Chương 53: Đại Đạo Vô Kỷ
Con Người càng có nhiều tiện nghi bao nhiêu thì càng xa rời Đại Đạo Vô Kỷ.
Càng chăm lo, chú trọng cho cái xác vô thường, là những thức ăn thứ mặc, những tư dục thường tình, con người càng rời xa khỏi Tình Yêu Vĩnh Cửu.
Cho đến tận lúc chết đi, cả một đời vẫn chỉ loanh quanh trong vòng lặp nhàm tẻ, không khác gì một con thú. Già yếu, cô đơn, và chết đi trong bất lực, mà vẫn mang một khát vọng mơ hồ nào đó dù không biết đó là gì.
Mừng thay cho những ai chết khi còn trẻ, hay khi đã tìm ra ý nghĩa tột độ của Tình Yêu Vĩnh Cửu, và thực sống chỉ vì Tình Yêu Vô Hạn ấy.
Chương này và ba chương tiếp không xoay quanh A Đường mà nói về những người đã quy tiên trong Đại Đạo Vô Kỷ.
- - -
Trong lịch sử Đạo Thiên Cổ Đế ở trần gian, thời kỳ "phục hưng" của Đạo bắt đầu từ cột mốc "anh mặt trời, chị mặt trăng" ở thành Assisi của Ý.
Khi ấy giáo hội, giáo hoàng và những kẻ chức sắc vẫn bày trò mua bán những "indulgence" (có thể hiểu là sự giải tội, tha tội - giống như làm lễ "giải vận giải hạn" vậy. Bất kể người ta phạm tội gì từ lớn đến nhỏ, giết người hay gian dâm, miễn có tiền thì có thể mua được một lễ giải tội, được các linh mục, thầy tế đức cao vọng trọng trong nhà thờ thực hiện.
Những kẻ nhà giàu sợ tội cũng được nhà nước và pháp luật tha thứ, nếu có lá sớ "indulgence" (giải tội) với con dấu, cái triện của nhà thờ. Giải tội nặng thì cần nhiều tiền, tội nhẹ thì cần ít tiền hơn. Miễn sao "thành tâm" cúng tiền là được, và dĩ nhiên kẻ có tội phải hứa hẹn thề thốt không phạm tội nữa, như một thủ tục cho qua thôi.
Giáo hội luôn bắt tay thân mật với những kẻ cầm quyền và Chính phủ. Tiếng nói bất kỳ của Giáo hội chính thống là chân lý và bất cứ ai nói gì khác với chỉ định của Giáo hội thì được gọi là Dị giáo (heresy), phản nghịch, phỉ báng. Những kẻ dị giáo, lạc đạo (heretic) phải bị trừng phạt bởi cái chết, giống như tội nhân vi phạm Đạo Đức tột cùng vậy.
Jan Hus không phải là người đầu tiên, và cũng không phải là người cuối cùng trong số ấy. Câu chuyện này trích từ cuốn sách dày cộp ở nhân gian có tiêu đề: "Tiếng nói các vị tử đạo" (Voice of Martyrs).
- - -
Jan Hus (1370 – 1415)
His accusers made it clear at the trial that Jan Hus would not only die, but that he would die without hope. “We take from you the cup of redemption,” the prosecutors solemnly intoned before sentencing. But Hus replied, “I trust in the Lord God Almighty… that He will not take away from me the cup of His redemption, but I firmly hope to drink from it today in His kingdom.”
The redemption cup was key to Hus’crimes. Born in 1362 in the village of Husenic in southern Bohemia (today the Czech Republic), this son of peasants learned to pray at the feet of his mother. It was she who prompted young Jan toward the priesthood, where he might find, among other benefits, the money and prestige to escape his family’s poverty. An average but hard-working student, Hus received a master’s degree in Bethlehem Chapel in 1402. Shortly before, news had arrived from England of a certain John Wycliffe, a reformer, whose ideas soon split the university faculty. Chief among those ideas was the nature of the communion cup. Was the wine of the Lord’s Supper really changed into Christ’s blood during the Mass? Yes, argued the German and Roman theologians. No, countered many Czechs and Wycliffe supporters. Thus the cup would become a symbol of reform that Hus, by some accounts, would carry to his pyre.
Time were dangerous in the early fifteenth century. The church was split between two popes, one in France, the other in Rome. The so-called Great Schism (1378-1417) meant that every leader, politician or churchman must take sides and hope his pope emerged the winner. Survival and the future of the church hung in the balance.
Meanwhile, Wycliffe’s influence on the preacher Hus was becoming a clear and present danger. In 1405, Hus began to speak against the sins of the clergy and denounce their hoaxes perpetrated on common parishioners. When the Bohemian church claimed that Christ’s blood was appearing on communion wafers, Hus exposed the scheme in language sure to make its point: “These priests deserve hanging in hell” for they are “fornicators,” “parasites,” “money misers,” and “fat swine.” Strong words in a volatile church climate. “They (priests) are gluttons whose stomachs are overfilled until their double chins hang down.”
Later came Hus’ outrange against indulgences, the selling of heavenly favor used to finance papal wars. “Shall I keep silent?” he asked. “God forbid.”
Four times Hus was excommunicated. For two years (1412-14) he went into exile working in villages in southern Bohemia, writing, preaching, and keeping his head down. Then in October 1414, Pope John XXIII convened the Council of Constance and invited Jan Hus to attend. Two grand purposed filled the Council’s agenda: End the schism and eradicate heresy from Europe. Promised safe conduct, Hus accepted the invitation, joking that “the goose (Hus in Czech means “goose”) is not yet cooked and is not afraid of being cooked.”
Within a week he was arrested. For several months Hus wasted away in a cell in the Dominican monastery on an island in Lake Constance, saved from death there only to face accusations that surely foretold a bitter death to come.
Hus’s critics brought the common charges: dangerous heretic, unworthy of the name of Christian, wicked man, teacher of a fourth person in the Godhead – all charges to which Hus was forbidden to reply.
On July 6, 1415, amid shouts and jeers, the church committed his soul to the devil. Hus was pushed by a crowd through the streets of Constance to the piled tinder, wrapped by the neck to a stake, and set blaze. He died singing, “Jesus, Son of the living God, have mercy on me.”
“DO NOT BELIEVE THAT I HAVE TAUGHT ANYTHING BUT THE TRUTH. I HAVE TAUGHT NO ERROR. THE TRUTHS I HAVE TAUGHT I WILL SEAL WITH MY BLOOD.” _ Czech Reformer Jan Hus
- - -
Lược dịch bằng Việt ngữ như sau:
Những kẻ buộc tội tuyên bố ở pháp tòa rằng Jan Hus sẽ không chỉ chết, mà còn chết mà không có hy vọng gì. Họ nói: "Chúng tôi sẽ lấy đi khỏi anh chiếc ly cứu chuộc." Nhưng Hus nói: "Tôi tin Thiên Cổ Đế Uy Quyền... Ngài sẽ không lấy đi khỏi tôi chiếc ly cứu chuộc của Ngài. Tôi chắc chắn hy vọng được uống nó ngày hôm nay, trong vương quốc của Ngài."
Ly cứu chuộc là chìa khóa cho "tội lỗi" của Hus. Sinh năm 1362 tại một ngôi làng Husenic ở miền đông Bohemia (nay là cộng hòa Czech), Hus là con trai của một nông dân nghèo. Khi còn là cậu bé Hus học được việc cầu nguyện bên chân mẹ mình. Bà mẹ sùng mộ đạo Thiên Cổ đã hướng cậu theo nghề linh mục, một nghề mà cậu có thể tìm được bao lợi ích, và cả tiền bạc lẫn uy tín (prestige) để thoát khỏi đói nghèo. Là một học sinh trung bình nhưng chăm chỉ, Hus nhận được bằng thạc sĩ thần học (của tôn giáo) ở nhà thờ Bethlehem năm 1402. Không lâu trước đó, Hus nghe tin tức từ Anh quốc, về một nhà cải cách tôn giáo (reformer) tên là John Wycliffe.
Ý John Wycliffe chủ yếu xoay quanh tính tự nhiên của ly hiệp thông (communion cup): Có phải rượu của Thiên Cổ Đế (Lord) đã được chuyển thành máu của Thiên Đế (Đức Christ) trong bữa tiệc ly? (the Mass)
Có, những nhà thần học người Đức và Roma nói. Không, những người ủng hộ Wycliffe và người Czech. Vì thế "chiếc ly" trở thành một biểu tượng cải cách mà Hus phải mang lên giàn thiêu (pyre).
Đầu thế kỷ 15 là khoảng thời gian nguy hiểm. Nhà thờ chia rẽ đối nghịch nhau giữa hai giáo hoàng ở Pháp và Rome. Cái được gọi là Great Schism (đại ly giáo) từ năm 1378 - 1417 có nghĩa là mỗi vị lãnh đạo, chính trị gia, linh mục, tu sĩ phải chọn phe, xem phe giáo hoàng nào sẽ thắng thế. Trong lúc đó, ảnh hưởng của Wycliffe tới những lời thuyết giảng của Hus trở nên một sự đe dọa rõ ràng cho giáo hội.
Năm 1405, Hus bắt đầu tuyên bố những tội lỗi của giới tu sĩ - tăng lữ (clergy) và lên án những trò lừa của họ với giáo dân. Khi nhà thờ địa phương Bohemia cho rằng Máu của Đức Christ xuất hiện trong bánh thánh. Hus nói: "Những linh mục này xứng đáng bị treo trong hỏa ngục" bởi họ là những kẻ "gian dâm" (fornicator), "ký sinh trùng" (parasite), "con lợn béo" (fat swine). Những từ ngữ mạnh như vậy chưa hết: "Chúng (các linh mục, cha sứ) là những kẻ tham lam, bụng chúng thừa mứa, cằm chúng mỡ đầy chảy sệ."
Sau đó Hus phản đối những lá "giải tội", sự bán mua đặc ân của thiên đường (heavenly favor), để viện trợ tiền bạc cho những trận chiến của giáo hoàng. "Tôi có nên im lặng?" Hus hỏi. "God cấm." Hus đáp. Bốn lần, Hus bị giáo hội tuyệt thông (excommunicate). Trong hai năm (1412-14), Hus bị trục xuất xa sứ. Tháng 10 năm 1414, giáo hoàng John XXIII tổ chức hội nghị và mời Hus tham gia. Hội nghị để ra hai mục đích lớn: Chấm dứt ly giáo và xóa bỏ dị giáo ở Châu Âu. Hus nhận lời mời, nói đùa rằng "con ngỗng (Hus trong tiếng Czech nghĩa là con ngỗng) vẫn chưa bị nấu, nhưng nó không sợ phải bị nấu."
Vài tuần sau đó Hus bị bắt. Vài tháng chờ đợi trong tù, ở một hòn đảo. Sự chỉ trích của Hus khiến giáo hội tuyên cáo những tội sau cho Hus: kẻ dị giáo nguy hiểm, kẻ không xứng danh tín hữu Christ, kẻ xấu ác... tất cả những tội danh này không thể bào chữa. Ngày 6 tháng 7 năm 1415, nhà thờ đưa Hus lên giàn thiêu. Hus bị đẩy bởi đám đông trên đường tới giàn hỏa, cổ bị trói vào cọc rồi châm lửa. Hus chết khi đang hát: "Jesus, Con Thiên Chúa hằng sống, xin khoan dung tôi."
"TÔI KHÔNG GIẢNG ĐIỀU GÌ NGOÀI SỰ THẬT. TÔI KHÔNG GIẢNG GÌ LỖI HẠI. SỰ THỰC MÀ TÔI GIẢNG, TÔI SẼ ĐÓNG DẤU TRIỆN BẰNG MÁU CỦA MÌNH." - Jan Hus
Monday, June 12, 2023
C53: Đại Đạo Vô Kỷ
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment