Chương 58: Anton ở Padova
Tạm gác sang một bên những gì là tư kỷ mà phàm tình luôn mong mỏi tìm cầu. Bởi cầu bất đắc khổ.
Chuyện thiên giới không có thứ được gọi là "cầu bất đắc" hay "ái biệt ly" khổ. Chư tiên đều biết và chắc chắn một niềm tin xác quyết rằng: Mọi sự cầu mong vô kỷ, thánh thiện và tốt lành nhất, KHÔNG SỚM THÌ MUỘN đều sẽ được như nguyện.
Và mọi yêu thương vô hạn thì tuyệt đối chẳng bao giờ có biệt ly. Vì Tinh Thần nơi những ai đã, đang và sẽ yêu một Tình Yêu Trường Tồn Bất Diệt thì đều có thể chỉ trong giây lát mà Dịch Chuyển Tức Thời mọi Không Gian, Thời Gian, để đồng hành cùng nhau trong cõi Vĩnh Hằng Hợp Nhất.
Dịch chuyển tức thời, chính là dịch chuyển cái Tâm Thức - Tâm Linh - Tâm Hồn này từ cõi vô tri tới cõi chân tri ...
- - -
Mọi nỗi sợ về sự chia ly, tử vong, mất mát, chỉ có ở những ai còn trong Miên Trường Tư Mộng. Còn luyến lưu thương tiếc những hình hài phù du, những lớp áo mượn tạm. Áo đẹp thì luyến ái, ưa chuộng. Áo xấu thì bỏ bê, dè bỉu, chà đạp, vứt đi hay làm giẻ lau không thương tiếc.
Thượng giới thì không như thế, thường tiên nhân có rất ít quần áo. Người nhiều lắm cũng chỉ sở hữu mười bộ là cùng. Anton ở Thiên Giới cũng là một trong những vị có sở thích "đồng bóng" như vậy. Mặc dù đã là một "bậc thượng thủ", chư tiên ai cũng biết tính vị này thích làm đỏm và hay khoe đồ. Còn có sở thích sưu tập nhị khúc, phi tiêu, mã tấu, đủ thứ vũ khí hay ho mới lạ ở hạ giới. Cứ lò nào vừa sản xuất được món mới, vị này đều mò tới tăm tia và rước về thiên giới để khoe khoang về độ tinh xảo và tiến bộ của đầu óc người phàm.
Ở vị này có một sự bất phân khó hiểu. Nhiều khi ai nấy cho rằng gã chỉ giả bộ "ngu ngu" vậy thôi. Quả thực, để được đứng vào hàng ngũ của các "bậc thượng thủ" trên thiên giới thì không phải chuyện đùa. Đồng bóng lòe loẹt hay đơn điệu trang nhã không phải là nội dung bên trong. Tiên giới phải bấm bụng cười mỗi khi thấy hai vị, một Thiên Đế, một "nhà thiết kế thời trang" Anton xuất hiện cùng nhau trò chuyện. Lần ấy Anton rạng rỡ khoác một bộ cánh khoét nách, quần cộc... theo thời trang ở hạ giới. Giữa mùa hè mà mặc áo khoét nách làm từ lông thú, và đi cả đôi ủng rằn ri chính hiệu "hàng hạ giới chất lượng cao."
Chưa hết, tóc tết theo kiểu rất dị của bộ lạc thổ dân nào đó. Lủng lẳng đeo bên người đầy những thứ phụ kiện kỳ lạ. Thiên giới đồn thổi mỗi vật đều có linh lực gia trì của Antion, chuyên để "làm phép lạ", bùa trấn gì đó. Bộ sưu tập đồ nghề này, đeo trên người chỉ là số ít thôi. Số còn lại được cất giữ trong kho nào đó mà không ai thấy được.
Ấy là Anton ở Thiên Giới.
- - -
https://vi.wikipedia.org/wiki/Antôn_thành_Padova
Antôn thành Padova (tiếng Ý: Antonio di Padova) hoặc Antôn thành Lisboa (tiếng Bồ Đào Nha: António de Lisboa, 15 tháng 8 năm 1195 - 13 tháng 6 năm 1231) là một linh mục Công giáo người Bồ Đào Nha và là tu sĩ Dòng Phanxicô. Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình giàu có ở Lisboa, Bồ Đào Nha nhưng mất tại Padova, Ý. Với kiến thức chuyên sâu về Kinh Thánh, ông đã rao giảng mạnh mẽ về đức tin Kitô giáo cho người khác, chính vì thế, ông được tuyên thánh rất sớm sau khi qua đời và được Giáo hội Công giáo Rôma phong làm tiến sĩ Hội thánh vào ngày 16 tháng 1 năm 1946.
Anton ở Trần Gian cũng được gán danh là "ông thánh hay làm phép lạ".
Nào là làm "ngựa đói chê cỏ", "ly vỡ lại lành", "gọi cá về thuyết giảng", "tìm kiếm đồ vật thất lạc", "bế Hài Đồng giữa đêm khuya", "uống thuốc độc không chết", "xóa mọi tội lỗi thành trang giấy trắng", nội lực thâm hậu để lại dấu tay trên thềm đá, để lại chiếc lưỡi hồng ...
Kỳ thực mấy phép lạ ấy chẳng có gì là to tát đối với Anton mà nói. Những thuật pháp thiên giới mà Anton thực hiện, nếu trần gian biết được thì ắt coi mấy chuyện vặt kia là trò trẻ con mà thôi.
Giải thích sơ qua đôi chút:
Ngựa đói chê cỏ là vì con ngựa đó, đêm hôm trước đã được người bạn thân tín của Anton bí mật cho ăn rồi. Ai cũng biết Anton hồi đầu được "bề trên" giao công việc khiêm nhường là chăn ngựa, chuyên quét dọn chuồng ngựa. Vì thế mọi thói quen và hành vi của loài ngựa Anton đều nắm rõ. Anton còn biết những cách thức làm ngựa phải chú ý, như phát ra những âm thanh đặc biệt thu hút sự chú ý của ngựa. Nói dễ hiểu là Anton biết tiếng của loài ngựa. Phải kể đến sức hấp dẫn bẩm sinh khó cưỡng phát ra từ bên trong nữa. Anton dùng đến cả "sức mạnh ý chí" thì còn gì là ngựa. Vì sự phát triển của Đạo Thiên Cổ ở trần gian, gian lận hay làm quá lên chút cũng có hề gì.
Tiếp đến, ly vỡ lại lành. Chả là, nhà đôi vợ chồng ấy xưa nay lục đục quen rồi. Đi đạo, đi lễ đầy đủ cả, sùng tín lắm mà vẫn không cải tổ được đường lối gia đình. Ông chồng nói một thì bà vợ nói năm nói mười. Mệt mỏi lắm! Anton giảng hòa bao lần mà đâu vẫn hoàn đấy. Ông chồng thì bơ phờ bất lực ủ ê, bà vợ thì cau có xạu xọ hớt hải. Già rồi mà cả hai vẫn cãi nhau ỏm tỏi. Căng thẳng quá, đến một hôm ông chồng tới gặp Anton xin ý kiến và sự ủng hộ để được ly hôn với bà vợ. Tài sản gì ông cũng vứt tất, cho bà ấy tất. Đàn ông ly hôn vốn chẳng quan tâm đến tài sản tiền bạc như giới "lực lượng chức năng" sinh sản kia.
Vợ chồng ăn đời ở kiếp với nhau mấy mươi năm, tình nghĩa còn chẳng nói nổi, nói gì tới của nả tiền bạc. Anton hỏi đầu đuôi cua nheo câu chuyện. Ông chồng giãi bày tâm sự suốt cả một ngày, nước mắt ngắn nước mắt dài. Hỏi ra mới biết ông ta vẫn yêu vợ tha thiết. Chỉ là không thể yêu được cái tính "cằn nhằn" lắm điều nhiều lời của bà ấy. Đã bảo hiểu rồi, khổ lắm, nói mãi, mà bà vẫn cứ nói. Nói suốt ngày dài qua tháng rộng, đêm này qua đêm khác. Hết chuyện nọ lại rọ chuyện chai. Chỉ muốn nói mà không muốn nghe ai sất cả.
Chưa hết, làm vợ mà lại muốn nắm quyền, toàn quyền, muốn lấn át cả chồng. Chồng chưa kịp nói một câu thì đã nhảy vào mồm chồng, nói hộ nốt mười câu. Ông chồng chỉ biết bất lực lườm và thở dài sườn sượt mà bà ấy vẫn không biết đường im miệng, chẳng hiểu ý gì cả. Khách khứa đến ai cũng khen bà vợ đảm, còn ông chồng thì ức ... muốn đấm ngực mà chết. Vợ với con cái nỗi gì. Hại đời thằng đàn ông như thế. Nếu được chọn lại từ đầu, ông ta khóc mà rằng, nhất định sẽ chọn "đi tu" như Anton. Ơn gọi tuyệt vời như thế nhưng ít người có được. Vì cha vì mẹ, vì ánh mắt nụ cười, vì cái đường cong cháy người nào đó mà giờ đây phải khổ như thế này. Muốn làm gì cũng phải nơm nớp lo sợ Vợ Ca.
Nó tức thì mặc nó, nó không bằng lòng cũng mặc nó! Nhưng mà nó có mặc cho mình đâu. Nó không để cho mình yên thân một chút nào. Đi một chốc nó gọi về một nhát, về rồi nó nói, nói hỏi, nó cung, nó dằn, nó vặt. Hai vợ chồng đầu ấp tay gối là thế, sáng ra lại càu nhàu chuyện cái nồi cái niêu, cái xiêu cái vẹo. Rồi buôn bán lãi lời ít, bạn bè nhiều. Cho người ta một chút thì nó làm như cắt cổ nó không bằng. Rượu có cả kho, vừa bán vừa cho mới là thượng cách, làm ăn là phải tính chuyện lâu dài. Vừa cho người bạn một hũ rượu vang, còn chưa kịp chén chú chén anh, về đến nhà nó đã hỏi tội. Cả hai cùng điên lên, tức quá ông mới đập bể cả chum rượu lớn cho mà biết, lênh láng khắp nhà. Bà vợ sững sờ ôm mặt khóc còn ông chồng chạy té khói ra khỏi cửa, vội tới gặp Anton để giải trình nỗi oan lòng.
Anton khuyên nhủ thế nào đó mà ông chồng về, mấy hôm sau bà vợ tới mang theo rượu cúng cho Anton. Một thời gian sau thì hai vợ chồng cảm ơn rối rít. Kêu rằng nhờ Anton mà "Ly vỡ lại lành", "Rượu mới lại đầy". Gia đình buôn bán phát đạt, êm ấm trong ngoài rồi ... Về sau có một đồn mười, khi Anton được "phong thánh" thì truyền thuyết phép lạ khiến "ly vỡ lại lành" càng được nhuốm một vẻ thánh thần bí ẩn kì diệu. Thực chuyện đơn giản chỉ có vậy. Anton trích dẫn vài câu Kinh Thánh, bảo bà vợ phải coi chồng như Đấng Thiên Chúa của mình, phải lắng nghe chồng. Còn chồng cũng coi vợ như Hội Thánh của mình... Không đi sâu hơn nữa vào cách giải của Anton mà chỉ biết kết quả tốt đẹp là vậy.
Phép lạ tiếp theo, gọi cá về thuyết giáo. Lần ấy Anton đi biển. Dân chài lưới thì ít học, nhìn thấy ông thầy nhiều chữ đã ngại rồi. Không sắn tay vào làm việc cùng họ thì hòa hợp thế nào được. Anton hồ hởi sắn tay vào nghề chài lưới. Trời cho thuận lợi thế nào, hôm ấy thuyền lại vào đúng hải lưu nơi có vực cá đông đúc đang di cư sang vùng biển khác. Thế là ai nấy tin rằng nhờ Anton gọi cá về, Anton làm "phép lạ" nên cá mới về đông thế. Anton được thể trổ tài thuyết giảng thần sầu cho cá. Bảo ngư phủ, đấy loài cá mú hạ đẳng mà còn biết nghe lời, thờ lạy, ngợi ca Thiên Cổ - Đấng Tạo Thành, thì loài người hơn như thế. Phép lạ này thực ra là do chư tiên và hộ pháp ở Long Hải hỗ trợ, khi thấy "bậc thượng thủ" Anton trên biển.
Phép lạ tiếp nữa, tìm đồ vật thất lạc. Anton có khả năng suy đoán như thần, đã khai mở "thần thông" công năng đặc dị: Thiên nhãn thông, dùng để tìm đồ... Ông A đi chỗ nọ, bỏ quên vật kia ở quanh đó. Bà B về nhà đãng trí cất cái quan trọng ở chỗ nào xong không nhớ ra. Mấy người C, D, E, F, cũng đại khái như vậy. Đến trình bày với Anton thì sau một hồi hỏi những chỗ đã đi, những việc đã làm, những gì đã quên. Rốt cục người ta tìm lại được vật nọ.
Tiếp đến, phép lạ "bế Hài Đồng giữa đêm khuya". Có người chợt thấy phòng Anton rực sáng giữa đêm khuya. Nhìn vào thì thấy Anton đang bế tượng chúa Hài Đồng và âu yếm trò chuyện. Thấy mặt ngài rực sáng. Thì ra, ban đêm phòng thắp sáng, mà trên tay Anton cũng có một cây nến nữa. Chả là, Anton rất yêu trẻ con. Đời ấy đi tu, vào dòng rồi thì con cái thế nào được nữa. Vợ không có thì con đào đâu ra? Đêm ấy Anton xúc động thế nào, mới bế bồng tượng chúa Hài Đồng mà coi đó là người con, âu yếm trò chuyện, ru con cho khuây khỏa. Vừa thủ thỉ tâm sự vừa rơi lệ cả đêm. Người kia nhìn thấy tưởng rằng quả thực chúa Hài Đồng đã nhập vào tượng. Quả thực thiêng liêng chí thánh tột cùng!
Tiếp theo, phép lạ uống thuốc độc không chết. Vì có kẻ mạn nghi ghen ghét, Anton muốn cảm hóa và cải biến hắn. Nên nốc cạn ly thuốc độc. Uống xong không chết ngay nhưng dần sinh bệnh. Cơ thể đau đớn vô cùng, qua đời ở tuổi ba mấy. Việc này cũng liên quan đến "phép lạ" chiếc lưỡi hồng. Khi chết, độc đã phân tán khắp nơi và tích tụ lại ở lưỡi. Thứ độc bằng cách nào đó đã lưu chuyển và đọng lại ở lưỡi, nên chiếc lưỡi mới lâu phân hủy hơn các bộ phận khác. Cũng có thể đây thực sự là phép màu "xá lợi lưỡi" để lại do tâm thức, tâm ý và thần trí của Anton đặt định vào việc thuyết giảng linh thiêng trọn một đời ấy. (Như "xá lợi tim" của hòa thượng Quảng Đức sau khi đem thiêu nhiều lần vẫn không cháy vậy.)
Tiếp theo, nội lực thâm hậu, để lại dấu tay vẽ hình chữ thập trên thềm đá. Thời xưa đổ bê tông xây dựng cũng như bây giờ, cách thức và chất liệu có khác nhưng công đoạn cũng tương tự. Xây thềm đá cũng cần thời gian đợi cho nó khô cứng. Trong khi chờ đợi thì Anton có vẽ chơi một vài đường. Kiểu như dấu vết trên xi măng chưa khô vậy.
Tiếp, xóa mọi tội lỗi thành trang giấy trắng. Có người đàn ông này đến xưng tội, thú nhận những việc xấu ác đã làm, ghi hết vào một mảnh giấy. Hồi đó, nhà thờ có thực hiện các lễ "giải tội, tha tội" như đã đề cập ở chương trước. Linh mục có quyền năng "tha tội" một ai đó là chuyện khiến người ta nửa tin nửa ngờ. Làm gì có chuyện dễ dàng như vậy. Chỉ mấy cái khấn vái lễ lạy là xong, phủi phui mọi tội lỗi hay sao?
Người đàn ông này rất thành tâm hối cải, Anton thấy đây là một con chiên ngoan đạo. Mọi tội lỗi của mình ông ta đều không bao giờ quên được, từ việc lấy của ai một cái gì, trộm của ai một vật nhỏ xưa nay. Ông ta đều ghi hết vào mảnh giấy đưa cho Anton. Tội nhẹ đã vậy, còn tội nặng hơn như: Gian dâm, tà dâm. Rồi gần nhất là đẩy một người vào tù tội, làm chết oan một người. Ông ta ngày đêm đau buồn hối hận, lương tâm cắn dứt đến không sao sống nổi. Ông viết vào mảnh giấy chi tiết những tội của mình. Sau đó Anton làm lễ, đưa lại cho ông ta mảnh giấy gói trong một túi nhỏ, dặn ông ta mang về và đốt đi, về đến nhà mới được mở ra, không là mất thiêng. Ông ta nghe lời, về đến nhà mở ra thì tờ giấy trắng tinh. Ông ta nghẹn ngào đến rơi nước mắt, quay lại hỏi thì Anton bảo đó là phép màu, có được do Thiên Cổ đã trao quyền năng tha thứ cho các linh mục. Chính nhờ sự tích 'thần bí" này, về sau sự mua bán các "indulgence" (lễ xá tội) mới diễn ra phổ biến mãi mấy trăm năm sau đó. Thực ra Anton chỉ đánh tráo một tờ giấy trắng mà thôi, có gì to tát đâu.
Một số phép lạ khác được đề cập trong sử sách ở hạ giới như: Anton "dịch chuyển tức thời" để cứu cha gặp nạn. Anton dựng người chết sống lại, nói một lời để minh oan cho cha. Chứng minh cha không phải kẻ giết người.
Những chuyện này đều nhuốm yếu tố kỳ ảo, lưu truyền qua thời gian bởi những người sùng mộ. Cũng tương tự thế là chuyện về "Đức Mẹ Đồng Trinh".
Có bột mới gột nên hồ, quả thực, một nửa của truyền thuyết là sự thực. Song sự thực nông hay sâu, liên quan đến đâu là do cảm hiểu của mỗi người. Thậm chí, có khi chính những đối tượng liên quan, được nhắc tới, những nhân vật chính trong truyền thuyết hay huyền sử, cũng không còn nhớ nội dung chi tiết những gì đã diễn ra.
Đời là mộng ảo trường kỳ. Song những ai Quy Tiên trong Đại Đạo Vô Kỷ thì đều biết về Sự Thật - Thực Tại chân xác không hề bịa đặt hay thêu dệt: là Tình Yêu rất đỗi Thiêng Liêng Vô Hạn.
- - -
Người ta chỉ sợ hay nể, quy phục hay tán thán, thờ thiêng những "phép lạ" bất thường nào đó, mà không hiểu rằng chính sự sống này đã là một phép lạ vô cùng.
Thần thông là có thật. Sự thật có những vị đế tinh quân trên cao và cao hơn nữa, những bậc thượng tiên, với những năng lực - quyền năng phi thường, có thể thực hiện vô số thuật phép (kỹ thuật - phép lạ) như rời non lấp bể, kéo một vì sao đặt vào chỗ nào đó và khiến nó vận hành theo quy củ trong một thời gian đại kiếp Thiên Đàng. Hay là có cả một Bộ Giáo Dục và Đào Tạo Linh Hồn, chuyên sắp đặt, lên lịch, đưa từng sinh linh vạn hữu đi đầu thai, chính xác ở một nơi nào đó trong từng phòng học Thế Giới Hồng Trần (Thế Giới Vật Chất nói chung).
Sa mạc khi xưa là biển cả. Vì biển mặn mòi nên chẳng có gì mọc lên được từ đất trên sa mạc ngoài mấy cây đặc thù. Nhưng tảo thì mọc trong nước biển. Cũng như thế có những sự đặc thù khó lý giải, như vì sao ngày nào mặt trời, mặt trăng cũng mọc rồi lặn mà không biết chán? Vì sao người ta sinh ra hay chết đi mà không biết chán? Hàng vạn câu hỏi vì sao trên đời.
Một cái cây phải chết đi vì như thế thì nó mới hoàn thành xứ mệnh trở thành một trang giấy trắng cho người ta viết lên. Một cái cây phải chết đi để có chỗ cho cây khác mọc lên, hay có chỗ cho những ngôi nhà mọc lên. Sự chết đi ấy chỉ là tạm thời, hình dạng tạm thời ấy thay đổi thành một hình dạng khác.
Kỳ lạ thay là phép lạ thời gian, ngày tháng. Kỳ lạ thay là Thế Giới Hồng Trần.
No comments:
Post a Comment