LƯU Ý QUAN TRỌNG: CẦN ĐƯỢC HIỂU
TÌNH YÊU TUYỆT ĐỐI KHÔNG CHỈ LÀ CHUYỆN VÀO RA RA VÀO, XUẤT XUẤT NHẬP NHẬP.
(BẤT CỨ CHUYỆN GÌ CŨNG ẨN CHỨA TÌNH YÊU THIÊNG LIÊNG TUYỆT ĐỐI)
TRÒ XUẤT NHẬP CẢNH HỒNG TRẦN ĐÓ CHỈ LÀ CÔNG VỤ, CÔNG VIỆC, CÔNG TÁC ĐI LẠI, NGƯỢC XUÔI ĐI VỀ, TRÊN NHỮNG CUNG ĐƯỜNG HÀNH HƯƠNG BẤT TẬN.
ĐƯỜNG CHIM BAY HAY ĐƯỜNG CÁ LỘI, ĐƯỜNG NGỰA HÍ HAY ĐƯỜNG ỐC SÊN BÒ, TẤT THẢY ĐỀU LÀ ĐƯỜNG TÌNH BẤT DIỆT, VĨNH HẰNG YÊU.
BẠN ĐƯỜNG!
Tứ Đại Đồng Ca
☆ Đất…
Đất đai đá ngọc… Sữa Ngà Nguồn Thiêng gieo chủng sinh!
Bao kiếp âm thầm lặng lẽ miên trường…
Tình thương chan chứa suốt thinh không!
Đức Ân Vô Tận Vô Cùng ai thấu tri?
Âm thầm vòng quay…
Không quãng hao gầy!
Hoán Luân Nhật Nguyệt đêm ngày mật miên yêu thế nhơn!
☆ Nước…
Có khi tĩnh lặng khi bồng bềnh khi tuôn láng linh!
Chuyên chở trong mình non nước hữu tình…
Phù sa mang đến khắp nơi nơi…
Lắng sâu tâm mạch suối nguồn yêu thương chí chơn!
Suối Nguồn Hồng Ân
Trong suốt vô ngần!
Chứa chan vô tận Cội Nguồn Tình Yêu nhất như!
☆ Gió…
Có khi thinh lặng khi nhàn ru khi bão giông…
Da diết tự mình tha thiết ân tình!
Người nơi nhơn thế có hay chăng?
Gió miên thinh vọng Chơn Nguồn Thiêng thẳm sâu!
Con Đường Tình Yêu
Không ít không nhiều.
Trước sau như một vỗ về yêu thương không giới ranh!
☆ Lửa…
Nấu nung tinh luyện hững hờ liu riu khi hãn hung!
Dung chứa tâm tình khi ấm khi nồng…
Vầng Dương lan tỏa khắp không gian!
Lửa mang năng lượng vĩnh hằng yêu thương chẳng nguôi!
Vô Thường Nhơn Gian
Thay thế Chơn Thường!
Hiểu ra…
Huynh Đệ Đại Đồng Càn Khôn không cách xa!
Thể theo điệu lý Trăng Khu Dạ Khúc
Lời Người Nhà Quê
☆ ☆ ☆ ☆ ☆
Sự sống âm thầm lặng lẽ vô thinh, mãi hằng hữu biểu lộ tình yêu thương tuyệt đối bình đẳng với mọi cung bậc tương ưng trong mọi trạng thái hình tướng danh sắc… không nề hà chi.
Nhưng do “khoác lên cái lớp áo túi da sắc thân người” nhằm trải nghiệm tiến hóa nơi đời cho nên, dù có đã tâm niệm “mở toang cửa hẹp thường tri” như kiểu chi thì chư huynh đệ vẫn luôn thường còn chút ngăn cách tự ti chưa hoàn toàn thanh thoát thong dong tự tại trong mọi cảm thọ...
Điều đó cũng không có gì sai hết cả, vì bởi chư huynh đệ không thể nào không còn chút chấp nhất định kiến mang tính chất hư vọng phi chơn cho đến khi Hành Trình Tiến Hóa Sinh Mệnh của chư huynh đệ được hoàn toàn viên mãn thập thành.
Mọi cách ngăn, mọi thách đố, mọi vấn hỏi, hết thảy sự nghi tình trong đời sống trần sinh ở mọi thời đại, cũng đều do nơi tâm kết nơi chư huynh đệ còn chưa hoàn toàn suốt thấu.
Bài học tiến hóa còn, chư huynh đệ còn học còn hành thì cứ còn nhất thiết phải chấp nhất, đây là chuyện bình thường tất yếu thôi vậy.
Vì vậy cho nên đã là Người Phụng Sự thì không thể không cúc cung tận tụy, tận lực hết mình, bình thản đón nhận Nghiệp Lực Gia Thân do bởi “duyên đến duyên đi” sàng sảy tới lui vô chừng trong trần cấu, chí nguyện dâng hiến, tâm niệm xả thân không hề có chút điều chi tiếc nuối!
Mọi ý ngôn hành đều thời thời nhất tâm nhất niệm Thiên Hướng Thiện Hành, âm thầm lặng lẽ, mật hạnh hành thâm nhất như suốt khắp chẳng chút vọng tư, tâm nguyên hằng bất nhị không hai chuyên chính!
Chuyện xưa kể lại rằng, trong lúc đi khất thực, đức Thích Ca đến vùng lân cận làng Ekanàla phía nam Ràjagaha, vừa đúng lúc Bà-la-môn hào phú Bhàradvàja đang phân phát cơm sữa cho nông dân ăn sáng. Ðức Thích Ca lặng lẽ nhập bọn và đợi xem Người có được chia phần cơm không.
Bhàradvàja: Tôi cày và gieo, rồi sau khi xong việc, tôi mới ăn. Này Sa-môn, ngài cũng phải cày và gieo, rồi ngài mới được nhận phần cơm.
Ðức Thích Ca: Này Bà-la-môn, ta cũng cày và gieo, rồi khi ta làm xong, ta mới ăn.
Bhàradvàja: Chúng tôi không thấy Ðạo Sư Gotama dùng cái ách hay cái cày, tuy nhiên ngài lại bảo như thế?
Ðức Thích Ca: Ta gieo hạt giống chánh tín, cây cày là trí tuệ, tinh tấn là đôi bò kéo cày, thành quả lao động của ta là trạng thái Bất Tử. Bất cứ ai làm xong việc ấy, sẽ được giải thoát khổ đau.
Nhưng đến khi Bà-la-môn Bhàradvàja cúng dường đức Thích Ca một chén cơm sữa, thì Người lại chối từ. [Do bởi vì] Một tặng vật nhận được do tài hùng biện hoa mỹ không phải là món khất thực chân chánh và không đem lại chút phước đức công hạnh gì cho thí chủ [Phước đức công hạnh phải do chính mình chuyên chính học hành mới có và mới chính thực là thực có].
Tuy nhiên, vị Bà-la-môn không lấy chén cơm lại, vì không xứng đáng với phẩm cách của vị ấy nếu phải ăn một món đã bị chối từ hoặc đem cho các nông dân, nên vị ấy đổ xuống con suối gần đó. [Bà-la-môn còn chấp nhất vào cái thân phận danh giá của giai cấp cao quý theo quan niệm xã hội].
Cách dùng ảnh dụ người gieo hạt rất thích hợp với hoàn cảnh Bà-la-môn Bhàradvàja, điều mà đức Thích Ca đã làm đối với vị Bà-la-môn thật sự có hiệu quả tức thì. Những hạt giống bằng lời mà đức Phật đã gieo vào tâm vị Bà-la-môn đến lúc chín muồi, vị ấy được Giáo Pháp cảm hóa và cũng trở thành Tỳ-kheo (SN 7.2.1)
Năm 517 là một năm đói kém. Theo lời mời của một Bà-la-môn cư sĩ, đức Thích Ca cùng vài đệ tử hộ tống đến an cư mùa mưa gần Verañ jà, một nơi gần phía nam thành Sàvatthi (Sv Par 1. 1. 9). Hội đồng xã đã phát phiếu khẩu phần cho dân chúng đang bị nạn đói, nên món khất thực khó kiếm đến nỗi nhiều khi các Tỳ-kheo phải mang bát không trở về. May mắn thay vài nhà buôn ngựa từ Bắc Ấn cũng vừa đến ở tại Verañ ja với bầy ngựa nên họ cho các Tỳ-kheo một ít cám bột mì. Khi tôn giả Ànanda đem đến mời đức Thích Ca món ăn này, Người bình thản tuyên bố một ngày kia tình thế sẽ trở lại tốt đẹp hơn (Sv Par 1. 2. 1). [Đức Thích Ca biểu lộ Đức Tin Yêu Tuyệt Đối bằng chính sự bình thản an vui trong từng giây phút giây thực tại đang là, bất chấp nghịch cảnh bủa vây trùng trùng của tai ách khổ nghèo bệnh tật…]
Năm 515 trước CN, Ràhula, con trai của bậc Ðạo Sư, đã được hai mươi tuổi (kể từ lúc thụ thai) và đã đến độ tuổi tối thiểu để một Sa-di được thọ đại giới Tỳ-kheo. Sau khi đức Thích Ca đã an cư mùa mưa ở tinh xá Jetavana gần Sàvatthi, một hôm ngài bảo Sa-di Ràhula cùng đi với Người vào trong Rừng Người Mù và Ràhula sẵn sàng đồng ý. (MN 147)
Cũng như lệ thường trong trường hợp con của các người cha vĩ đại, Ràhula là người có cá tính không rõ rệt. Các khuynh hướng hơi thiên về nói phóng đại và thêu dệt theo tưởng tượng, một đặc điểm có thể biểu lộ năng khiếu tường thuật truyện văn chương, đã bị trục xuất ra khỏi trí chàng thiếu niên ở tuổi mười lăm, như một "hình thức nói dối" (MN 61), và ngay cả cảm tưởng tự tin do niềm thích thú về vẻ mặt khôi ngô của mình cũng bị tẩy sạch luôn (MN 62). Ràhula không có được một chút phong cách thanh lịch, tài năng ngoại giao và uy lực thuyết phục như thân phụ, chứ đừng nói gì đến vẻ mặt rực sáng đầy kỳ diệu của Người.
Nhưng quả thật, làm thế nào chàng có thể phát triển được những đặc tính như vậy, những đặc tính chỉ có thể tăng trưởng khi phải đương đầu với cuộc sống thế gian?
Ðược dưỡng dục từ tuổi lên chín trong một cộng đồng Tăng chúng chỉ toàn nam giới, lại được trưởng lão Sàriputta và đức Thích Ca huấn luyện chuyên tâm thiền quán về giải thoát và tuân thủ lý tưởng tu tập bản thân của một Tỳ-kheo, nên chàng không thể hưởng thời kỳ ấu thơ theo thói vui chơi.
Ràhula không được phép phát triển các năng khiếu và chỉ được dưỡng dục theo một đường lối phát triển hạn hẹp, chàng đã trở thành một người đầy đủ trí tuệ kiến thức, nhưng sẵn sàng chấp nhận giáo huấn và chịu phục tòng: những đức tính duy nhất chàng được phép phát triển là tinh cần và tuân thủ giới luật tu hành thật nghiêm khắc. Như mọi người đều đồng ý, chàng là một thanh niên thông minh khả ái, nhưng không có gì khác hơn thế nữa.
Mối tương quan giữa đức Ràhula và Sa-di Ràhula đầy tin cẩn và thiện cảm, song không thân ái hoặc mật thiết, vì điều này theo quan điểm đức Thích Ca có nghĩa là tạo nên một mối ràng buộc nội tâm có thể gây khổ đau. Vì vậy cũng dễ hiểu, Kinh Ðiển quả thực đã không tường thuật những cuộc nói chuyện riêng tư giữa hai cha con: các kinh Giáo Giới Ràhula cũng không khác gì về hình thức với những kinh nghiệm mà bậc Ðạo Sư giảng giải, chia sẻ cho chúng Tỳ-kheo cả.
Ví dụ sau đây là lời ngài dạy Sa-di Ràhula khi hai vị cùng ngồi dưới gốc cây trong Rừng Người Mù. Bài kinh liên hệ đến phương pháp phòng hộ bản thân khỏi bị xúc động do các nhận thức giác quan:
-- Này Ràhula, con nghĩ thế nào? Con mắt, hình sắc, nhãn thức là thường hằng hay vô thường?
-- Bạch Thế Tôn, vô thường.
-- Thế tai, mũi, lưỡi, thân (xúc giác) và tâm hay ý (cơ quan tư duy) cùng các pháp và thức tương ứng với chúng là thường hằng hay vô thường?
-- Bạch Thế Tôn, vô thường.
-- Cái gì vô thường thì khổ hay lạc?
-- Bạch Thế Tôn, khổ.
-- Vậy có hợp lý chăng khi nghĩ đến những gì vô thường, khổ đau, chịu biến hoại như sau: "Cái này là của ta, cái này là ta, cái này là tự ngã của ta?".
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
-- Này Ràhula, khi một vị đa văn đệ tử nhận thức điều này, vị ấy yếm ly các căn, các pháp và các thức tương ứng (nghĩa là vị ấy không để cho mình tham đắm chúng). Do vậy, vị ấy ly tham và giải thoát cùng chấm dứt tái sanh. (MN 147, giản lược)
Ngay khi phụ thân thuyết giảng, Sa-di Ràhula lãnh hội ý nghĩa uyên thâm của giáo lý và các lậu hoặc (àsava) đưa đến tái sanh đau khổ đều tan biến dần khỏi tâm vị ấy. Như vậy, vị ấy cũng trở thành một bậc A-la-hán nữa.
Có lẽ cũng chinh năm 515, trong lúc đức Thích Ca đang an cư mùa mưa tại Jetavana gần Sàvatthi, hoặc có lẽ vào một dịp nào đó Người đến viếng thủ đô nước Kosala, đức Thích Ca đã tạo mối giao hữu thân tín với nữ đệ tử đại phú gia Visàkhà (Tỳ-xá-khư). Hơn một thập niên trước, tiểu thư Visàkhà mới lên bảy đã hội ngộ đức Thích Ca khi còn sống cùng cha mẹ ở Bhaddiya (trong nước Anga). Suốt thời gian ấy, nhiều sự kiện xảy ra đến với đời nàng. Ông Dhanañ jaya, phụ thân nàng đã cùng gia đình dời đến Sàketa và tại đây, cô con gái xinh đẹp của ông đã lọt mắt xanh của đám người mai mối cho gia đình phú thương Migàra, người đang tìm một tân nương cho cậu quý tử Punnavaddhana. Cuộc hôn nhân thành tựu, từ đó Visàkhà sống tại Sàvatthi với chồng, và nàng sinh được nhiều con.
Giữa các nữ thí chủ của Tăng chúng, Visàkhà chiếm địa vị đệ nhất. Bà cúng dường chư Tỳ-kheo áo mưa, thực phẩm dành cho những vị sắp đi xa hoặc mới đến, chăm sóc người bệnh, cùng các thứ thực phẩm dược liệu (Mv 8.15.7). Tinh xá quan trọng do bà cống hiến hào phóng là nơi thành lập "Ðông Viên Trùng Các" (pubbàràma) sau này nổi tiếng ở ngoài đông môn kinh thành Sàvatthi.
Khi đức Thích Ca an trú trong tinh xá này, bà Visàkhà thường yết kiến nhiều lần để được Người an ủi sau những chuyện đau buồn. Có một lần bà đã thua kiện: Vua Pasenadi Kosala làm chánh án đã xử thiệt hại về phần bà. Ðang giữa trưa nóng bức, một thời điểm không thích hợp để xin yết kiến, bà đi tìm cho ra đức Thích Ca và kể hết mọi việc với Người. Ðức Thích Ca đầy đủ trí tuệ đã không bênh bỏ phe nào cả, chỉ khuyên bà những lời lẽ đầy triết lý này:
Buộc ràng đau khổ biết chừng nào!
Ðiều phục tự thân: lạc tối cao
Ràng buộc là gây nhiều khổ não,
Thoát ly triền phược khó làm sao! (Ud 2.9)
Một lần khác nhiều năm sau, bà lại đến phi thời xin yết kiến đức Thích Ca , cả người và tóc đều ướt đẫm. Bà thưa với Người rằng một cháu gái yêu quý của bà vừa mất, và vì thế bà ướt đẫm cả người (do lễ tẩy trần sau khi dự đám táng). Bậc Ðạo Sư đáp:
-- Này Visàkhà, bà ước muốn sinh nhiều con cháu bằng dân số ở Sàvatthi chăng?
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
-- Thế có bao nhiêu người chết mỗi ngày ở Sàvatthi?
-- Bạch Thế Tôn, có lẽ mười người hoặc tám chín người -- ít nhất cũng mỗi người một ngày. Chẳng thiếu gì người chết tại Sàvatthi.
-- Này Visàkhà, bà nghĩ thế nào, vậy có bao giờ bà khỏi bị ướt tóc tai áo quần chăng?
-- Bạch Thế Tôn, chắc chắn là không. Con đã quá nhiều khổ đau với bầy con cháu đông đúc này rồi.
-- Này Visàkhà, ta nói cho bà rõ, bất cứ ai có một trăm vật yêu quý sẽ có một trăm mối khổ sầu, ai có chín mươi, tám mươi, năm mươi, hai mươi, mười, năm, hai vật yêu quý sẽ có chừng ấy mối khổ sầu. Nhưng hễ ai không có vật gì yêu quý thì không có khổ sầu. Ta nói cho bà rõ, những người ấy thoát sầu não, ly tham dục:
Tất cả nỗi sầu khổ, khóc than
Thiên hình vạn trạng giữa trần gian
Phát sinh từ vật mình yêu quý,
Không có gì thân, khổ chẳng mang.
Vậy người hạnh phúc, thoát ưu bi,
Sống giữa trần không luyến ái gì,
Nếu ước mong mình không khổ não,
Ở đời không có vật yêu vì.
(Ud 8. 8, giản lược)
No comments:
Post a Comment