thành lập từ thế kỷ 13, chuyên điều tra, thẩm vấn và kết án những ai không theo tín ngưỡng chính thống.)

Một số linh mục và tu sĩ khác kiên quyết giữ vững lập trường quan điểm của họ, vì thế phải chết trên tòa hỏa thiêu, với tội danh chối bỏ Giáo hoàng, đấng chuyên quyền, chối bỏ điều lệ và quy định của nhà thờ, hợp tác với ma quỷ… Henry Voes và Johann Eck chết vào ngày 1 tháng 7 năm 1523. Lampertus được cho thời gian suy nghĩ và “hối cải” song cũng chịu chết mà không thay đổi đức tin “thoái hóa” của mình.

Bản cáo trạng của họ không liên quan tới chính trị mà chỉ xoay quanh vấn đề thần học và giáo lý. Những người khởi tố tại tòa chỉ yêu cầu họ “lại đạo” (return to faith) và chỉ cần mỗi người trong họ nói một tiếng đồng ý với “chính giáo” là xong. Nhưng họ cứ một mực cứng đầu mà tin theo những điều “tà vạy”.  Khi tòa nói Martin Luther là kẻ phạm tội trọng đã dẫn họ lạc đường, Henry Voes phản trả lời: “Phải, chúng tôi đã lạc lối, cũng như những tông đồ đã bị Đấng Christ dẫn đi lạc lối khỏi thế gian này. Họ không sợ chỉ dụ và sắc lệnh của Giáo hoàng hay bất cứ vị vua nào ở trần thế. Bởi họ chỉ tin vào những điều răn của God, chứ không phải của đạo luật loài người.” Những lời đối đáp như vậy như những tia lửa trong đám củi khô, lấy đi mạng sống của họ. Và những kẻ cầm quyền cũng bị chính ngọn lửa đó thiêu đốt đêm ngày, chết mòn trên nấm mồ của quyền lực hay trong hỏa ngục.

Martin Luther khi nghe những tin ấy về bạn hữu thì quá ngưỡng đau buồn. Họ bị hành hình trước công chúng, còn Martin đau đớn thay lại phải trốn chui rúc ở nơi an ổn, dưới sự bảo trợ của một người không cho phép ông đi vào chỗ chết. Martin viết bài ca về những vị tử đạo, vì Đấng Christ chân thật:

“Cựu thế lực đã bắt họ, khủng bố họ, đe dọa họ.

Họ phải chối bỏ Lời Chúa, phải thừa nhận lời Tạo Vật

Họ bị cám dỗ và lừa dối, song họ không thỏa hiệp

Bởi thế những kẻ ngụy biện dưới danh Thiên Chúa đã đốt họ

Chúng bất lực trước họ, những người bạn của Tinh Thần

Đấng Tinh Thần đã chứng kiến tất cả những trò hề của Tạo Vật

Tạo Vật thì thất bại, nhưng Thiên Chúa thành công.”

“ Hãy coi tất cả nhưng niềm vui (joy), các anh em tôi, khi an hem gặp vô số thử thách và hoạn nạn, bởi anh em biết đó là phép thử đức tin kiên định nơi mình.” (James 1:2-3)

 

FELIX MANZ (1527)

Felix Manz là kết quả của mối tình vụng trộm không hôn thú giữa một mục sư và một người phụ nữ. Lớn lên trong gian khó, Felix cũng đi tu và trở thành một mục sư như cha. Ông sớm có một nhóm bạn với tư tưởng tân tiến và những tư duy phản biện. Trong một cuộc họp cầu nguyện giữa họ, lời hỏi đặt ra là: “Chúng ta nên theo ai? Điều luật nào chi phối (govern) mối quan hệ của một người với Đấng Chúa?”

Vài năm sau, Felix Manz bị bắt và cầm tù, được yêu cầu phải từ bỏ những tư duy “cấp tiến” gây ảnh hưởng tiêu cực đến thể chế. Felix không từ bỏ. Vào ngày 1 tháng 5 năm 1527, Felix bị cho lên thuyền, đẩy ra giữa sông Lammat gần hồ Zurich, buộc đá vào người và ném xuống. Lời cuối của Felix khi còn ở trong tù đã viết bức thư cho mẹ và em mình rằng: “Con tán dương Ngài, Đấng Christ cùng Thiên Chúa trên trời, bởi kỳ lạ thay Ngài đã lấy đi mọi nỗi buồn hay bi thương nơi con, trước cả khi cái chết tới. Con đã có niềm vui vĩnh hằng trong Ngài…”

Chết khi chưa đầy ba mươi tuổi, Felix Manz và nhóm bạn của mình chính là sáng lập viên đầu tiên của dòng Brethren, sau này đổi tên thành Mennonites (dòng  tín hữu mạnh mẽ vẫn duy trì và phát triển tốt cho tới năm 2023 và sau đó.)

 

MICHAEL  SATTLER (1495 – 1527)

Michael Sattler sinh năm 1495 và theo con đường tu sĩ. Cũng như nhiều tu sĩ và linh mục trong thời kỳ Cải Cách tôn giáo. Vật lộn với tình cảm hồng trần và tình yêu với God, ông đã phá bỏ lời thề celibacy (sống độc thân – không lập gia đình). Cũng như thế là nữ tu Margarita. Cả hai đã có cuộc sống vợ chồng không chính thức trong những tu viện thiêng liêng.    

Năm 1526, Michael Sattler thuyết giảng tại nhà thờ ở Horb, một nhà nhờ công giáo La Mã ở Austria.  Tháng 4, năm 1527 Michael và Margarita tới Đức để tham dự một hội nghị thảo luận về “Bảy đề mục đức tin” theo những người Anabaptist (những người theo thuyết rửa tội lại – là một thuyết bị cấm bởi chính giáo). Michael và Margarita tham dự nhiệt tình vào phong trào Anabaptist này, vì thế đã bị bắt giữ. Mọi công việc thuyết giảng tại nhà thờ bị đình chỉ. Song họ vẫn không từ bỏ niềm tin kiên cố. Bị cáo buộc nhiều tội trạng, Michael bị tuyên án treo cổ để răn đe những kẻ khác. Bản án chi tiết là: “Anh sẽ bị giải tới bục trước công chúng, bị cắt lưỡi, trói vào xe ngựa kéo lê khắp phố, sau đó thiêu trên giàn hỏa bởi là một kẻ dị giáo.”

Tám ngày sau Margarita cũng chịu chung số phận, thiêu ở thành phố Rottenburg gần khu rừng đen.

Bởi tìm thấy sự trọn vẹn giữa tình yêu với Đấng Chúa và tình yêu với Margarita, trong thuyết Anabaptist, Michael sẵn sàng chết để thể hiện niềm tin ấy nơi mình. Sau cái chết của họ, những người theo Anabaptist bùng lên khắp nơi và không gì có thể ngăn họ lại.  Điều gì đó vượt trên cả nỗi sợ cái chết, ngọn lửa trong tâm hồn họ còn nóng hơn ngọn lửa trên giàn thiêu. 

 

BALTHASAR HUBMAIER (1480 – 1528)

Balthasar là học giả của trường phái Anabaptist, cũng từng làm việc với Martin Luther. Balthasar là người đại diện duy nhất của Anabaptist có bằng tiến sĩ thần học. Những trang viết của ông tiếp tục sống mãi với các tín hữu khắp nơi trên thế giới sau khi ông qua đời.

Là một học giả, ông biết mọi sự tranh luận về bất cứ chủ đề gì đều có mặt tốt và mặt không tốt của nó. Chính những hiểu biết của ông gây rắc rối bất cứ khi nào lòng can đảm nơi ông thất thế trước hoạt động đa dạng nơi tâm trí linh hoạt của ông.

Ví dụ, khi Zurich, một cộng sự của ông đang cố gắng trốn khỏi sự truy nã của quân đội nước Austria, Balthasar đã bị bắt vì truyền giảng những tư tưởng không chính thống. Ở trong tù bị tra tấn, Balthasar đã đồng ý buông xuôi những tư tưởng tâm đắc, và sau khi được phóng thích, rời khỏi Switzerland, ông hối hận vì đã không can đảm như những người tử đạo vì đức tin kiên định và dũng mãnh của họ: “Con có thể sai lầm, là con người, nhưng con không thể vinh hạnh chết như những người dị giáo … Lạy God, tha thứ cho sự yếu đuối nơi con, đã không noi gương họ.”

Tuy nhiên bù lại, Balthasar đã giảng đạo và dạy dỗ khắp nơi ở Bavaria. Ông rửa tội cho những người trưởng thành, theo đúng nghĩa của nó. Khi Balthasar trở nên nổi tiếng, ông bị bắt giữ và trục xuất. Tám tháng sau khi ở trong tù ở Vienna, ngày 10 tháng 8 năm 1528 ông bị thiêu sống ở giàn hỏa, trước sự chứng kiến của vợ ông là bà Elizabeth. Ba ngày sau đó, Elizabeth cũng bị hành quyết bằng cách buộc đá vào cổ và ném xuống sông Danube.

Di sản đức tin của họ bao gồm những dòng viết, truyền đạt tình yêu của Thiên Chúa tới tất cả những kẻ tội lỗi. Sự rửa tội là một bằng chứng, và ôn hòa là bổn phận và nghĩa vụ của tín hữu bất kể bức hại nào. Balthasar viết: “Không một người vô thần (atheist) hay kẻ ngoại đạo (pagan) nào nên phải chịu dày vò thống khổ về thể xác hay tinh thần chỉ bởi họ không theo Cơ Đốc giáo của nhà thờ và giáo hoàng. Thay vì đó là sự kiên nhẫn và tình yêu nơi God và những ai yêu Ngài, sẽ thu hút họ một cách tự nhiên nhất.”

 

   PATRICK HAMILTON (1527), HENRY FOREST (1529)

Patrick Hamilton là một thành viên hoàng gia Scottish. Ông học ở Paris và quen Eramus, một trong những học giả có tiếng ở Châu Âu.

Patrick Hamilton được bổ nhiệm làm bề trên - cha trưởng tu viện (abbot) của Ferne cùng năm mà Martin Luther công bố 95 bản luận văn trước cửa nhà thờ Wittenberg.  Patrick đã gặp Martin Luther và Philip Melancthon, đồng tác giả của nhiều bài viết Cải cách tôn giáo. Patrick Hamilton còn là một nhạc sĩ tài hoa, đã soạn nhiều bản nhạc và thánh ca trong nhà thờ. Người đàn ông trẻ tên Patrick này có một tương lai tươi sáng. Chức sắc và địa vị cao trọng, những mối quan hệ với hoàng gia và chính quyền, song kỹ năng sống duy nhất mà Patrick còn thiếu: đó là cảm biết mối nguy hiểm.

Mùa hè năm 1523, Patrick trở lại Châu Âu cùng đức tin mãnh liệt về sự thật trong kinh thánh: Lòng khoan của Thiên Chúa trong Đức Christ không liên quan đến những lễ xá tội trong nhà thờ. Tổng giám mục James Beaton chăm chú lắng nghe Patrick và khuyên bảo một cách chân tình rằng tốt hơn hết là Patrick hãy giữ mồm giữ miệng, và giữ mọi ý tưởng “cải cách” của mình lại nếu không muốn mất mạng!

Kết liễu Patrick là một quyết định không dễ thực hiện, bởi dù sao ông cũng là thành viên hoàng tộc. Mùa thu năm 1527, ngay sau đám cưới của mình, Patrick được mời tới tham giự một hội đàm giữa các lãnh đạo – các cha bề trên, để bàn về “những giáo lý mới”.  Không ngờ rằng, chính trong cuộc họp ấy, Patrick đã bị bắt giữ, buộc tội và kết án dị giáo, và bị xử tử vào chiều hôm sau. Bản án gấp gáp được thực thi trước khi những người quen biết và bạn bè của Patrick phát hiện. Sợ rằng họ sẽ lợi dụng hoàng gia để trợ giúp Patrick được trắng án.

Patrick nghiễm nhiên không chút sợ sệt, không chút lung lay thay đổi những gì mình đã nói. Ông tin rằng những điều đó không có gì trái đạo, trái lẽ phải. Patrick lên giàn thiêu như bao kẻ dị giáo khác, trong tinh thần cầu nguyện tột độ.

Patrick bị trói vào cột, dưới hai cánh tay buộc hai túi thuốc nổ và củi đốt. Kỳ lạ thay thuốc nổ nhưng không cháy và củi chất đống không bắt lửa đủ lớn để gây chết người. Nên phương pháp hành hình được thay đổi, Patrick bị treo lên và bên dưới là ngọn lửa cháy âm ỉ. Cơ thể bỏng rộp quằn quại trước sự chứng kiến của đám đông và của những kẻ máu lạnh. Patrick vẫn chưa chết sau sáu tiếng hành hình tại quảng trường Đại học St. Salvator. Người ta nghe tiếng ông thống khổ kêu lên: “Đức Chúa Jesus, xin nhận lấy tinh thần tôi. Bóng tối còn tràn ngập đất này bao lâu nữa?”

Hai năm sau cái chết của Patrick Hamilton, một tu sĩ dòng Biển Đức (Benedictine) tên là Henry Forest bắt đầu đưa câu chuyện về Patrick vào những bài thuyết giáo của mình, ngợi ca tấm gương tử đạo ấy. Và kết quả là Henry cũng được lãnh án tử. Chỉ có điều cái chết này không diễn ra trước công chúng mà giấu giếm sau những song sắt nhà tù. John Knox tiếp bước công nghiệp của Patrick và Henry, cũng như những người đã chứng kiến sự thật không thể chối cãi về đức tin và những sự cầm quyền.

 

JOHN FRITH (1503 – 1533)

Một linh mục người Anh tên là John Frith sống chỉ ba mươi năm trên trần gian. Song ông là người có công giúp William Tyndale dịch cuốn kinh thánh sang tiếng Anh. Công việc đó khiến John phải ngồi tù ba năm trời. Sau khi được thả, John tới Marburg, nơi ông lại tiếp tục dịch cuốn sách của Patrick Hamilton. John cũng viết một tác phẩm về sự chuộc tội.

Khi John Frith trở lại Anh vào năm 1532, ông bị bắt lần hai vì tội dị giáo. Nhưng dù ở trong tù, ông vẫn tiếp tục viết và trình bày rõ ràng một cách có hệ thống về những quan điểm cải cách và về bí tích thánh thể.

John Frith nhận án tử nhưng được cấp khoan hồng tha thứ (pardon) nếu chấp nhận từ bỏ những quan điểm trên, hợp tác với chính giáo (nhà thờ công giáo La Mã). Frith từ chối đặc ân đó và sẵn sàng chết.

John Frith bị trói cọc và thiêu sống vào ngày 4 tháng 7 năm 1533, ở quảng trường London. Năm 1574, bốn mươi năm sau đó, những tác phẩm và công việc của John Frith được John Foxe xuất bản.

 

Sunday, June 25, 2023

C58: Anton ở Padova

Chương 58: Anton ở Padova

Tạm gác sang một bên những gì là tư kỷ mà phàm tình luôn mong mỏi tìm cầu. Bởi cầu bất đắc khổ.

Chuyện thiên giới không có thứ được gọi là "cầu bất đắc" hay "ái biệt ly" khổ. Chư tiên đều biết và chắc chắn một niềm tin xác quyết rằng: Mọi sự cầu mong vô kỷ, thánh thiện và tốt lành nhất, KHÔNG SỚM THÌ MUỘN đều sẽ được như nguyện.

Và mọi yêu thương vô hạn thì tuyệt đối chẳng bao giờ có biệt ly. Vì Tinh Thần nơi những ai đã, đang và sẽ yêu một Tình Yêu Trường Tồn Bất Diệt thì đều có thể chỉ trong giây lát mà Dịch Chuyển Tức Thời mọi Không Gian, Thời Gian, để đồng hành cùng nhau trong cõi Vĩnh Hằng Hợp Nhất.

Dịch chuyển tức thời, chính là dịch chuyển cái Tâm Thức - Tâm Linh - Tâm Hồn này từ cõi vô tri tới cõi chân tri ...  


- - -

Mọi nỗi sợ về sự chia ly, tử vong, mất mát, chỉ có ở những ai còn trong Miên Trường Tư Mộng. Còn luyến lưu thương tiếc những hình hài phù du, những lớp áo mượn tạm. Áo đẹp thì luyến ái, ưa chuộng. Áo xấu thì bỏ bê, dè bỉu, chà đạp, vứt đi hay làm giẻ lau không thương tiếc.

Thượng giới thì không như thế, thường tiên nhân có rất ít quần áo. Người nhiều lắm cũng chỉ sở hữu mười bộ là cùng. Anton ở Thiên Giới cũng là một trong những vị có sở thích "đồng bóng" như vậy. Mặc dù đã là một "bậc thượng thủ", chư tiên ai cũng biết tính vị này thích làm đỏm và hay khoe đồ. Còn có sở thích sưu tập nhị khúc, phi tiêu, mã tấu, đủ thứ vũ khí hay ho mới lạ ở hạ giới. Cứ lò nào vừa sản xuất được món mới, vị này đều mò tới tăm tia và rước về thiên giới để khoe khoang về độ tinh xảo và tiến bộ của đầu óc người phàm.

Ở vị này có một sự bất phân khó hiểu. Nhiều khi ai nấy cho rằng gã chỉ giả bộ "ngu ngu" vậy thôi. Quả thực, để được đứng vào hàng ngũ của các "bậc thượng thủ" trên thiên giới thì không phải chuyện đùa. Đồng bóng lòe loẹt hay đơn điệu trang nhã không phải là nội dung bên trong. Tiên giới phải bấm bụng cười mỗi khi thấy hai vị, một Thiên Đế, một "nhà thiết kế thời trang" Anton xuất hiện cùng nhau trò chuyện. Lần ấy Anton rạng rỡ khoác một bộ cánh khoét nách, quần cộc... theo thời trang ở hạ giới. Giữa mùa hè mà mặc áo khoét nách làm từ lông thú, và đi cả đôi ủng rằn ri chính hiệu "hàng hạ giới chất lượng cao."

Chưa hết, tóc tết theo kiểu rất dị của bộ lạc thổ dân nào đó. Lủng lẳng đeo bên người đầy những thứ phụ kiện kỳ lạ. Thiên giới đồn thổi mỗi vật đều có linh lực gia trì của Antion, chuyên để "làm phép lạ", bùa trấn gì đó. Bộ sưu tập đồ nghề này, đeo trên người chỉ là số ít thôi. Số còn lại được cất giữ trong kho nào đó mà không ai thấy được.

Ấy là Anton ở Thiên Giới.

- - -


https://vi.wikipedia.org/wiki/Antôn_thành_Padova

Antôn thành Padova (tiếng Ý: Antonio di Padova) hoặc Antôn thành Lisboa (tiếng Bồ Đào Nha: António de Lisboa, 15 tháng 8 năm 1195 - 13 tháng 6 năm 1231) là một linh mục Công giáo người Bồ Đào Nha và là tu sĩ Dòng Phanxicô. Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình giàu có ở Lisboa, Bồ Đào Nha nhưng mất tại Padova, Ý. Với kiến thức chuyên sâu về Kinh Thánh, ông đã rao giảng mạnh mẽ về đức tin Kitô giáo cho người khác, chính vì thế, ông được tuyên thánh rất sớm sau khi qua đời và được Giáo hội Công giáo Rôma phong làm tiến sĩ Hội thánh vào ngày 16 tháng 1 năm 1946.

Anton ở Trần Gian cũng được gán danh là "ông thánh hay làm phép lạ".

Nào là làm "ngựa đói chê cỏ", "ly vỡ lại lành", "gọi cá về thuyết giảng", "tìm kiếm đồ vật thất lạc", "bế Hài Đồng giữa đêm khuya", "uống thuốc độc không chết", "xóa mọi tội lỗi thành trang giấy trắng", nội lực thâm hậu để lại dấu tay trên thềm đá, để lại chiếc lưỡi hồng ...

Kỳ thực mấy phép lạ ấy chẳng có gì là to tát đối với Anton mà nói. Những thuật pháp thiên giới mà Anton thực hiện, nếu trần gian biết được thì ắt coi mấy chuyện vặt kia là trò trẻ con mà thôi.

Giải thích sơ qua đôi chút:

Ngựa đói chê cỏ là vì con ngựa đó, đêm hôm trước đã được người bạn thân tín của Anton bí mật cho ăn rồi. Ai cũng biết Anton hồi đầu được "bề trên" giao công việc khiêm nhường là chăn ngựa, chuyên quét dọn chuồng ngựa. Vì thế mọi thói quen và hành vi của loài ngựa Anton đều nắm rõ. Anton còn biết những cách thức làm ngựa phải chú ý, như phát ra những âm thanh đặc biệt thu hút sự chú ý của ngựa. Nói dễ hiểu là Anton biết tiếng của loài ngựa. Phải kể đến sức hấp dẫn bẩm sinh khó cưỡng phát ra từ bên trong nữa. Anton dùng đến cả "sức mạnh ý chí"  thì còn gì là ngựa. Vì sự phát triển của Đạo Thiên Cổ ở trần gian, gian lận hay làm quá lên chút cũng có hề gì.

Tiếp đến, ly vỡ lại lành. Chả là, nhà đôi vợ chồng ấy xưa nay lục đục quen rồi. Đi đạo, đi lễ đầy đủ cả, sùng tín lắm mà vẫn không cải tổ được đường lối gia đình. Ông chồng nói một thì bà vợ nói năm nói mười. Mệt mỏi lắm! Anton giảng hòa bao lần mà đâu vẫn hoàn đấy. Ông chồng thì bơ phờ bất lực ủ ê, bà vợ thì cau có xạu xọ hớt hải. Già rồi mà cả hai vẫn cãi nhau ỏm tỏi. Căng thẳng quá, đến một hôm ông chồng tới gặp Anton xin ý kiến và sự ủng hộ để được ly hôn với bà vợ. Tài sản gì ông cũng vứt tất, cho bà ấy tất. Đàn ông ly hôn vốn chẳng quan tâm đến tài sản tiền bạc như giới "lực lượng chức năng" sinh sản kia.

Vợ chồng ăn đời ở kiếp với nhau mấy mươi năm, tình nghĩa còn chẳng nói nổi, nói gì tới của nả tiền bạc. Anton hỏi đầu đuôi cua nheo câu chuyện. Ông chồng giãi bày tâm sự suốt cả một ngày, nước mắt ngắn nước mắt dài. Hỏi ra mới biết ông ta vẫn yêu vợ tha thiết. Chỉ là không thể yêu được cái tính "cằn nhằn" lắm điều nhiều lời của bà ấy. Đã bảo hiểu rồi, khổ lắm, nói mãi, mà bà vẫn cứ nói. Nói suốt ngày dài qua tháng rộng, đêm này qua đêm khác. Hết chuyện nọ lại rọ chuyện chai. Chỉ muốn nói mà không muốn nghe ai sất cả.

Chưa hết, làm vợ mà lại muốn nắm quyền, toàn quyền, muốn lấn át cả chồng. Chồng chưa kịp nói một câu thì đã nhảy vào mồm chồng, nói hộ nốt mười câu. Ông chồng chỉ biết bất lực lườm và thở dài sườn sượt mà bà ấy vẫn không biết đường im miệng, chẳng hiểu ý gì cả. Khách khứa đến ai cũng khen bà vợ đảm, còn ông chồng thì ức ... muốn đấm ngực mà chết. Vợ với con cái nỗi gì. Hại đời thằng đàn ông như thế. Nếu được chọn lại từ đầu, ông ta khóc mà rằng, nhất định sẽ chọn "đi tu" như Anton. Ơn gọi tuyệt vời như thế nhưng ít người có được. Vì cha vì mẹ, vì ánh mắt nụ cười, vì cái đường cong cháy người nào đó mà giờ đây phải khổ như thế này. Muốn làm gì cũng phải nơm nớp lo sợ Vợ Ca.

Nó tức thì mặc nó, nó không bằng lòng cũng mặc nó! Nhưng mà nó có mặc cho mình đâu. Nó không để cho mình yên thân một chút nào. Đi một chốc nó gọi về một nhát, về rồi nó nói, nói hỏi, nó cung, nó dằn, nó vặt. Hai vợ chồng đầu ấp tay gối là thế, sáng ra lại càu nhàu chuyện cái nồi cái niêu, cái xiêu cái vẹo. Rồi buôn bán lãi lời ít, bạn bè nhiều. Cho người ta một chút thì nó làm như cắt cổ nó không bằng. Rượu có cả kho, vừa bán vừa cho mới là thượng cách, làm ăn là phải tính chuyện lâu dài. Vừa cho người bạn một hũ rượu vang, còn chưa kịp chén chú chén anh, về đến nhà nó đã hỏi tội. Cả hai cùng điên lên, tức quá ông mới đập bể cả chum rượu lớn cho mà biết, lênh láng khắp nhà. Bà vợ sững sờ ôm mặt khóc còn ông chồng chạy té khói ra khỏi cửa, vội tới gặp Anton để giải trình nỗi oan lòng.  

Anton khuyên nhủ thế nào đó mà ông chồng về, mấy hôm sau bà vợ tới mang theo rượu cúng cho Anton. Một thời gian sau thì hai vợ chồng cảm ơn rối rít. Kêu rằng nhờ Anton mà "Ly vỡ lại lành", "Rượu mới lại đầy". Gia đình buôn bán phát đạt, êm ấm trong ngoài rồi ... Về sau có một đồn mười, khi Anton được "phong thánh" thì truyền thuyết phép lạ khiến "ly vỡ lại lành" càng được nhuốm một vẻ thánh thần bí ẩn kì diệu. Thực chuyện đơn giản chỉ có vậy. Anton trích dẫn vài câu Kinh Thánh, bảo bà vợ phải coi chồng như Đấng Thiên Chúa của mình, phải lắng nghe chồng. Còn chồng cũng coi vợ như Hội Thánh của mình... Không đi sâu hơn nữa vào cách giải của Anton mà chỉ biết kết quả tốt đẹp là vậy.

Phép lạ tiếp theo, gọi cá về thuyết giáo. Lần ấy Anton đi biển. Dân chài lưới thì ít học, nhìn thấy ông thầy nhiều chữ đã ngại rồi. Không sắn tay vào làm việc cùng họ thì hòa hợp thế nào được. Anton hồ hởi sắn tay vào nghề chài lưới. Trời cho thuận lợi thế nào, hôm ấy thuyền lại vào đúng hải lưu nơi có vực cá đông đúc đang di cư sang vùng biển khác. Thế là ai nấy tin rằng nhờ Anton gọi cá về, Anton làm "phép lạ" nên cá mới về đông thế. Anton được thể trổ tài thuyết giảng thần sầu cho cá. Bảo ngư phủ, đấy loài cá mú hạ đẳng mà còn biết nghe lời, thờ lạy, ngợi ca Thiên Cổ - Đấng Tạo Thành, thì loài người hơn như thế. Phép lạ này thực ra là do chư tiên và hộ pháp ở Long Hải hỗ trợ, khi thấy "bậc thượng thủ" Anton trên biển.

Phép lạ tiếp nữa, tìm đồ vật thất lạc. Anton có khả năng suy đoán như thần, đã khai mở "thần thông" công năng đặc dị: Thiên nhãn thông, dùng để tìm đồ... Ông A đi chỗ nọ, bỏ quên vật kia ở quanh đó. Bà B về nhà đãng trí cất cái quan trọng ở chỗ nào xong không nhớ ra. Mấy người C, D, E, F, cũng đại khái như vậy. Đến trình bày với Anton thì sau một hồi hỏi những chỗ đã đi, những việc đã làm, những gì đã quên. Rốt cục người ta tìm lại được vật nọ.

Tiếp đến, phép lạ "bế Hài Đồng giữa đêm khuya". Có người chợt thấy phòng Anton rực sáng giữa đêm khuya. Nhìn vào thì thấy Anton đang bế tượng chúa Hài Đồng và âu yếm trò chuyện. Thấy mặt ngài rực sáng. Thì ra, ban đêm phòng thắp sáng, mà trên tay Anton cũng có một cây nến nữa. Chả là, Anton rất yêu trẻ con. Đời ấy đi tu, vào dòng rồi thì con cái thế nào được nữa. Vợ không có thì con đào đâu ra? Đêm ấy Anton xúc động thế nào, mới bế bồng tượng chúa Hài Đồng mà coi đó là người con, âu yếm trò chuyện, ru con cho khuây khỏa. Vừa thủ thỉ tâm sự vừa rơi lệ cả đêm. Người kia nhìn thấy tưởng rằng quả thực chúa Hài Đồng đã nhập vào tượng. Quả thực thiêng liêng chí thánh tột cùng!   
 
Tiếp theo, phép lạ uống thuốc độc không chết. Vì có kẻ mạn nghi ghen ghét, Anton muốn cảm hóa và cải biến hắn. Nên nốc cạn ly thuốc độc. Uống xong không chết ngay nhưng dần sinh bệnh. Cơ thể đau đớn vô cùng, qua đời ở tuổi ba mấy. Việc này cũng liên quan đến "phép lạ" chiếc lưỡi hồng. Khi chết, độc đã phân tán khắp nơi và tích tụ lại ở lưỡi. Thứ độc bằng cách nào đó đã lưu chuyển và đọng lại ở lưỡi, nên chiếc lưỡi mới lâu phân hủy hơn các bộ phận khác. Cũng có thể đây thực sự là phép màu "xá lợi lưỡi" để lại do tâm thức, tâm ý và thần trí của Anton đặt định vào việc thuyết giảng linh thiêng trọn một đời ấy. (Như "xá lợi tim" của hòa thượng Quảng Đức sau khi đem thiêu nhiều lần vẫn không cháy vậy.)

Tiếp theo, nội lực thâm hậu, để lại dấu tay vẽ hình chữ thập trên thềm đá. Thời xưa đổ bê tông xây dựng cũng như bây giờ, cách thức và chất liệu có khác nhưng công đoạn cũng tương tự. Xây thềm đá cũng cần thời gian đợi cho nó khô cứng. Trong khi chờ đợi thì Anton có vẽ chơi một vài đường. Kiểu như dấu vết trên xi măng chưa khô vậy.

Tiếp, xóa mọi tội lỗi thành trang giấy trắng. Có người đàn ông này đến xưng tội, thú nhận những việc xấu ác đã làm, ghi hết vào một mảnh giấy. Hồi đó, nhà thờ có thực hiện các lễ "giải tội, tha tội" như đã đề cập ở chương trước. Linh mục có quyền năng "tha tội" một ai đó là chuyện khiến người ta nửa tin nửa ngờ. Làm gì có chuyện dễ dàng như vậy. Chỉ mấy cái khấn vái lễ lạy là xong, phủi phui mọi tội lỗi hay sao?

Người đàn ông này rất thành tâm hối cải, Anton thấy đây là một con chiên ngoan đạo. Mọi tội lỗi của mình ông ta đều không bao giờ quên được, từ việc lấy của ai một cái gì, trộm của ai một vật nhỏ xưa nay. Ông ta đều ghi hết vào mảnh giấy đưa cho Anton. Tội nhẹ đã vậy, còn tội nặng hơn như: Gian dâm, tà dâm. Rồi gần nhất là đẩy một người vào tù tội, làm chết oan một người. Ông ta ngày đêm đau buồn hối hận, lương tâm cắn dứt đến không sao sống nổi. Ông viết vào mảnh giấy chi tiết những tội của mình. Sau đó Anton làm lễ, đưa lại cho ông ta mảnh giấy gói trong một túi nhỏ, dặn ông ta mang về và đốt đi, về đến nhà mới được mở ra, không là mất thiêng. Ông ta nghe lời, về đến nhà mở ra thì tờ giấy trắng tinh. Ông ta nghẹn ngào đến rơi nước mắt, quay lại hỏi thì Anton bảo đó là phép màu, có được do Thiên Cổ đã trao quyền năng tha thứ cho các linh mục. Chính nhờ sự tích 'thần bí" này, về sau sự mua bán các "indulgence" (lễ xá tội) mới diễn ra phổ biến mãi mấy trăm năm sau đó. Thực ra Anton chỉ đánh tráo một tờ giấy trắng mà thôi, có gì to tát đâu.

Một số phép lạ khác được đề cập trong sử sách ở hạ giới như: Anton "dịch chuyển tức thời" để cứu cha gặp nạn. Anton dựng người chết sống lại, nói một lời để minh oan cho cha. Chứng minh cha không phải kẻ giết người.

Những chuyện này đều nhuốm yếu tố kỳ ảo, lưu truyền qua thời gian bởi những người sùng mộ. Cũng tương tự thế là chuyện về "Đức Mẹ Đồng Trinh".

Có bột mới gột nên hồ, quả thực, một nửa của truyền thuyết là sự thực. Song sự thực nông hay sâu, liên quan đến đâu là do cảm hiểu của mỗi người. Thậm chí, có khi chính những đối tượng liên quan, được nhắc tới, những nhân vật chính trong truyền thuyết hay huyền sử, cũng không còn nhớ nội dung chi tiết những gì đã diễn ra.

Đời là mộng ảo trường kỳ. Song những ai Quy Tiên trong Đại Đạo Vô Kỷ thì đều biết về Sự Thật - Thực Tại chân xác không hề bịa đặt hay thêu dệt: là Tình Yêu rất đỗi Thiêng Liêng Vô Hạn.

- - -

Người ta chỉ sợ hay nể, quy phục hay tán thán, thờ thiêng những "phép lạ" bất thường nào đó, mà không hiểu rằng chính sự sống này đã là một phép lạ vô cùng.

Thần thông là có thật. Sự thật có những vị đế tinh quân trên cao và cao hơn nữa, những bậc thượng tiên, với những năng lực - quyền năng phi thường, có thể thực hiện vô số thuật phép (kỹ thuật - phép lạ) như rời non lấp bể, kéo một vì sao đặt vào chỗ nào đó và khiến nó vận hành theo quy củ trong một thời gian đại kiếp Thiên Đàng. Hay là có cả một Bộ Giáo Dục và Đào Tạo Linh Hồn, chuyên sắp đặt, lên lịch, đưa từng sinh linh vạn hữu đi đầu thai, chính xác ở một nơi nào đó trong từng phòng học Thế Giới Hồng Trần (Thế Giới Vật Chất nói chung).  

Sa mạc khi xưa là biển cả. Vì biển mặn mòi nên chẳng có gì mọc lên được từ đất trên sa mạc ngoài mấy cây đặc thù. Nhưng tảo thì mọc trong nước biển. Cũng như thế có những sự đặc thù khó lý giải, như vì sao ngày nào mặt trời, mặt trăng cũng mọc rồi lặn mà không biết chán? Vì sao người ta sinh ra hay chết đi mà không biết chán? Hàng vạn câu hỏi vì sao trên đời.

Một cái cây phải chết đi vì như thế thì nó mới hoàn thành xứ mệnh trở thành một trang giấy trắng cho người ta viết lên. Một cái cây phải chết đi để có chỗ cho cây khác mọc lên, hay có chỗ cho những ngôi nhà mọc lên. Sự chết đi ấy chỉ là tạm thời, hình dạng tạm thời ấy thay đổi thành một hình dạng khác.

Kỳ lạ thay là phép lạ thời gian, ngày tháng. Kỳ lạ thay là Thế Giới Hồng Trần.