Chương 56: Thượng tiên Milarepa
“Con lễ lạy dưới chân Marpa Dịch Giả, Bậc cha lành bảo bọc tất cả chúng sanh, Người đã thành tựu mục đích của mình.
Hỡi các đệ tử tụ hội nơi đây, hãy lắng nghe ta. Các con đã tốt lòng với ta, Và ta đầy lòng bi mẫn cho các con.
Nguyện cho Đạo sư và đệ tử, biết ơn lẫn nhau, Sẽ gặp lại nhau trong Tịnh Độ của Phật.
Nguyện tất cả những tín đồ và thí chủ có mặt ở đây Có hạnh phúc và cuộc đời trường thọ.
Nguyện những nguyện vọng tâm linh của họ được thành tựu, Không có tư tưởng tác hại khởi lên.
Nguyện cho vùng này được ban phước, Nguyện nó thoát khỏi bệnh tật và chiến tranh, Có được những vụ mùa sung túc và đầy đủ phước lành.
Nguyện những tín đồ luôn luôn tận tình với Pháp.
Nguyện ta sẽ gặp lại trong Cõi Phật Thanh Tịnh Những ai đã thấy hay đã nghe ta, Những ai nhớ đến câu chuyện đời ta, Những ai chỉ nghe kể chuyện hay nghe đến tên ta. Nguyện những ai thi đua với cuộc đời ta và thiền định,
Những ai hỏi, kể lại hay nghe chuyện đời ta, Những ai đọc và tôn sùng nó, Những ai theo gương mẫu của ta trong cuộc đời họ, Nguyện họ tìm thấy ta trong Cõi Phật Thanh Tịnh vô biên.
Nguyện những người của đời tương lai viễn kiếp, Nếu họ có thể thiền định Với khổ hạnh như ta đã thực hành, Được miễn khỏi mọi chướng ngại và lỗi lầm.
Nguyện những ai thực hành Pháp qua khổ hạnh Được thu hoạch vô vàn công đức. Với người khuyến khích những người khác theo con đường này, Sẽ được vô lượng lòng biết ơn công đức. Nguyện cho những ai nghe đến câu chuyện ta nhận được những ban phước vô cùng.
Qua ba sự ban phước vô lượng này, Nguyện những ai chỉ nghe cuộc đời ta được viên thành giải thoát, Nguyện những ai thiền định về nó sẽ hoàn thành mục đích của họ.
Nguyện những ai thiền định trong những hang động của ta, Nguyện những ai thờ vài vật dụng ta có, Nguyện tất cả chúng đem lại hạnh phúc cho bất cứ nơi nào chúng ở.
Nguyện ta ôm trọn tất cả không gian Như không gian ôm lấy đất, nước, lửa, gió. Nguyện tám bộ Thiên Long, và những chủ thần địa phương Không gây chướng ngại và hộ trì Phật pháp.
Nguyện những mong muốn của những tín đồ Được thành tựu hài hòa với Pháp. Nguyện tất cả chúng sanh, dù là chúng sanh thấp nhất, Trong đời đời được giải thoát qua ta.”
Nhận được những ban phước này, những đệ tử tại gia rất hoan hỷ. Những người ở khắp Nyanang và Dingri sợ rằng Đạo sư Milarepa sắp tịch, đến cầu xin ngài ban phước và hiến mình vào Pháp như chưa từng có trước đây. Dân chúng vùng Drin, Repa Ánh Sáng Bình An và những đại đệ tử khác cầu khẩn Đạo sư đừng bỏ họ. Đạo sư bèn đến ở Drin trong một cái thất được dựng cho Ngài trên đỉnh một tảng đá lớn, có hình giống như đầu một con rắn, gọi là Rekpa Dukchen (Độc Khi Chạm Vào), để hàng phục thiên long Dolpa Nakpo (Đao Phủ Đen). Tại đó, Ngài dạy cho dân chúng vùng Drin. Chấm dứt thời thuyết pháp Đạo sư nói, “Các vị nếu có những nghi ngờ thắc mắc trong những giáo huấn của ta, thì hãy hỏi ngay đi, bởi vì không chắc ta sẽ còn sống lâu đâu.”
Những nhà sư trước hết cử hành một lễ cúng và rồi nhận những giáo huấn trọn vẹn. Trong đám đông các nhà sư bao quanh Đạo sư, có Repa vùng Digom và Repa vùng Seban bạch hỏi rằng, “Qua những lời dạy của Thầy, chúng con không tin Thầy sẽ sớm vào niết bàn. Có lẽ cuộc đời Thầy chưa chấm dứt.”
“Đời thầy đã hết và sứ mạng thầy đã hoàn thành. Những dấu hiệu của cái chết của thầy sẽ sớm trở nên rõ ràng.”
Vài ngày sau, Đạo sư biểu lộ những dấu hiệu bệnh. Repa vùng Ngandzong nói với Ngài, “Thưa Đạo sư, chúng con, những đệ tử của Thầy sẽ làm lễ cúng cho những lama, yidam, dakini và những thần hộ pháp. Chúng con cũng sẽ cử hành lễ trường thọ và đồng thời dâng thuốc thang trị liệu cho Thầy.”
Repa vùng Ngandzong gọi các đệ tử khác giúp ông sửa soạn lễ cúng. Bấy giờ Đạo sư nói với ông:
“Đối với một hành giả ẩn sĩ, bệnh tật thường là một sách tấn cho thực hành tâm linh. Không cử hành lễ nào cả, người hành giả phải chuyển hóa mọi kinh nghiệm của những điều kiện đối nghịch thành sự chứng đắc cao cả và phải có thể đối mặt với bệnh tật và thậm chí cả cái chết. Riêng về phần thầy, Milarepa, theo những giáo huấn của lama bi mẫn Marpa, thầy đã thực hiện mọi nghi thức, nên thầy không cần lễ cúng thứ nhất hay thứ hai. Bởi vì thầy đã chuyển hóa những điều kiện đối nghịch thành những yếu tố thuận lợi, thầy không cần lễ, nghi thức làm hòa hay kêu cầu bằng trống. Những thần linh xấu ác xuất hiện với thầy đã bị hàng phục và chuyển hóa thành những lực lượng bảo vệ để giúp đỡ chúng ta trong việc thực hiện Thần Lực của Hoạt Động Bốn Phần.(4) Thầy không muốn thuốc thang bằng sáu loại cây thuốc, bởi vì bệnh tật của năm độc trong thầy đã trở thành Năm Phương Diện của Tánh Giác Siêu Việt (Năm Trí). Và như thế, thầy không cần thuốc."
“Bây giờ đã tới thời, thân thể tứ đại của thầy được chuyển hóa vào một hình thức vi tế hơn, và tan biến vào một trạng thái hoàn toàn thức tỉnh của tánh Không. Người đời kinh nghiệm những hậu quả của những nhiễm ô cấu uế của họ hiện thành chu kỳ sanh, già, bệnh, chết. Họ không thể tránh khỏi chu kỳ đó bằng thuốc men hay nghi thức. Họ phải đối diện với nó không cách gì thay đổi được. Không có gì có thể làm ngưng dứt chu kỳ đó, quyền lực của vua chúa, những công trạng của các anh hùng, sắc đẹp và phụ nữ, sự thịnh vượng của người giàu có, sự mau mắn của kẻ hèn nhát, sự van nài của người thông thái. Nếu các con biết sợ cái khổ đau này và ước muốn hạnh phúc, thì thầy biết một phương tiện hiệu quả để dẹp bỏ khốn khổ và thành tựu an bình vĩnh phúc.”
“Xin Thầy ban nó cho chúng con.”
“Tốt lắm. Bản chất của sanh tử là như vậy, giàu có đã tích tập phải được phân tán, nhà cửa được xây phải bị hủy hoại, kết hợp phải bị chia lìa, và tất cả cái gì có sanh ra đều phải chết mất. Bởi vì người ta phải chịu đựng hành động của mình không cách gì tránh khỏi, người ta phải buông bỏ những mục đích thế gian, từ bỏ tích tập, xây dựng và kết hợp. Phương thuốc tốt nhất là chứng ngộ chân lý tối hậu của thực tại dưới mệnh lệnh của một Đạo sư giác ngộ. Hơn nữa rồi thầy sẽ có những giáo huấn rất quan trọng cho các con như là chúc thư cuối cùng của thầy. Các con hãy ghi nhớ.”
Repa Ánh Sáng Bình An và Repa vùng Ngandzong tiếp tục cầu xin, “Bạch Đạo sư, nếu Thầy có sức khỏe, Thầy sẽ đáp ứng những mục tiêu của nhiều chúng sanh hơn nữa. Dù Thầy không chấp nhận cho mong muốn của chúng con, chúng con xin cầu khẩn Thầy được thực hiện một lễ cúng theo truyền thống bí mật, và Thầy dùng một ít thuốc, và cũng cho chúng con cầu nguyện cho sự trường thọ của Thầy, để ít nhất chúng con không ân hận.”
Đạo sư trả lời :
“Nếu thời viên tịch của thầy chưa tới, thầy sẽ làm cả hai điều các con yêu cầu. Nhưng cử hành một nghi lễ để Cầu gọi một yidam hầu kéo dài tuổi thọ mà không quan tâm tới lợi lạc của chúng sanh thì cũng giống như mời một ông vua bước xuống ngai để chùi sàn nhà.
“Chớ bao giờ sử dụng phương tiện bí mật của Kim Cương thừa cho những mục tiêu thế gian của các con. Trong hoang vắng núi non, thầy đã không ngừng cử hành những lễ nghi cao tột nhất cho những chúng sanh chưa giác ngộ, thế nên không cần lễ nghi nào khác nữa.
“Bởi vì tâm thức thầy không cách hở chút nào với Pháp Giới Tánh Không Bao Trùm Khắp, thế nên không cần những lời cầu nguyện để sống thọ. Những phương thuốc của Tổ Marpa đã nhổ sạch năm độc ở tận gốc của chúng. Những phương thuốc ấy đã đủ rồi.
“Nhưng nếu các con không có khả năng chuyển những điều kiện đối nghịch thành thuận lợi cho việc thành tựu những mục tiêu của các con, và nếu thời ra đi của các con chưa đến, bây giờ dùng thuốc men trị bệnh và áp dụng những cách chữa lành tâm linh để vượt qua những chướng ngại thì không có gì sai lầm cả, bởi vì một khả năng làm như vậy vẫn còn hiện hữu. Như ngày xưa đức Phật đã đưa tay cho y sĩ Shonnu(5) và dùng thuốc của ông vì nghĩ đến những chúng sanh khổ đau. Nhưng khi thời của Ngài đến, thì dù Ngài là một vị Phật, Ngài cũng ra đi. Thời của thầy cũng đã đến. Đó là lý do tại sao thầy sẽ không dùng thuốc.”
Bấy giờ hai đệ tử Repa thưa hỏi, “Nếu Thầy phải ra đi vì lợi lạc cho những chúng sanh khác, thì chúng con sẽ cử hành những lễ cầu nguyện, lễ an táng và trà tỳ như thế nào ? Chúng con có làm những tượng nhỏ từ tro xương và xây dựng một cái tháp hay không ? Vị nào sẽ dẫn dắt dòng phái truyền thống của chúng con ? Chúng con sẽ làm lễ cúng Thầy hàng năm như thế nào ? Mỗi lễ giỗ chúng con sẽ cúng vật gì ? Chúng con sẽ theo đuổi việc cầu đạo qua nghe, hỏi và thiền định như thế nào ?”
Đạo sư trả lời:
“Nhờ sự dẫn dắt của Marpa Bi Mẫn, thầy đã hoàn thành công cuộc giải thoát. Hoàn toàn không chắc chắn rằng một người ẩn tu đã thức tỉnh, thân ngữ tâm của người đó đã đạt đến trạng thái cao nhất là Pháp thân, sẽ để lại cho đời một xác chết. Vậy thì cần gì làm tượng nhỏ hay xây một cái tháp. Thầy không có chùa chiền hay tu viện, bởi thế không có một trung tâm được xây dựng nào cho Dòng Phái. Hãy nhận lấy núi non cằn cỗi phủ tuyết làm chỗ ở của các con. Hãy xem chúng sanh sáu nẻo là đệ tử của các con và cho họ sự bảo bọc và lòng bi. Thay vì nặn những tượng nhỏ, hãy thiền định bốn thời một ngày. Thay vì xây dựng một cái tháp, hãy khai triển những thấy biết cao hơn về pháp giới và giương cao ngọn cờ thiền định. Cách cúng giỗ hay nhất là có lòng tôn kính đối với lama của mình.
“Về con đường tu hành, hãy từ bỏ tất cả những cái gì làm tăng thêm chấp ngã và những độc bên trong, dầu cho bề ngoài chúng có vẻ tốt đẹp. Ngược lại, hãy thực hành tất cả những cái gì diệt trừ năm độc và giúp đỡ những chúng sanh khác, dù cho bề ngoài những việc ấy có vẻ xấu xa. Điều này thiết yếu tương ưng với Pháp. Dù cho các con có thể học rộng bao nhiêu chăng nữa, nếu các con thiếu kinh nghiệm sâu xa về thực tại và nếu các con biết mà vẫn cố tình dung túng cho những hành vi tai hại, thì các con chỉ ném mình sâu vào những cõi thấp bởi sự tự làm cho mình mê lầm. Bởi vì cuộc đời thì ngắn ngủi và giờ chết không thể biết, hãy hiến mình trọn vẹn cho thiền định. Hãy hành động một cách khôn ngoan và can đảm theo lương tri phân biện bẩm sanh của các con, dù với cái giá của đời mình. Tóm lại, hãy hành động làm sao để các con sẽ không hổ thẹn.
“Nếu các con theo những chỉ thị này một cách cẩn trọng chăm chú, thì dù các con có đi trái với câu chữ của kinh điển, các con sẽ không đi trái với những ý định của chư Phật trong ba đời và cũng sẽ đáp ứng được ước muốn của lão già này. Đó là tinh túy của mọi cái nghe, hỏi và thiền định. Nếu ước nguyện của thầy được thành, thì các con sẽ hoàn thành công việc giải thoát của các con. Ngược lại, mọi cố gắng để thỏa mãn những tham muốn thế gian là vô ích.”
Sau khi nói thế, Ngài hát Bài Ca Chứng Đắc:
“Con lễ lạy dưới chân Marpa Dịch Giả. Những đệ tử quy tụ nơi đây, Hãy nghe đây bài ca giáo huấn cuối cùng. Nhờ lòng bi của Marpa Vách Núi Phía Nam, Ẩn sĩ già nua Milarepa Đã hoàn thành toàn bộ công việc của nó.
Tất cả các con, đệ tử và nhà sư, Nếu các con chú ý đến lời ta, Các con sẽ hoàn thành trong chính đời này. Công việc vĩ đại cho chính các con và cho những người khác, Và như thế thành tựu những ý định của chư Phật ba đời và của chính ta. Ngoài ra tất cả những công việc khác Đều đi ngược lại với nhu cầu của bản thân và của nhiều người khác, Và không thỏa ước nguyện của thầy. Nếu không có sự hướng dẫn của một đạo sư truyền thừa Có ích gì tìm kiếm thọ pháp nhập môn ? Nếu không được Pháp và tự tâm hòa lẫn Có dùng gì sự nhớ thuộc những Tantra ? Nếu không buông bỏ những mục tiêu thế tục Có ích gì thiền định theo những giáo huấn chỉ bày? Nếu thân, ngữ, tâm không tương ưng với pháp tánh Tốt đẹp gì những buổi lễ thức nghi?
Nếu như nhục mạ không như gió thổi trong không Tốt đẹp gì khi thiền định về nhẫn nhục ? Nếu không vượt qua tham luyến và ghét bỏ Có ích gì những dâng cúng, hy sinh ? Nếu không nhổ tận gốc chấp ngã Tốt đẹp gì bố thí nọ kia ? Nếu không nhìn tất cả chúng sanh như cha mẹ Tốt đẹp gì cai quản một tu viện thênh thang?
Nếu đức tin không lớn lên trong tâm thức
Có ích gì xây những tháp bên ngoài ?
Nếu không thể một ngày bốn thời thiền định
Có ích gì nặn những tượng nhỏ cúng thờ ?
Nếu không kêu cầu ta với lòng ngưỡng vọng sâu xa.
Tốt đẹp gì khi mỗi năm cúng giỗ?
Nếu không chú ý những giáo huấn của thầy
Tốt đẹp gì khóc than khi thầy chết ?
Nếu không sùng kính thầy khi còn sống
Tốt đẹp gì chiêm ngưỡng xác chết của ta?
Nếu không ghê sợ sanh tử và cấp bách giải thoát
Tốt đẹp gì đức hạnh xuất gia ?
Nếu không học cách thương yêu những người khác hơn bản thân
Tốt đẹp gì những lời ngọt ngào thương xót ?
Nếu không nhổ sạch gốc mê lầm và tham muốn
Lợi lạc gì khi phụng sự lama ?
Nếu không nghe những lời ta nói
Tốt đẹp gì khi đệ tử đông đầy?
Hãy vất bỏ mọi hành động vô ích, Chẳng lợi lạc gì mà chỉ hại các con. Một ẩn sĩ đã hoàn thành mục đích, Ta không cần một việc gì thêm.”
Những đệ tử xúc động sâu xa vì những lời dạy này. Sau đó Đạo sư tỏ ra những triệu chứng bệnh nặng, vì thế Geshe Tsakpuhwa mang một số thịt và bia, và lấy cớ đó để hỏi về sức khỏe của Ngài. Ông nói với Đạo sư, “Thực là đau xót khi một cơn bệnh như thế giáng xuống một vị thánh như Đạo sư. Nếu có thể chia xẻ được, xin Ngài chia bớt nó cho những đệ tử của Ngài. Nếu có cách chuyển nó đi, thì hãy chuyển nó cho một người như tôi chẳng hạn. Nhưng điều đó không thể được, vậy thì nên làm gì?”
Đạo sư mỉm cười và nói, “Ông biết rất rõ bệnh tôi không phải từ lý do tự nhiên gây ra. Dầu sao đi nữa, bệnh tật nơi một con người bình thường cũng không thể giống như trong một người tu hành. Ta chấp nhận nó như một cơ hội đặc biệt cho sự chuyển hóa bên trong. Ta mang bệnh này như một đồ trang sức.” Nói thế xong, Đạo sư hát:
“Trong Tánh Giác Tối Hậu rỗng nhiên Sanh tử và niết bàn được thấy biết là một. Để thấy biết Thực Tại Chân Tánh rốt ráo, Ta đóng lên mọi sự Đại Ấn của tánh Không.(6) Đây là tinh túy của cái bất nhị, Như hư không thản nhiên với chướng ngại. Bệnh tật, ác ma, tội nghiệp và vô minh Là những đồ trang sức của ta, ẩn sĩ hiện tiền. Trong ta, chúng là hệ thống kinh mạch, khí và hạt. Với ta, bố thí trì giới và những đức hạnh khác Là một trăm mười hai dấu hiệu của Phật tánh. Bệnh tật này quá chừng thích hợp với ta ; Ta có thể chuyển nó, nhưng không có lý do gì để làm thế.”
Vị Geshe nghĩ, “Ông ta nghi ngờ mình cho ông ta thuốc độc, nhưng ông ta không chắc. Dù ông ta có lý do để chuyển bệnh tật đi, ông ta cũng không có thể làm được.” Thế nên ông nói, “Nếu tôi biết gốc bệnh của Đạo sư, và nếu đó là một hồn ma xấu ác, tôi sẽ trục trừ nó. Nếu là một rối loạn về thể xác, tôi sẽ chữa cho ngài. Nhưng tôi không biết ngài có bệnh gì. Thế nên nếu ngài có thể chuyển cơn bệnh của ngài, xin hãy chuyển qua tôi.”
Và Đạo sư nói, “Chúng sanh bị ám chướng bởi con quỷ chấp ngã, đó là con quỷ xấu xa nhất trong tất cả. Chính con quỷ đó gây ra bệnh tật của ta. Ông không thể trừ tà hay chữa thuốc cho ta. Nếu ta chia xẻ cơn bệnh này với ông, ông không thể chịu đựng nó nổi trong chốc lát. Ta sẽ không chuyển nó.” Vị Geshe nghĩ, “Ông ta không thể chuyển nó. Ông ta đang giả bộ.” Thế nên ông năn nỉ, “Xin hãy chuyển nó cách nào cũng được.” “Thôi được, ta sẽ không chuyển nó cho ông, mà sẽ chuyển nó vào cánh cửa kia. Hãy cẩn thận chờ xem.”
Và Ngài chuyển nó sang cánh cửa thiền phòng. Lập tức có tiếng răng rắc lớn phát ra, và lay chuyển dữ dội, cánh cửa bắt đầu vỡ ra từng mảnh. Vào lúc đó, Đạo sư có vẻ đã hết bệnh. Vị Geshe nghi ngờ đây là một trò lừa bịp ảo thuật và nói, “Lạ lùng thật ! Bây giờ xin hãy chuyển cho tôi.”
“Tốt lắm ! Ta sẽ cho Geshe nếm một ít cơn bệnh đó.” Đạo sư rút cơn bệnh khỏi cánh cửa và chuyển nó cho Tsakpuhwa, ông ta sụp đổ vì đau đớn. Tê liệt và choáng váng, ông sắp chết đến nơi. Rồi Đạo sư lấy lại một phần lớn cơn bệnh và nói, “Ta chỉ cho ông một nửa của cơn bệnh của ta mà ông đã thấy không thể chịu nổi nó.”
Đầy ăn năn vì đã chịu một cơn đau như thế, vị Geshe ném mình khóc lóc dưới chân Đạo sư. “Ôi Đạo sư Tôn Quý, ôi Thánh nhân, đúng như Ngài dạy, chính cái người bị quỷ ám đã làm điều xấu xa này cho Ngài. Con xin cúng dường nhà cửa, tài sản, mọi thứ con có cho Ngài. Xin Ngài cứu con khỏi những hậu quả của những hành động của con. Con thành tâm cầu xin sự tha thứ của Ngài.”
Milarepa rất bằng lòng và thu hồi phần bệnh còn lại và nói, “Suốt đời ta không hề có ý muốn có nhà cửa, giàu có và tài sản. Giờ ta đang đến gần lúc chấm dứt cuộc đời. Quả là ta không cần chúng, thế nên hãy lấy lại những tặng vật của ông. Chớ bao giờ làm trái với Pháp một lần nữa, dầu với cái giá của cuộc đời mình. Ta sẽ cầu nguyện lama của ta để giữ cho ông khỏi chịu những hậu quả của hành động của ông.” Và Đạo sư hát :
“Con lạy dưới chân Marpa, bậc Giác Ngộ.
Nguyện năm tội vô gián Được xóa sạch nhờ sám hối ăn năn.
Nguyện những tội lỗi của tất cả chúng sanh được xóa sạch Nhờ những công đức của ta Và công đức của chư Phật ba đời.
Nguyện tất cả những đau khổ của ông Được ta đảm đương và chuyển hóa. Ta xót thương cho người xúc phạm tổn thương Với Thầy Tổ và cha mẹ mình.
Nguyện những hậu quả của nghiệp của người ấy Được ta đảm đương và chuyển hóa. Trong mọi thời gian và mọi hoàn cảnh Nguyện người ấy tránh được sự đồng hành với kẻ tội lỗi.
Mà trong những đời tới Nguyện người ấy gặp những đồng bạn đức hạnh. Nguyện người ấy không có những tư tưởng xấu phá hoại công đức. Nguyện anh ta nhẫn nhục không làm hại chúng sanh. Nguyện tất cả muôn loài đạt đến Bồ đề tâm.”
Vị Geshe tràn ngập niềm vui với những lời ấy và nói, “Trong tương lai con sẽ không làm điều gì trái với Pháp, mà sẽ thiền định cho đến hết đời mình, như Đạo sư chỉ dạy. Trước kia, con đã phạm tội vì tham giàu có. Bởi thế con không muốn tài sản thế gian của con nữa. Nếu Đạo sư từ chối chúng, xin hãy để những đệ tử của Ngài nhận những tài sản đó để cung cấp cho nhu cầu của họ khi thiền định.”
Những đệ tử chấp nhận những cúng dường, về sau chúng được dùng để mỗi năm làm lễ cúng giỗ Đạo sư tại Chuwar. Bấy giờ Geshe Tsapuhwa từ bỏ thế gian và thành một người mộ đạo.
Đạo sư nói, “Thầy đến sống ở chốn này là để chấp nhận cho sự hối hận của người tội lỗi này và giúp nó thoát khỏi những hậu quả của tội lỗi của nó. Đối với một ẩn sĩ, chết trong một ngôi làng thì cũng giống như ông vua băng hà ở một căn lều tồi tàn. Bây giờ thầy sắp đi Chuwar.”
Repa vùng Seban nói, “Đạo sư đã kiệt sức vì bệnh, chúng ta sẽ võng Ngài đi.”
Đạo sư trả lời, “Không có thực tại nào trong bệnh tình của thầy cả. Không có thực tại nào trong cái chết của thầy cả. Thầy biểu lộ ở đây hình tướng của bệnh. Ở Chuwar thầy sắp biểu lộ hình tướng của cái chết. Không cần võng gì cả. Một số các con hãy đến Chuwar trước đi.”
Rồi một số đệ tử trẻ đi trước, nhưng Đạo sư là người đầu tiên đến Động Driche. Đồng thời có một Milarepa khác ở lại, đi cùng với những nhà sư lớn tuổi. Một Milarepa khác xuất hiện ở Núi Xúc Chạm Thì Độc và biểu lộ những triệu chứng của bệnh. Một vị khác được những đệ tử đến gặp Ngài ở Chuwar hầu hạ. Một vị khác thuyết giảng cho những thí chủ trên một chỗ lộ thiên ở Động Đá. Trong nhiều nhà khác nhau có một Milarepa xuất hiện với mỗi gia đình, họ cúng dường Ngài những phẩm vật.
Rồi thì những người đã đi trước đến Chuwar nói, “Đạo sư đã đến Chuwar trước chúng ta !”
Những nhà sư lớn tuổi nói, “Ngài đi với chúng tôi trên suốt cuộc hành trình.”
Khi những người khác đến, mỗi người đều nói, “Đạo sư thì ở đây. Chúng tôi cùng ở với Ngài.”
Một số nói, “Ngài đang ở trong nhà tôi.”
Những đệ tử khác nói, “Ngài đang giảng dạy ở Động Đá.”
Mỗi thí chủ nói, “Tôi đã mời Ngài vào nhà để cúng dường.”
Mỗi người nói một câu chuyện khác nhau. Rồi họ hỏi Đạo sư và Ngài trả lời, “Tất cả các con đều đúng. Đó là thầy đang đánh lừa các con.”
Rồi Ngài ở lại Động Driche, biểu lộ bệnh tật.
Vào thời gian này, cầu vồng và những dấu hiệu khác lại xuất hiện như khi Đạo sư thuyết pháp lần trước. Những điềm lành ấy có thể thấy trên bầu trời Chuwar và trên những đỉnh núi. Bây giờ mọi người đều chắc chắn Đạo sư sắp đi qua cõi khác.
Repa Ánh Sáng An Bình, Đạo sư xứ Ngandzong, và Repa vùng Seban thưa hỏi, “Bạch Đạo sư, Thầy sẽ đi đến cõi Phật nào ? Chúng con sẽ hướng sự cầu nguyện của chúng con đến nơi đâu ? Đạo sư ban cho chúng con những giáo huấn cuối cùng như thế nào ? Chúng con cần theo cách thực hành nào ?”
Đạo sư trả lời :
“Hãy kêu cầu ta bất cứ lúc nào các con muốn. Bất cứ lúc nào các con cầu nguyện đến ta với lòng tin, ta sẽ ở với các con. Bất cứ mục tiêu nào của các con sẽ được đáp ứng. Trong một khoảnh khắc, thầy sẽ ở trong Tịnh Độ của Phật Bất Động. Đây là những dạy bảo thầy nói với các con : Sau khi thầy ra đi, hãy trao cho Rechungpa những vật mà các con biết thầy thường dùng, cây gậy và cái repa (áo vải) của thầy. Chúng sẽ giúp một cách tốt lành cho sự thiền định của Rechunga về kiểm soát hơi thở. Rechungpa sẽ về đến đây sớm. Chớ có chạm đến thân xác thầy cho đến khi anh ta về đến.
Cái mũ này của Đạo sư Maitrepa và cây gậy bằng gỗ đen này là dấu hiệu giáo lý của đức Phật sẽ được giữ gìn qua thiền định thâm sâu và cái thấy hoàn hảo. Bởi thế, hãy trao những vật thanh tịnh này cho Gampopa. Ánh Sáng Bình An, hãy lấy cái bát gỗ này. Ngan-dzong Tonpa, hãy lấy cái chén bằng sọ người này. Repa vùng Seban, hãy lấy cái hộp mồi lửa này. Ẩn sĩ Repa vùng Di, hãy lấy cái muỗng bằng xương người này. Với những đệ tử được truyền pháp khác, mỗi người hãy lấy một mảnh vải của cái áo vải của thầy. Những vật ấy chẳng giàu có gì, nhưng tất cả đều là những vật chứng tín được ban phước.
“Bây giờ, đây là những dạy bảo rất quan trọng về điều mà các đệ tử chưa được biết. Dưới nền lò sưởi là tất cả số vàng mà thầy đã gom góp suốt đời thầy, và một di chúc để chia nó như thế nào trong các con. Sau khi thầy ra đi, hãy đọc di chúc và làm theo những chỉ thị đó.
“Về cách thức thực hành Pháp, có những người giàu họ tự xem họ là những người mộ đạo tốt. Họ có thể cho một trăm thứ ích dụng hay vô dụng như đồ bố thí, nhưng chỉ với động cơ là lấy lại một ngàn cái. Đây chỉ là cách thức để họ tôn vinh đời sống thế gian. Con người buông lung trong những hành vi tai hại một cách lén lút mà không ngó ngàng gì đến sự không bằng lòng của những thần hộ pháp thấy biết tất cả. Sợ rằng họ sẽ không thành tựu được những mục tiêu thế gian của họ, họ cố gắng làm điều tốt ; nhưng bởi vì không thể từ bỏ tham muốn được công nhận, họ thực sự đang ăn thuốc độc với thức ăn của họ. Chớ nên uống thuốc độc của lòng tham muốn được công nhận. Hãy từ bỏ mọi thứ mà các con gọi là thực hành Pháp nhưng thực ra nó chỉ hướng đến việc tôn vinh đời sống thế gian. Hãy hiến mình cho sự thực hành tâm linh chân thật.”
Các đệ tử Repa hỏi rằng, “Chúng con có thể dấn thân vào một đời sống hoạt động nếu nó tỏ ra có lợi lạc cho những người khác không ?”
Đạo sư trả lời :
“Nếu không có sự bám luyến vào những mục tiêu ích kỷ, các con có thể làm thế. Nhưng điều đó quả là khó khăn. Những người đầy tham muốn thế gian không thể làm điều gì để giúp đỡ những người khác. Thậm chí họ cũng không thể tự làm lợi lạc cho mình. Đó cũng như một người bị cuốn trôi trong một dòng thác mà tự cho là có thể cứu được những người khác. Không ai có thể làm điều gì cho chúng sanh nếu trước hết không đạt được cái quán thấy siêu việt về thực tánh. Như kẻ mù dắt kẻ mù, người ta chỉ có thể bị cuốn trôi bởi những dục vọng mà thôi. Không gian thì vô biên và chúng sanh thì vô lượng, các con sẽ luôn luôn có cơ hội để cứu giúp những người khác khi nào các con có khả năng làm điều đó. Cho đến lúc ấy, hãy trau dồi nguyện vọng đạt đến Phật tánh bằng cách thương yêu những người khác hơn chính các con trong khi thực hành Pháp. Hãy mặc vải rách và tự bằng lòng với thực phẩm ít oi, áo quần ít oi và được công nhận ít oi. Hãy điều phục thân thể các con và chánh niệm vào chân tánh. Điều này cần phải làm vì lợi lạc của tất cả chúng sanh. Để hướng dẫn các con trên con đường này, hãy ghi nhớ những lời sau đây.” Và Ngài hát bài ca này :
“Con kính lạy dưới chân Marpa Dịch Giả
Người nào chỉ tôn kính lama của mình Mà không hoàn toàn giao phó thân tâm mình cho Ngài, Sẽ chỉ được lợi lạc nhỏ nhoi. Không nhận được quán đảnh thật sự, Chỉ những lời của Tantra sẽ cột trói các con. Không được hướng dẫn bởi thật nghĩa của những Tantra, Tất cả những thực hành của các con chỉ đưa các con đi lạc đường. Không có thiền định theo giáo huấn thâm sâu, Người thực hành khổ hạnh chỉ hành hạ chính mình.
Người không hàng phục được tham muốn và mê vọng Chỉ nói ra những lời chết khô và trống rỗng. Người không biết phương tiện thiện xảo sâu xa Sẽ thất bại, dù rất nhiều nỗ lực. Người không có chìa khóa cho ý nghĩa thâm sâu của Pháp Sẽ đi chậm trên Con Đường, dù dũng mãnh lớn lao. Người chẳng tích tập công đức mà chỉ tìm cầu giải thoát phần riêng, Chỉ làm chín thêm sự tái sanh, sanh tử còn hoài. Người chẳng vì Pháp mà buông bỏ cái mình đã tích tập Sẽ không hoàn thành sự hoàn thiện, dù có thiền định bao nhiêu. Người không bằng lòng sâu xa với cái nó đang có Sẽ thấy sự giàu có nó tích tập bị những người khác lấy đi. Người không có trong chính nó cội nguồn của hạnh phúc Chỉ tìm thấy khổ đau trong những lạc thú bên ngoài. Người không diệt trừ được con quỷ tham vọng của mình Chỉ tìm thấy sự tàn phá và xung đột trong tham muốn vang danh của nó.
Những tham muốn ích kỷ khuấy dậy năm độc. Những tham muốn nhất thời làm chia rẽ bạn thân. Sự tự suy tôn gây ra ác cảm nơi những người khác. Giữ im lặng về chính mình sẽ tránh xảy ra xung đột. Bằng cách duy trì tĩnh lặng và không phóng dật, Trong cô đơn con sẽ tìm thấy bạn đồng hành. Người làm việc với thận trọng sẽ nhanh chóng thành tựu những kết quả. Buông bỏ hết đem lại sự hoàn thành vĩ đại.
Sự thực hành con đường bí mật là lối đi ngắn nhất. Chứng ngộ tánh Không làm sanh sản Đại Bi. Lòng bi phá hủy sự khác biệt giữa ta và người. Nếu không có nhị nguyên giữa mình và những người khác, Người ta hoàn thành mục tiêu của tất cả chúng sanh. Những ai nhận ra nhu cầu của những người khác sẽ khám phá ra ta. Những ai tìm thấy ta sẽ thành tựu Giác Ngộ.
Với ta, với Phật và với các đệ tử Các con cần cầu nguyện như là một, xem các vị là một.”
Hát xong Ngài lại nói thêm : “Ta không biết ta còn sống bao lâu nữa. Các con đã nghe ta nói, bây giờ hãy làm như ta đã làm.”
Nói xong Ngài đi vào một trạng thái thiền định sâu xa.
Và như thế, ở tuổi tám mươi bốn, vào lúc mặt trời mọc ngày thứ mười bốn tháng mười hai năm Con Thỏ Mộc, dưới chòm sao thứ chín âm lịch,(7) Đạo sư nhập niết bàn. Lúc ấy trên vùng ấy hiện ra những dấu hiệu rộng khắp và kỳ diệu tỏ ra rằng những daka và dakini đang tụ họp lại. Bầu trời trong vắt được trang hoàng bằng những hình vuông đan nhau đủ màu sắc cầu vồng. Ở trung tâm của mỗi hình vuông là một hoa sen tám cánh muôn màu mà bốn cánh có màu sắc thiêng liêng chỉ ra bốn hướng chánh. Trên mỗi hoa sen là những mạn đà la mà hình thể và cấu trúc của chúng kỳ diệu hơn nhiều so với công trình của các nghệ nhân và nhà xây dựng khéo léo nhất.
Xuất hiện trong bầu trời ở trên chúng là vô số cúng dường không thể tưởng của chư thiên, như những cầu vồng và mây ngũ sắc, tạo thành những lọng, cờ, phướn, tán, dải lụa...
Một cơn mưa hoa vĩ đại nhiều hình dáng và màu sắc. Trên những đỉnh núi mây ngũ sắc tạo thành những hình tháp với đỉnh nhọn hướng về Chuwar. Nhạc trời du dương được hòa ca để tán thán Jetsun,* trong khi hương thơm lừng thấm toàn thể quang cảnh. Mọi người đều chứng kiến những dấu hiệu này, và nhiều đệ tử loài người thấy những daka và dakini đón mừng Jetsun với nhiều đồ cúng dường. Những chúng sanh loài người không thấy những thân thể trần truồng của chư thiên là khiếm nhã, và chư thiên cũng không cảm thấy mùi khó chịu của những chúng sanh loài người. Hơn nữa, chư thiên và loài người tương thông với nhau, trò chuyện và chơi đùa với nhau như thời Chánh Pháp (Phật còn tại thế). Những dấu hiệu kỳ diệu này kéo dài cho đến khi hoàn tất lễ táng của Đạo sư.
Dù sau sự can thiệp của những đệ tử, những người Nyanang ỷ vào sức mạnh của họ sửa soạn chiến đấu bằng võ lực. Vào lúc ấy, một chàng trai trẻ cõi trời xuất hiện giữa không trung ở trung tâm ánh sáng và cầu vồng và hát bài ca này với một giọng giống như giọng của Đạo sư :
“Hỡi những đại đệ tử và tín đồ cư sĩ tụ hội ở đây, Đang giành nhau một cái xác ! Hãy nghe lời phân định này :
Ta, một đệ tử cõi trời của Jetsun, sẽ dàn xếp cuộc tranh cãi này.
Tâm của Milarepa, tối thượng giữa loài người, đã hòa lẫn vào Pháp thân vô sanh.
Ngoài tâm, không có sắc tướng nào thật có, Thân xác của Đạo sư sẽ sớm tan vào Pháp thân.
Nếu không có được Xá Lợi Chân Thật mà tranh giành một cái xác thì thật là ngu dại. Tất cả các người làm việc đó đều hành động điên đảo. Bởi vì các người sẽ không có nó bằng cách tranh đấu, Hãy cầu nguyện Jetsun với lòng sùng mộ sâu xa. Nếu các người kêu cầu Ngài từ tận đáy lòng mình, Thì dù Pháp thân Ngài là tánh Không vô sanh, Bi nguyện Ngài sẽ biểu lộ không chướng ngại.
Bấy giờ các ngươi sẽ nhận những xá lợi từ Hóa Thân Ngài.”
Nói xong chàng trai trẻ biến mất như một cầu vồng.
Những tín đồ cư sĩ rất vui mừng khi nghĩ rằng sẽ thấy được Jetsun. Quên chuyện tranh cãi, họ cầu nguyện Đạo sư. Những đại đệ tử và tín đồ cư sĩ vùng Drin không còn sợ thân xác Đạo sư bị lấy đem đi bằng võ lực.
Cùng một thời gian, người Nyanang thấy rằng họ có một thân xác của Jetsun và đem đi Lachi hỏa táng ở Trứng Chim Ưng trong Đại Động Quỷ Bị Hàng Phục. Mọi dấu hiệu, như mống cầu vồng và ánh sáng, mưa hoa, hương thơm và nhạc trời xuất hiện cũng như ở Chuwar. Trong khi đó ở Chuwar, những đệ tử chính và tín đồ cư sĩ thờ lạy thân xác Đạo sư. Sau sáu ngày họ thấy nó chuyển hóa thành một thân thể tỏa hào quang rực rỡ, nhỏ lại và trẻ trung như một đứa bé tám tuổi.
Những đại đệ tử bàn luận về vấn đề này và đi đến kết luận Rechungpa sẽ không đến kịp. Họ đồng ý nếu thân xác được để lâu hơn, e rằng không còn lại gì để có xá lợi mà tôn thờ và sùng mộ nữa. Giải pháp tốt nhất là làm lễ hỏa táng ngay.
Khuôn mặt của thân xác được mở ra cho tất cả chiêm ngưỡng. Rồi thân xác được chuyển vào một khám hỏa táng được dựng trên tảng đá đã từng là pháp tòa cho Jetsun thuyết pháp. Dưới chân tảng đá một mạn đà la được tạo bằng bột màu. Chung quanh nó đặt những đồ cúng dường tinh tế nhất mà con người có thể làm ra, tuy nhiên không thể nào sánh nổi với những phẩm vật cúng dường của chư thiên xuất hiện trên những cõi trời. Vào bình minh, lễ trà tỳ bắt đầu và giàn thiêu được đốt. Nhưng thân xác không chịu bắt lửa.
“Ram,(9) Tummo tri-giác-tất-cả là Lửa Tối Thượng. Vì bậc Đại Trí đã thiền định suốt đời Ngài, Lửa do người làm ra có dùng gì được ?
Với Người đã không ngừng tri giác xác thân trong hình tướng yidam, Có là gì một xác chết bây giờ ?
Với thiền giả này Mạn đà la Tối thượng tuyệt vời đã tìm thấy vốn sẵn trong thân,
Có cần gì một mạn đà la vẽ trên mặt đất ?
Với Người ngọn đèn tâm-khí bất nhị hằng hằng tỏa sáng
Có cần gì một ngọn đèn nhỏ mọn bằng bơ ?
Với Người đã không ngừng dùng năm món thuốc trường sanh Bất Tử, Có nghĩa gì bánh cúng thế gian ?
Với Người đã tự trang hoàng bằng Thanh Tịnh của Chân giới, Đã sạch hết hai thứ nhiễm ô, Bình tẩy tịnh có dùng cho ai đó ?
Bầu trời tràn ngập những mây hương Và mạn đà la toàn thể của những cúng dường. Hôm nay có cần gì thắp hương của các vị.
Bốn bộ dakini đang hát lời tán thán Khi những dakini chủ cúng dường. Hôm nay các vị cử hành nghi lễ ra sao ?
Bởi vì chư vị Đạo sư giác ngộ bao quanh Ngài Và vô số đại thiền giả lễ kính, Hôm nay có cần gì sờ chạm xác thân đây ?
Với Đạo sư đã chứng ngộ thực tại Chân Như, Có cần gì làm đẹp cho cái xác của Ngài ?
Cái được trời người vĩnh viễn tôn sùng Có cần gì một ai sở hữu !
Thay vì thế, hãy hòa nhập vào sự tôn thờ của toàn pháp giới.
Tuân thủ những giới điều của lama và yidam Không cần gì thêm những giáo huấn khác,
Hãy tiếp tục đi theo những giới điều.
Bởi vì thân thể Đạo sư là một đống ngọc vô giá, Hãy bỏ đi những tranh cãi chủ quyền và hãy bình an tịch lặng.
Bởi vì những giáo huấn của lama giác ngộ là bí mật sâu xa,
Hãy từ bỏ ý muốn luận bàn về chúng mà yên lặng tịch nhiên.
Những giáo huấn bí mật là hơi thở sống của những dakini,
Hãy thực hành chúng trong ẩn tu toàn diện, kẻo nhiễm ô vào những hình thức vô vàn.
Trong nỗ lực tập trung tiến về giải thoát,
Nhiều chướng ngại khởi lên, thế nên hãy thiền định trong ẩn mật hoàn toàn.
Qua sự trách mắng của guru kỳ diệu Ban phước và chứng ngộ sẽ đến,
Thế nên hãy vất bỏ hết mọi tâm nghi ngờ.
Đã có câu chuyện cuộc đời giải thoát của Đạo sư, Không cần gì phải tuyên dương danh tiếng.
Những ban phước tuôn chảy từ bài ca của những dakini tối thượng, Thế nên hãy tăng trưởng lòng tin.
Hỡi những đệ tử phước đức, có nhiều vị thánh chứng đắc Trong những hậu duệ tâm linh của Milarepa.
Hỡi chư thiên và loài người, Sẽ không có dịch bệnh nào tàn phá người và thú vật của vùng đất này.
Tất cả các người tụ hội nơi đây tối nay Sẽ không có ai sinh trong ba cõi thấp.
Trong mạn đà la tánh Như của Không tánh(10) Tướng và Tánh, tri giác các sự vật bên ngoài và tánh Giác là một
Thế nên hãy phá tan sự bám chấp những phân biệt nhị nguyên.
Không có ý nghĩa đặc biệt nào trong giáo huấn cuối cùng của Đạo sư đã tịch,
Thế nên hãy hoàn thành những lời dạy của Ngài.
Nguyện tất cả các vị sống mãi mãi trong Pháp tối thượng,
Nguồn bao la của hòa bình và niềm vui !”
Khi bài ca chấm dứt, Đạo sư vùng Ngandzong nói,
“Dù lời dặn của Đạo sư hoãn lại lễ trà tỳ cho đến khi Rechungpa về hợp với ý tứ của bài ca của những dakini, thì chúng ta cũng không biết khi nào huynh Rechung trở về. Thân xác sẽ sớm tan biến hoàn toàn vào hư không.” Repa Ánh Sáng Bình An nói ông chắc rằng Rechung sẽ đến sớm, như Đạo sư và những dakini đã nói, và cũng vì thân thể Đạo sư không chịu bắt lửa. “Trong khi chờ đợi, chúng ta hãy dành cho sự tôn thờ và kính ngưỡng Đạo sư.”
Vào thời gian đó Rechung đang ở tu viện Loro Došl miền Nam Tây Tạng. Một buổi sáng, lúc sắp bình minh, khi ông còn trong một trạng thái trộn lẫn giữa tham thiền và giấc ngủ, ông thấy một nhóm dakini sắp mang đi xa đến một cõi khác một cái tháp bằng pha lê chiếu sáng khắp các cõi trời. Ông thấy tháp pha lê được ca hát tán thán và tôn thờ bằng những phẩm vật cúng dường quá sức tưởng tượng bởi một chúng hội theo truyền thống Kim Cương thừa và những thí chủ cư sĩ đầy khắp mặt đất, và bởi chư thiên và chư dakini đầy cả bầu trời.
Rechung lễ lạy khi thấy Jetsun nghiêng người ra khỏi bảo tháp và Đạo sư nói, “Rechung, con ta, dù con không về đến đúng như ta yêu cầu con, thì tâm ta cũng tràn đầy niềm vui khi cha con chúng ta ít ra cũng đã trùng phùng. Không chắc khi nào chúng ta sẽ gặp lại gặp nhau, thế nên chúng ta hãy trân trọng cơ hội hiếm hoi này.”
Rạng rỡ một nụ cười hoan hỷ, Đạo sư sờ nhiều lần lên đầu Rechung. Rechung nhận biết tính độc nhất của lần gặp gỡ này và một niềm tin chưa từng có khởi lên trong ông. Rechung tỉnh dậy. Ông nhớ lại những lời nói trước kia của Đạo sư. Hy vọng lama của mình chưa chết, ông cảm thấy phải đi nhanh để gặp Ngài dù cho có thể không đến Chuwar kịp lúc. Khi ông cầu nguyện Jetsun với một niềm tin nồng nhiệt cực độ, hai người đàn bà xuất hiện trên trời trước mặt ông và nói, “Rechung, lama của ngài đã đi qua cõi Tịnh Độ rồi. Nếu ngài không đi nhanh ngài có thể không bao giờ thấy lại lama trong đời này nữa. Hãy đi ngay bây giờ không chậm trễ.”
Điềm báo trong giấc mộng và việc thấy trên trời đầy những cầu vồng và ánh sáng làm khởi lên một nỗi niềm nhớ đến lama và mong mỏi đến với Ngài. Ông rời bỏ Loro Došl vào lúc sáng sớm khi gà gáy. Duy trì nhất tâm hòa hợp với tỉnh giác thanh tịnh nhất về lama, Rechung trong một hành động sùng mộ, đã hít không khí vào thân và giữ hơi ấy, với sức mạnh của một mũi tên bắn đã trải qua chỉ trong một buổi sáng khoảng cách mà người du hành thường phải mất hai tháng.
Rạng sáng hôm sau, đến đèo trên mõm Núi Podri giữa Dingri và Drin, ông nghỉ một lúc. Ông thấy những dấu hiệu kỳ diệu không tưởng tượng nổi tràn ngập toàn thể không gian của các cõi trời, núi non và trên mặt đất. Trên đỉnh núi Jowo Razang ông thấy vô số chư thiên trẻ cả nam và nữ trong những vòm ánh sáng và cầu vồng, mang vô số phẩm vật cúng dường của năm xuất thần giác quan, nhiệt thành tôn thờ và lễ lạy hướng về Chuwar.
Thấy những dấu hiệu này, Retchung đầy lo âu. Ông hỏi các vị trời ý nghĩa của những dấu hiệu kỳ lạ này, và đặc biệt ai là người họ đang lễ bái. Một số thiên nữ nói, “Ông đã cắt đứt hoàn toàn với thế giới này, cho nên không thấy gì, không nghe gì cả sao? Những cúng dường này do chư thiên ở những cõi cao hướng đến Đạo sư linh thánh nhất của trái đất, Mila Kim Cương Cười. Ngài được cả trời và người thờ phụng ở Chuwar khi Ngài đi vào Tịnh Độ Niết Bàn.”
Nghe vậy, Rechung cảm thấy trái tim mình tan vỡ. Ông vội vàng đi nhanh hơn. Khi ông đến rất gần Chuwar ông thấy Jetsun đang ngồi trên một tảng đá lớn có hình nền vuông của một cái tháp. Đúng như trong giấc mộng, Đạo sư tỏ ra vui mừng, chào đón ông, nói rằng,
“Con ta, con đây rồi!"
Nghĩ rằng Đạo sư chưa viên tịch, Rechung cảm thấy một niềm vui vô bờ. Ông lễ lạy dưới chân Đạo sư và nói với lòng tôn kính. Đạo sư trả lời mọi câu hỏi của ông.
“Rechung, con ta, ta sẽ dẫn đường, hãy theo ta.” Nói thế rồi, Đạo sư tiến lên trước và tức thời biến mất.
Rechung tiếp tục cuộc hành trình và đến Chuwar. Ở động của Đạo sư ông thấy những đại đệ tử, nhà sư, cư sĩ đang than khóc lễ bái thân xác Đạo sư. Những người đó không biết Rechungpa là ai, một số nhà sư mới vào tu chặn Rechung lại không ông đến gần nhục thân. Đau buồn vì điều đó, Rechung hát bằng một giọng buồn rầu Bài Ca Sùng Mộ Bảy Đoạn này :
“Ôi Đạo sư, bậc bảo vệ của chúng sanh, Ôi Đạo sư, Phật của Ba Đời, Trong Pháp thân bi trí sáng soi, Xin hãy nghe bài ca kêu thương này Từ đệ tử bất hạnh Rechung của Ngài.
Ôi Lama Tôn Quý ! Khốn khổ và đau thương, con kêu lên bài ca.
Mong muốn cháy bỏng được gần thân xác Thầy, con bước đến
Nhưng đứa con bất hạnh này không thể thấy được mặt Thầy,
Xin nhìn xuống con với lòng bi mẫn, ôi Người Cha Tử Tế Nhân Từ.
Hướng đến Thầy, Phật của Ba Đời Bậc sở đắc Trí huệ, Đại bi và Thần lực,
Con, một kẻ hành khất, con xin lễ lạy qua ba cửa thân, ngữ, tâm,
Và cúng dường sự thiền định theo lời Thầy dạy.
Con tịnh hóa những hành vi xấu ác khởi từ những tri giác bất toàn và méo mó.
Và vui sướng bao la (tùy hỷ) trong mọi hoạt động toàn thiện của Thầy.
Nguyện Thầy tiếp tục chuyển Bánh Xe Pháp thiêng liêng,
Nguyện Thầy trụ thế và không vào niết bàn.
Con nguyện hồi hướng những công đức của thiền định và chứng ngộ của con Đến sự hoàn thành ý định của Thầy.
Nguyện con thành tựu kết quả của sự hồi hướng này Và nguyện con thấy được tôn nhan Thầy.
Con, trước kia thầy đã đối xử với bao bi mẫn,
Giờ con bị ngăn không cho thấy được xác thân Thầy.
Bất hạnh thay, con không thấy được Đạo sư đang sống;
Nhưng con mong thấy khuôn mặt Thầy khi chết,
Và sau khi thấy tôn nhan
Nguyện con trực tiếp nhận được hay là qua những linh kiến Giáo huấn giá trị nhất của Thầy
Để hàng phục những chướng ngại trong hai giai đoạn cao hơn của thiền định.
Đây là nội dung lời kêu cầu của con.
Ôi Đạo sư, nếu Thầy không làm gì từ lòng bi cho đứa con của Thầy,
Thì có ai khác sẽ được Thầy che chở với trí huệ và tình thương từ phụ ?
Ôi Cha Lành, xin đừng lấy khỏi con cái móc của lòng bi của Người. Xin nhìn con từ cõi giới vô biên không hình tướng.
Mong Đạo sư, bậc Thấy Khắp ba thời, nhìn đến Rechung, kẻ tôi tớ ngu mê với trí huệ.
Đứa con của Thầy, Rechung, bị hành hạ bởi năm độc.
Xin nhìn xuống con, hỡi Cha Lành, người sở đắc Năm Trí Tối Thượng.
Xin hãy nhìn với lòng bi xuống tất cả chúng sanh. Xin hãy nhìn Rechung từ tình thương bi mẫn của Người.”
Rechung hát như thế với nỗi buồn rầu. Khi âm thanh giọng nói Rechung cất lên, ánh tỏa sáng trên mặt Đạo sư nhạt đi và đồng thời lửa bốc lên từ thân xác.
Nghe giọng của Rechung, Repa Ánh Sáng Bình An, Đạo sư Repa vùng Ngandzong, Seban Repa và những huynh đệ Kim Cương khác với những cư sĩ đến đón Rechung.
Vào lúc đó, dù Đại Đạo sư đã đi vào Pháp thân trong suốt như pha lê, Ngài trở lại và nói với những đệ tử mới vào, “Chớ đối xử như vậy với Rechung, “Một con sư tử sống thì tốt hơn một trăm bộ da thuộc !” Hãy để anh ta đến với ta.”
Rồi Ngài nói với Rechung, “Con ta, chớ có thất vọng. Chớ có để cho khó chịu tác động. Hãy đến trước cha của con đây !”
Mọi người đều kinh ngạc và hoan hỷ vô song. Rechung ôm lấy thân thể Jetsun, khóc và mừng đến nỗi ngất đi.
Khi tỉnh lại, ông thấy những đại đệ tử, nhà sư và cư sĩ tất cả đều ngồi trước hỏa khám đài táng. Đạo sư hoàn toàn không có chút bệnh tật nào.
Xuất hiện như một biểu lộ bất khả hoại của Sắc và Không hợp nhất, và ngồi ngự trên một hoa sen tám cánh,
Đạo sư chói ngời như một nhụy hoa. Ngồi trong tư thế thoải mái vương giả, tay phải Ngài đưa ra trong ấn thuyết pháp, đè ngọn lửa xuống, tay trái trong một ấn nâng đỡ má trái, một đầu gối hơi dở lên, Ngài nói với mọi đệ tử và cư sĩ,
“Hãy lắng nghe sự trả lời này cho Rechungpa, những lời cuối cùng của lão già này.”
Đạo sư hát bài ca bất hoại này, gọi là Sáu Nguyên Lý Chánh Yếu, từ đài hỏa táng:
“Hãy nghe đây, Rechung, yêu quý nhất của lòng ta, Bài ca Chúc Thư Cuối Cùng về Giáo Huấn.
Trong đại dương của ba cõi sanh tử
Thân huyễn hóa là kẻ đại thủ phạm,
Cố gắng mãi hoài thỏa mãn những mục tiêu vô thường,
Quá ít thời gian để buông bỏ những truy cầu trần thế.
Hỡi Rechung, hãy buông bỏ những nỗ lực phát triển chẳng tới đâu.
Trong thành phố của thân như huyễn,
Tâm huyễn hóa là kẻ đại thủ phạm,
Làm nô lệ mãi hoài cho máu thịt xác thân,
Quá ít thời gian để chứng biết Thực Tại Tối Hậu.
Hỡi Rechung, hãy nhận rõ bản tánh chân thật của tâm.
Trên ranh giới giữa tâm và vật, cái thức bên trong là đại thủ phạm,
Bị hút vào lãnh vực của những tri giác do duyên,
Quá ít thời gian để chứng ngộ bản tánh không sanh của thực tại.
Hỡi Rechung, hãy đánh chiếm thành trì của tánh Không vô sanh bất diệt.
Trên ranh giới giữa đời này và đời kế tiếp,
Thức trong trạng thái trung ấm Bardo(11) là đại thủ phạm,
Cứ lo tìm một cái thân dù đã mất thân, Quá ít thời gian để chứng ngộ Thực Tại Tối Hậu.
Hỡi Rechung, hãy tìm đường đến chứng ngộ này.
Trong thành phố hư vọng của sáu loại chúng sanh,
Có một sự tích tập vĩ đại những nhiễm ô và nghiệp xấu theo thúc đẩy của ghét và thương, Quá ít thời gian để tri giác Tánh Không Toàn Khắp.
Hỡi Rechung, hãy buông ghét và thương, lấy và bỏ.
Trong cõi trời không thể thấy, có một vị Phật,
Ngài khéo léo dùng những giả huyễn,
Dẫn dắt chúng sanh đến chân lý tương đối,
Họ có ít thời gian để chứng ngộ chân lý tuyệt đối,
Hỡi Rechung, hãy buông bỏ những ý niệm, danh từ.
Lama, yidam và chư dakini, cả ba hợp nhất trong một.
Hãy cầu nguyện các Ngài !
Cái thấy, tham thiền và thực hành, cả ba hợp nhất trong một– Hãy thông thạo chúng !
Đời này, đời kế và trung ấm, cả ba hợp nhất trong một – Hãy thống nhất chúng !
Đây là giáo huấn cuối cùng và di chúc chót hết của ta. Hỡi Rechung, không còn gì để nói nữa.
Con ta ơi, hãy hiến mình tận tụy cho giáo huấn này.”
Nói như thế xong, Jetsun Milarepa tan biến vào Tánh Không Toàn Khắp. Đài hỏa táng tức thì biến thành một lâu đài cõi trời, hình vuông, có bốn cổng vào (Tứ Đại) với mái cổng trang hoàng xảo diệu. Trên vòm cổng một cầu vồng và một trướng ánh sáng, những lọng, phướn và những đồ cúng khác.
Ngọn lửa ở phần đáy có hình hoa sen tám cánh và đầu những ngọn lửa uốn cong hiện thành tám biểu tượng tốt lành (12) và bảy biểu hiện vương giả.(13) Thậm chí những tia lửa đều có hình thiên nữ bưng nhiều phẩm vật cúng dường. Những bài thánh ca và tiếng lách tách của ngọn lửa chói sáng nghe du dương như một bản đại hòa tấu an vui.
Khói tỏa thấm mọi sự vật với mùi hương và trong bầu trời trên đài hỏa táng, chư thiên nam nữ trẻ rót xuống một dòng cam lồ từ những chiếc bình họ đang cầm và dâng cúng những vui thích đầy dẫy cho năm giác quan. Những lama và những cư sĩ trong sạch đầy tràn niềm vui. Tất cả đệ tử, nhà sư và tín đồ cư sĩ đều thấy đài hỏa táng là một lâu đài cõi trời rực rỡ, trong khi chính thân xác được thấy khác nhau là Hevajra, Chakrasamvara, Guhyasamaja hay Vajravarahi. Bây giờ chư dakini hát cùng một giọng :
“Sau khi Đạo sư – Viên Ngọc Như Ý – ra đi
Một số người khóc lóc và những người khác thở than.
Trong khi họ buồn rầu và than khóc
Một ngọn lửa chói ngời chợt tự bùng lên,
Ngọn lửa có hình hoa sen tám cánh,
Tám biểu tượng tốt lành, bảy biểu hiệu vương giả và nhiều đồ cúng dường vui thích.
Tiếng reo của lửa hòa âm thành nhạc điệu du dương Như âm nhạc của tù và, não bạt, đàn sáo và trống
Từ những tia lửa lấp lánh xuất hiện những dakini của ba cấp độ – ngoài, trong và thậm thâm,
Lễ bái và cúng dường vô số phẩm vật đủ loại,
Giữa mây khói, những cầu vồng, ánh sáng có những đám mây cúng dường,
Như lọng, phướn, nút thắt vinh quang và chữ Vạn(14)
Vô số dakini đẹp đẽ tuyệt vời mang xá lợi đi từ đài hỏa táng,
Lạ lùng là thân xác Đạo sư được hỏa táng dù nó đã được trả về vô tướng, không để lại tàn dư.
Trong cõi giới Pháp thân của Lama, tụ hội đám mây Báo thân do đại nguyện và lòng bi của Ngài,
Lưu xuất những hoạt động của Hóa thân như một cơn mưa hoa không dứt.
Nhờ đó Ngài đem những người cầu đạo đến quả của họ.
Pháp giới, bản tánh tối hậu của tất cả mọi sự, thì trống không, không bị điều kiện hóa, không tăng không giảm.
Tánh Chơn Không thì không đến cũng không đi, không còn không mất.
Dù sanh tử do duyên có khởi có diệt cũng vốn trống không trong bản tánh của chúng.
Thế nên hãy vất bỏ những nghi ngờ mê hoặc của các người.”
Sau bài ca này, trời cũng vừa sẫm tối. Ngọn lửa chói sáng cũng biến mất. Mọi người nhìn thấy khám hỏa táng hoàn toàn trong suốt. Những đệ tử và cư sĩ nhìn vào những xá lợi. Một số người thấy một tháp lớn bằng ánh sáng trong khi những người khác thấy những hình tướng Hevajra, Chakrasamvara, Guhyasamaaja hay Vajravarahi. Một số khác thấy những đồ vật thiêng liêng, như chày kim cương, chuông, bình và những chủng tử tự (15) của những thần chú tượng trưng cho thân, ngữ, tâm giác ngộ. Những người khác thấy trong khám hỏa táng một ánh sáng trắng với những tia sáng sắc vàng, một ao nước phẳng lặng, một ngọn lửa cháy, một ngọn gió xoáy và những đồ cúng dường không thể thấy được vượt ngoài tưởng tượng. Tuy nhiên có những người khác thấy cảnh giới không gian trống không.
Trích: Cuộc Đời Của Milarepa
- - -
Thượng Sư Milarepa không chết mà bất tử vĩnh hằng.
No comments:
Post a Comment