Tuesday, June 27, 2023

C60: William Tyndale (1494 - 1536)

WILLIAM TYNDALE (1494 – 1536)

Khi niềm say mê biết tới Sự Thật trở nên lớn lao quá đỗi, người ta sẵn sàng hy sinh mọi thứ, thậm chí cả mạng sống mình, cho kho báu trí thức, chân tri một điều gì.

William Tyndale là một học giả có nền tảng giáo dục tốt ở Anh. Ông nhận ra nhiều hạn chế của nền giáo dục nước nhà. William học ở Oxford, Cambridge, lúc bấy giờ tuy đã là hai trường danh giá và có tiếng ở Anh, song William không thỏa mãn với những gì được dạy. Ông nói: “Trong các trường đại học, họ quy định (ordain) rằng không ai được đọc Kinh Thánh cho tới khi đã học tới năm thứ tám hoặc chín. Như thế người ta đã giới hạn và triệt tiêu mọi sự hiểu biết về Thiêng Liêng, điều là đầu tiên và thứ nhất mà một học sinh phải học ở trường. Họ dạy những quy tắc giả trá và trang bị cho người ta những vũ khí để thủ tiêu chân tri…”

William Tyndale đã quyết tâm tận hiến đời mình để cải biến chướng ngại này. Với ông, Kinh Thánh “phổ cập dành cho mọi người” chính là đáp án cho giáo dục phổ thông, và giải pháp để chấm dứt tình trạng mục nát, tham nhũng trong nhà thờ lúc bấy giờ. Kinh Thánh “cho mọi người” có nghĩa là tất cả mọi người đều có thể tự uống từ suối nguồn sự thực, không cần phải qua linh mục hay ai khác. Linh mục biết đọc thì người thường cũng biết đọc, nếu một cuốn Kinh Thánh bằng tiếng bản ngữ Anh quốc được ra đời.

William Tyndale sinh năm 1494 ở Gloucester, England (Anh), gần biên giới Welsh. 90 năm trước đó, nhà thờ đã cấm lưu hành bản kinh thánh bằng tiếng anh duy nhất, là bản chép tay cuốn kinh thánh mà John Wycliffe đã dịch.

<John Wycliffe là người đầu tiên dịch Kinh Thánh từ tiếng Latin sang tiếng Anh vào năm 1380. Ông cũng thành lập một nhóm học giả nghiên cứu và giảng dạy sâu sắc những gì đề cập trong Tân Ước. John Wycliffe trước cả Martin Luther, là người tiên phong cho thời kỳ cải cách tôn giáo, chương về Jan Hus và Jerome đã đề cập đến Wycliffe. John Wycliffe đột quỵ vào năm 1384 và 44 năm sau cái chết của ông, giáo hoàng vẫn hận đến nỗi ra lệnh đào xương cốt ông lên để thiêu và phá hủy, đốt mọi văn bản giấy tờ liên quan đến ông.

Song bản kinh thánh phiên dịch, tác phẩm quan trọng nhất thì đã được chép tay bởi nhiều học giả và William Swinderby là một trong số đó. Tên vị này có chút gần giống với William Tyndale, Swinderby cũng là một vị tử đạo, nhân đây dành vài dòng tưởng nhớ tới ông:

Sau khi John Wycliffe qua đời, William Swinderby lúc đó là một linh mục ở giáo phận Lincoln. Ông giảng dạy nhiệt thành những tư tưởng trong Tân Ước và vì thế vi phạm vào những điều cấm của giáo hội. Đe dọa và tuyệt thông vẫn không làm nhụt chí ông, William Swinderby tiếp tục giảng dạy và truyền đạo “trái phép” trong suốt 10 năm kể từ lần thứ hai bị bắt giữ. Không ai biết cụ thể những gì đã xảy ra trong chương cuối của cuộc đời William Swinderby, người ta chỉ biết rằng trái tim và tâm trí ông hướng tới một chân lý: Rằng Kinh Thánh là nền móng duy nhất của đức tin, không phải linh mục, không phải nhà thờ. Đức tin chỉ có thể có được thông qua sự hiệp thông của mỗi cá nhân – mỗi cá nhân cần đọc và cảm nhận trực tiếp những lời thiêng. Mối quan hệ giữa Thiên Chúa và Con Người là mối quan hệ của cá nhân mỗi người, mỗi người cần có trách nhiệm tự mình sốt sắng vì đó.

Hy vọng lớn lao nhất của William Swinderby có lẽ chính là phổ cập Kinh Thánh cho đại chúng, và dù ông không phải là người thực hiện điều đó bởi ông đã bị thiêu trên giàn hỏa vào năm 1401. William Tyndale là người làm tiếp công việc này.>

Bản dịch đầu tiên Kinh Thánh ra tiếng Anh của Wycliffe còn nhiều thiếu sót, nhưng đó là công trình xương máu của rất nhiều người gìn giữ. Trong những năm ấy, ai có nó là phạm pháp. Tyndale cuối cùng cũng sở hữu được một bản như thế. Ông còn đi xa hơn nữa, đối chiếu với Kinh Thánh bằng tiếng Hy Lạp và tiếng gốc Hebrew để hoàn thiện cuốn Kinh Thánh bằng tiếng Anh theo văn phong chuẩn chỉ, dễ đọc, dễ hiểu và chính xác với nghĩa gốc nhất có thể. Để người ta thậm chí có thể dựa vào đó mà dạy trẻ em biết đọc biết viết. Nhà đa ngôn ngữ William Tyndale khi ấy mới 30 tuổi.

Công việc không dễ dàng mà luôn trên bờ vực bị bắt bớ. Tyndale phải trốn khỏi Anh quốc. Ông tới Đức (Germany) và hoàn chỉnh Tân Ước vào năm 1525. Rồi lại tới Antwerp để trốn khỏi truy nã của đặc vụ giáo hội, tiếp tục hoàn thành Cựu Ước và cho in ra nhiều bản bản cuốn Kinh Thánh hoàn chỉnh bằng tiếng Anh, nhờ máy in phát minh bởi Gutenberg.

Ở Belgium, William Tyndale gặp một nhóm thương gia người Anh và từ đó ông đã bị phát giác. Henry Phillips đã tiếp cận ông dưới danh nghĩa bạn bè và rồi phản bội bằng việc tố giác ông cho chính quyền - giáo hội ở Anh. Tháng 5 năm 1535, ông bị bắt giữ và giam cầm tại Vilvoorde, gần Brussels. Ở đó ẩm ướt và lạnh lẽo trong suốt 18 tháng trước khi ông được điệu ra pháp tòa dị giáo với hàng loạt tội danh quen thuộc: chia rẽ tín chúng, gây hấn và tấn công nhà thờ, chống phá giáo hội, tuyên truyền những điều tà vạy, trái pháp luật,…

Biết cái chết là tất yếu, William Tyndale vẫn làm việc bên những trang viết, hoàn thiện và sửa đổi nốt một số dòng dịch thuật cuối cùng, trong cái lạnh của nhà tù và ánh sáng leo lắt của mùa đông nước Anh. Tuy cả người và tay run rẩy, những dòng chữ vẫn cứng cáp trên những trang giấy, mà mấy trăm năm sau vẫn còn bản lưu trữ. Nhờ một cai ngục đã cảm thông giữ hộ.

Tháng 10 năm 1536 khi trời vừa rạng sáng, William Tyndale ra pháp trường. Theo thông lệ: đối với những kẻ “dị giáo”, trước khi chết, người ta sẽ đưa ra một Ly Cứu Chuộc (Mass – kỷ niệm bữa tiệc ly cuối cùng của Đức Christ), đặt nó vào tay kẻ “tội đồ, “phản nghịch”, “ngoại đạo”…  để thể hiện lòng khoan dung của Nhà Thờ Giáo Hội, ban cho y một cơ hội ân xá vào phút chót, nếu kẻ đó công khai thừa nhận sai lầm và hối cải về việc đã làm. Nhưng đó chỉ là thủ tục chóng vánh một cách lố bịch, chiếc ly nhanh chóng bị giật lại.

Và William Tyndale hay những vị tử đạo khác vì tội danh “dị giáo” xưa nay vốn không bao giờ thừa nhận những gì mình đã làm là sai trái. Bởi sự thực, Quan tòa lương tâm – Đấng Phán Xét Cao Cả biết những điều ấy chẳng có gì là sai trái cả.

Bị trói vào giàn thiêu, khi ngọn lửa bùng lên, người ta nghe thấy William Tyndale cầu nguyện lớn tiếng rằng: “Đức Chúa, hãy mở mắt nhà vua Anh quốc.”

Lời cầu nguyện cuối cùng dành cho vị vua tàn bạo của nước Anh lúc bấy giờ là Vua Henry VIII. Thực vậy, lời cầu khẩn - trăng trối ấy đã ứng nghiệm. Không lâu sau cái chết của William Tyndale, vua Henry VIII cho phép (authorize) lưu hành và phân phát rộng rãi bản in Tân Ước, là cuốn Kinh Thánh Ma-thi-ơ.

Giáo hội không được phép “độc quyền” mọi tri thức trong Kinh Thánh như xưa nữa bởi mọi sự giữ bản quyền tri thức là ngạo mạn. Năm 1539, luật mới ban hành, vua ra lệnh yêu cầu tất cả những máy in trong và ngoài nước, những nhà xuất bản sách (sellers of books) phải ưu tiên cung cấp cuốn Kinh Thánh bằng tiếng Anh, để người dân Anh được tự do sử dụng, học nó bằng tiếng mẹ đẻ.

Giấc mơ và nguyện ước khẩn khoản của William Tyndale cuối cùng đã trở thành sự thật.

No comments:

Post a Comment