Chương 59: Bức Hại Trong Cải Cách Tôn Giáo (1500 - 1600)
PERSECUTION DURING THE REFORMATION (1500 – 1600)
Martin Luther đau đớn về những sự lộn xộn đã tận mắt chứng kiến, muốn giải quyết những sự không thống nhất giữa thần học (theology) và thực tiễn (practice), để lập lại đúng đắn trong các nhà thờ công giáo, và mở ra những diễn đàn (discussion) cho mọi người tự do bàn luận và suy nghĩ về những điểm trong các giáo lý (doctrine). Những giáo lý đã bị khảm vàng cứng nhắc qua hàng trăm năm (centuries) bởi chính trị và những nhà quản lý tồi tàn (mismanagement).
Martin Luther không định lập một nhà thờ mới, nhưng quan điểm của ông về Quyền Lực và Hiệu Lực của Sự Xá Tội (Indulgence) trong 95 Luận Án gửi tới trước cửa nhà thờ chính tòa ở Wittenberg vào ngày 31 tháng 10 năm 1517 đã dẫn tới một cuộc biểu tình lớn trong dân chúng, chống lại những sự lạm dụng của nhà thờ và các giáo sĩ. Điều này mở đường cho phong trào (movement) cải cách Tôn giáo (Protestant). <Công giáo là giáo điều của nhà thờ chính quyền, còn Tin lành – Protestant là để chỉ hệ tư duy mở từ sau cuộc cải cách (Reformation) này. >
<Chi tiết lịch sử: 95 Luận Án của Martin Luther là mẻ in đầu tiên của chiếc máy in do thợ kim hoàn Johannes Gutenberg người Đức phát minh. Nhờ những bản in này mà Martin Luther mới có thể rải truyền đơn, phát tờ rơi khắp nơi cho công chúng. Martin Luther là khách hàng đầu tiên của Gutenberg sẵn sàng bỏ tiền túi của mình ra để in, và phân phát miễn phí những bản in đó.>
Martin Luther là một học giả (scholar), linh mục có chức sắc, và là một nhà hoạt động xã hội. Cuối cùng ông bị chính quyền và nhà thờ cáo buộc là một kẻ dị giáo (heretic) vào năm 1520, bị tuyệt thông (excommunicate), Martin Luther vẫn xuất hiện trong nhiều sự kiện và phát biểu trước công chúng. Kết quả là, Martin được chính quyền coi như kẻ thường xuyên phạm tội (an outlaw) và mọi bài viết của ông đều bị cẩm. Mọi sự lưu hành những tác phẩm của ông là phạm pháp, hàng lậu (contraband). Luther nợ ân tình của một người bảo trợ trung thành, tên là Frederick ở Saxony. Nhờ lãnh chúa này mà Martin sống sót và trong thời gian ẩn náu đã thực hiện công việc quan trọng và tốt đẹp nhất cho hậu thế. Toàn bộ cuốn kinh thánh lần đầu tiên được Martin Luther dịch sang tiếng Đức. Thành quả lớn nhất của Martin Luther không phải là cuộc cải cách tôn giáo mà là sự dịch thuật này.
Martin Luther mở đầu cho tiếng nói và sự tử đạo của rất nhiều người trên khắp Châu Âu. Một luật sư người Pháp tên John Calvin, tại Geneva năm 1536 đã xuất bản một Hiến Pháp Tôn Giáo Cơ Đốc (Christian Religion), là tiên đề cho tính hệ thống trong thần học và nhà thờ sau này.
Sự cải cách tôn giáo không chỉ là một phong trào. Nó là một sự phục hồi trên ý nghĩa chân giá trị của mỗi cá nhân và sự tự trị hay tự do ý chí (autonomy) thôi thúc các nhà tri thức tìm hiểu và dịch cuốn Kinh Thánh ra tiếng bản ngữ của mình. Một sự hồi lại, phục hưng tri thức cho quần chúng. Máu, lửa và hành hình hay bức hại không làm nhụt chí họ. Sau đây là những vị tử đạo trong khoảng thời gian 100 năm từ thế kỷ 15 đến 16.
HENRY VOES, JOHANN ECK, LAMPERTUS THORN (1523)
Đọc nhầm một cuốn sách có thể phải trả giá bằng cả một cuộc đời.
Khắp Châu Âu những năm 1521, việc đọc và lan truyền sách do Martin Luther viết là phạm pháp, là tội lỗi. Bởi vì Martin Luther là một linh mục dòng Augustine, những tư tưởng và quan điểm của ông được dòng tu này tiếp nhận nồng nhiệt. Nhiều linh mục khác trong dòng Augustine cũng thuyết giảng dựa trên những tư tưởng đó bất chấp việc Martin Luther đã bị tuyệt thông bởi giáo hội. Khi những lời giảng này đến tai của những vị chức sắc, cả dòng Augustine bị truy tội vào năm 1522. Nhiều mục sư bị bắt, nhà thờ dòng Augustine bị phá hủy (demolish). Giáo hoàng coi họ là những kẻ bất trị, không thể dung tha, tâm thần và tâm linh họ đã bị thao túng bởi tư tưởng của Quỷ, vì thế là những kẻ ‘dị giáo’.
Jame Probst, trưởng tu viện đã trốn thoát, phụ tá của ông là Melchior Mirish nhận sai và dự phiên tòa Inquisition (Tòa án dị giáo - tổ chức do Giáo hội Công giáo La Mã thành lập từ thế kỷ 13, chuyên điều tra, thẩm vấn và kết án những ai không theo tín ngưỡng chính thống.)
Một số linh mục và tu sĩ khác kiên quyết giữ vững lập trường quan điểm của họ, vì thế phải chết trên tòa hỏa thiêu, với tội danh chối bỏ Giáo hoàng, đấng chuyên quyền, chối bỏ điều lệ và quy định của nhà thờ, hợp tác với ma quỷ… Henry Voes và Johann Eck chết vào ngày 1 tháng 7 năm 1523. Lampertus được cho thời gian suy nghĩ và “hối cải” song cũng chịu chết mà không thay đổi đức tin “thoái hóa” của mình.
Bản cáo trạng của họ không liên quan tới chính trị mà chỉ xoay quanh vấn đề thần học và giáo lý. Những người khởi tố tại tòa chỉ yêu cầu họ “lại đạo” (return to faith) và chỉ cần mỗi người trong họ nói một tiếng đồng ý với “chính giáo” là xong. Nhưng họ cứ một mực cứng đầu mà tin theo những điều “tà vạy”. Khi tòa nói Martin Luther là kẻ phạm tội trọng đã dẫn họ lạc đường, Henry Voes phản trả lời: “Phải, chúng tôi đã lạc lối, cũng như những tông đồ đã bị Đấng Christ dẫn đi lạc lối khỏi thế gian này. Họ không sợ chỉ dụ và sắc lệnh của Giáo hoàng hay bất cứ vị vua nào ở trần thế. Bởi họ chỉ tin vào những điều răn của God, chứ không phải của đạo luật loài người.” Những lời đối đáp như vậy như những tia lửa trong đám củi khô, lấy đi mạng sống của họ. Và những kẻ cầm quyền cũng bị chính ngọn lửa đó thiêu đốt đêm ngày, chết mòn trên nấm mồ của quyền lực hay trong hỏa ngục.
Martin Luther khi nghe những tin ấy về bạn hữu thì quá ngưỡng đau buồn. Họ bị hành hình trước công chúng, còn Martin đau đớn thay lại phải trốn chui rúc ở nơi an ổn, dưới sự bảo trợ của một người không cho phép ông đi vào chỗ chết. Martin viết bài ca về những vị tử đạo, vì Đấng Christ chân thật:
“Cựu thế lực đã bắt họ, khủng bố họ, đe dọa họ.
Họ phải chối bỏ Lời Chúa, phải thừa nhận lời Tạo Vật
Họ bị cám dỗ và lừa dối, song họ không thỏa hiệp
Bởi thế những kẻ ngụy biện dưới danh Thiên Chúa đã đốt họ
Chúng bất lực trước họ, những người bạn của Tinh Thần
Đấng Tinh Thần đã chứng kiến tất cả những trò hề của Tạo Vật
Tạo Vật thì thất bại, nhưng Thiên Chúa thành công.”
“ Hãy coi tất cả nhưng niềm vui (joy), các anh em tôi, khi an hem gặp vô số thử thách và hoạn nạn, bởi anh em biết đó là phép thử đức tin kiên định nơi mình.” (James 1:2-3)
FELIX MANZ (1527)
Felix Manz là kết quả của mối tình vụng trộm không hôn thú giữa một mục sư và một người phụ nữ. Lớn lên trong gian khó, Felix cũng đi tu và trở thành một mục sư như cha. Ông sớm có một nhóm bạn với tư tưởng tân tiến và những tư duy phản biện. Trong một cuộc họp cầu nguyện giữa họ, lời hỏi đặt ra là: “Chúng ta nên theo ai? Điều luật nào chi phối (govern) mối quan hệ của một người với Đấng Chúa?”
Vài năm sau, Felix Manz bị bắt và cầm tù, được yêu cầu phải từ bỏ những tư duy “cấp tiến” gây ảnh hưởng tiêu cực đến thể chế. Felix không từ bỏ. Vào ngày 1 tháng 5 năm 1527, Felix bị cho lên thuyền, đẩy ra giữa sông Lammat gần hồ Zurich, buộc đá vào người và ném xuống. Lời cuối của Felix khi còn ở trong tù đã viết bức thư cho mẹ và em mình rằng: “Con tán dương Ngài, Đấng Christ cùng Thiên Chúa trên trời, bởi kỳ lạ thay Ngài đã lấy đi mọi nỗi buồn hay bi thương nơi con, trước cả khi cái chết tới. Con đã có niềm vui vĩnh hằng trong Ngài…”
Chết khi chưa đầy ba mươi tuổi, Felix Manz và nhóm bạn của mình chính là sáng lập viên đầu tiên của dòng Brethren, sau này đổi tên thành Mennonites (dòng tín hữu mạnh mẽ vẫn duy trì và phát triển tốt cho tới năm 2023 và sau đó.)
MICHAEL SATTLER (1495 – 1527)
Michael Sattler sinh năm 1495 và theo con đường tu sĩ. Cũng như nhiều tu sĩ và linh mục trong thời kỳ Cải Cách tôn giáo. Vật lộn với tình cảm hồng trần và tình yêu với God, ông đã phá bỏ lời thề celibacy (sống độc thân – không lập gia đình). Cũng như thế là nữ tu Margarita. Cả hai đã có cuộc sống vợ chồng không chính thức trong những tu viện thiêng liêng.
Năm 1526, Michael Sattler thuyết giảng tại nhà thờ ở Horb, một nhà nhờ công giáo La Mã ở Austria. Tháng 4, năm 1527 Michael và Margarita tới Đức để tham dự một hội nghị thảo luận về “Bảy đề mục đức tin” theo những người Anabaptist (những người theo thuyết rửa tội lại – là một thuyết bị cấm bởi chính giáo). Michael và Margarita tham dự nhiệt tình vào phong trào Anabaptist này, vì thế đã bị bắt giữ. Mọi công việc thuyết giảng tại nhà thờ bị đình chỉ. Song họ vẫn không từ bỏ niềm tin kiên cố. Bị cáo buộc nhiều tội trạng, Michael bị tuyên án treo cổ để răn đe những kẻ khác. Bản án chi tiết là: “Anh sẽ bị giải tới bục trước công chúng, bị cắt lưỡi, trói vào xe ngựa kéo lê khắp phố, sau đó thiêu trên giàn hỏa bởi là một kẻ dị giáo.”
Tám ngày sau Margarita cũng chịu chung số phận, thiêu ở thành phố Rottenburg gần khu rừng đen.
Bởi tìm thấy sự trọn vẹn giữa tình yêu với Đấng Chúa và tình yêu với Margarita, trong thuyết Anabaptist, Michael sẵn sàng chết để thể hiện niềm tin ấy nơi mình. Sau cái chết của họ, những người theo Anabaptist bùng lên khắp nơi và không gì có thể ngăn họ lại. Điều gì đó vượt trên cả nỗi sợ cái chết, ngọn lửa trong tâm hồn họ còn nóng hơn ngọn lửa trên giàn thiêu.
BALTHASAR HUBMAIER (1480 – 1528)
Balthasar là học giả của trường phái Anabaptist, cũng từng làm việc với Martin Luther. Balthasar là người đại diện duy nhất của Anabaptist có bằng tiến sĩ thần học. Những trang viết của ông tiếp tục sống mãi với các tín hữu khắp nơi trên thế giới sau khi ông qua đời.
Là một học giả, ông biết mọi sự tranh luận về bất cứ chủ đề gì đều có mặt tốt và mặt không tốt của nó. Chính những hiểu biết của ông gây rắc rối bất cứ khi nào lòng can đảm nơi ông thất thế trước hoạt động đa dạng nơi tâm trí linh hoạt của ông.
Ví dụ, khi Zurich, một cộng sự của ông đang cố gắng trốn khỏi sự truy nã của quân đội nước Austria, Balthasar đã bị bắt vì truyền giảng những tư tưởng không chính thống. Ở trong tù bị tra tấn, Balthasar đã đồng ý buông xuôi những tư tưởng tâm đắc, và sau khi được phóng thích, rời khỏi Switzerland, ông hối hận vì đã không can đảm như những người tử đạo vì đức tin kiên định và dũng mãnh của họ: “Con có thể sai lầm, là con người, nhưng con không thể vinh hạnh chết như những người dị giáo … Lạy God, tha thứ cho sự yếu đuối nơi con, đã không noi gương họ.”
Tuy nhiên bù lại, Balthasar đã giảng đạo và dạy dỗ khắp nơi ở Bavaria. Ông rửa tội cho những người trưởng thành, theo đúng nghĩa của nó. Khi Balthasar trở nên nổi tiếng, ông bị bắt giữ và trục xuất. Tám tháng sau khi ở trong tù ở Vienna, ngày 10 tháng 8 năm 1528 ông bị thiêu sống ở giàn hỏa, trước sự chứng kiến của vợ ông là bà Elizabeth. Ba ngày sau đó, Elizabeth cũng bị hành quyết bằng cách buộc đá vào cổ và ném xuống sông Danube.
Di sản đức tin của họ bao gồm những dòng viết, truyền đạt tình yêu của Thiên Chúa tới tất cả những kẻ tội lỗi. Sự rửa tội là một bằng chứng, và ôn hòa là bổn phận và nghĩa vụ của tín hữu bất kể bức hại nào. Balthasar viết: “Không một người vô thần (atheist) hay kẻ ngoại đạo (pagan) nào nên phải chịu dày vò thống khổ về thể xác hay tinh thần chỉ bởi họ không theo Cơ Đốc giáo của nhà thờ và giáo hoàng. Thay vì đó là sự kiên nhẫn và tình yêu nơi God và những ai yêu Ngài, sẽ thu hút họ một cách tự nhiên nhất.”
PATRICK HAMILTON (1527), HENRY FOREST (1529)
Patrick Hamilton là một thành viên hoàng gia Scottish. Ông học ở Paris và quen Eramus, một trong những học giả có tiếng ở Châu Âu.
Patrick Hamilton được bổ nhiệm làm bề trên - cha trưởng tu viện (abbot) của Ferne cùng năm mà Martin Luther công bố 95 bản luận văn trước cửa nhà thờ Wittenberg. Patrick đã gặp Martin Luther và Philip Melancthon, đồng tác giả của nhiều bài viết Cải cách tôn giáo. Patrick Hamilton còn là một nhạc sĩ tài hoa, đã soạn nhiều bản nhạc và thánh ca trong nhà thờ. Người đàn ông trẻ tên Patrick này có một tương lai tươi sáng. Chức sắc và địa vị cao trọng, những mối quan hệ với hoàng gia và chính quyền, song kỹ năng sống duy nhất mà Patrick còn thiếu: đó là cảm biết mối nguy hiểm.
Mùa hè năm 1523, Patrick trở lại Châu Âu cùng đức tin mãnh liệt về sự thật trong kinh thánh: Lòng khoan của Thiên Chúa trong Đức Christ không liên quan đến những lễ xá tội trong nhà thờ. Tổng giám mục James Beaton chăm chú lắng nghe Patrick và khuyên bảo một cách chân tình rằng tốt hơn hết là Patrick hãy giữ mồm giữ miệng, và giữ mọi ý tưởng “cải cách” của mình lại nếu không muốn mất mạng!
Kết liễu Patrick là một quyết định không dễ thực hiện, bởi dù sao ông cũng là thành viên hoàng tộc. Mùa thu năm 1527, ngay sau đám cưới của mình, Patrick được mời tới tham giự một hội đàm giữa các lãnh đạo – các cha bề trên, để bàn về “những giáo lý mới”. Không ngờ rằng, chính trong cuộc họp ấy, Patrick đã bị bắt giữ, buộc tội và kết án dị giáo, và bị xử tử vào chiều hôm sau. Bản án gấp gáp được thực thi trước khi những người quen biết và bạn bè của Patrick phát hiện. Sợ rằng họ sẽ lợi dụng hoàng gia để trợ giúp Patrick được trắng án.
Patrick nghiễm nhiên không chút sợ sệt, không chút lung lay thay đổi những gì mình đã nói. Ông tin rằng những điều đó không có gì trái đạo, trái lẽ phải. Patrick lên giàn thiêu như bao kẻ dị giáo khác, trong tinh thần cầu nguyện tột độ.
Patrick bị trói vào cột, dưới hai cánh tay buộc hai túi thuốc nổ và củi đốt. Kỳ lạ thay thuốc nổ nhưng không cháy và củi chất đống không bắt lửa đủ lớn để gây chết người. Nên phương pháp hành hình được thay đổi, Patrick bị treo lên và bên dưới là ngọn lửa cháy âm ỉ. Cơ thể bỏng rộp quằn quại trước sự chứng kiến của đám đông và của những kẻ máu lạnh. Patrick vẫn chưa chết sau sáu tiếng hành hình tại quảng trường Đại học St. Salvator. Người ta nghe tiếng ông thống khổ kêu lên: “Đức Chúa Jesus, xin nhận lấy tinh thần tôi. Bóng tối còn tràn ngập đất này bao lâu nữa?”
Hai năm sau cái chết của Patrick Hamilton, một tu sĩ dòng Biển Đức (Benedictine) tên là Henry Forest bắt đầu đưa câu chuyện về Patrick vào những bài thuyết giáo của mình, ngợi ca tấm gương tử đạo ấy. Và kết quả là Henry cũng được lãnh án tử. Chỉ có điều cái chết này không diễn ra trước công chúng mà giấu giếm sau những song sắt nhà tù. John Knox tiếp bước công nghiệp của Patrick và Henry, cũng như những người đã chứng kiến sự thật không thể chối cãi về đức tin và những sự cầm quyền.
JOHN FRITH (1503 – 1533)
Một linh mục người Anh tên là John Frith sống chỉ ba mươi năm trên trần gian. Song ông là người có công giúp William Tyndale dịch cuốn kinh thánh sang tiếng Anh. Công việc đó khiến John phải ngồi tù ba năm trời. Sau khi được thả, John tới Marburg, nơi ông lại tiếp tục dịch cuốn sách của Patrick Hamilton. John cũng viết một tác phẩm về sự chuộc tội.
Khi John Frith trở lại Anh vào năm 1532, ông bị bắt lần hai vì tội dị giáo. Nhưng dù ở trong tù, ông vẫn tiếp tục viết và trình bày rõ ràng một cách có hệ thống về những quan điểm cải cách và về bí tích thánh thể.
John Frith nhận án tử nhưng được cấp khoan hồng tha thứ (pardon) nếu chấp nhận từ bỏ những quan điểm trên, hợp tác với chính giáo (nhà thờ công giáo La Mã). Frith từ chối đặc ân đó và sẵn sàng chết.
John Frith bị trói cọc và thiêu sống vào ngày 4 tháng 7 năm 1533, ở quảng trường London. Năm 1574, bốn mươi năm sau đó, những tác phẩm và công việc của John Frith được John Foxe xuất bản.
No comments:
Post a Comment