Sunday, January 15, 2023

Michelangelo





Michelangelo cuồng công việc đến nỗi ông thức xuyên đêm, dùng ánh nến soi lên vòm trần nhà thờ, tô tô vẽ vẽ từng chi tiết! Không cần nghĩ cũng biết việc ấy gây mỏi cổ đau vai đau gáy đến mức nào. 

Cả cuộc đời Michelangelo cống hiến cho nghệ thuật, sống vì nghệ thuật. Sách về ông vô cùng truyền cảm và cũng có những lời đàm tiếu, bịa đặt, xuyên tạc của người đi sau. Điển hình là chuyện đồn đại Michelangelo đồng tính luyến ái. 

Sự thật ra sao không quan trọng, mà là những gì chính ông đã Kinh nghiệm trong tâm, trải suốt những năm tháng miệt mài đó. 


Michelangelo cực lực bài bác việc dùng cọ vẽ. Ông bám lấy lời nguyền đầy cá tính khi ông chỉ dùng vật dụng sáng tác duy nhất là cái dùi đục của nhà điêu khắc. Là một công nhân cao cấp ở Florence, xuất thân trong một gia đình tiểu quý tộc, ông luôn chống đối sự gò ép, bắt buộc. Dưới quyền Giáo hoàng, chỉ bởi địa vị giáo quyền và truyền thống lâu đời mới có thể buộc ông vẽ vòm trần cho nhà nguyện Sistine. “Thành tựu miễn cưỡng” đó lại chính là bức bích họa vĩ đại nhất thế giới.


Những người đương thời hay nói về đặc tính “terribilità” của ông. Dĩ nhiên ý nghĩa thì không đến nỗi “khủng khiếp” như người ta e ngại. Chưa từng có họa sĩ nào trong cuộc sống riêng tư như ông lại gây cho người cùng thời phải “đề phòng” cao độ như Michelangelo, họ cảnh giác mỗi khi phải dính dáng đến “trí tưởng tượng ghê gớm” của ông, Phải thận trọng nhận thức ý nghĩa mọi sự việc của ông, nhất là với cái đẹp. Với ông, cái đẹp mang ý nghĩa thiêng liêng, một trong những cách mà Thượng đế thể hiện sự giao tiếp của Ngài với nhân loại. 


Bức “Thánh gia” (Holy Family), Michelangelo vẽ năm 1503


Về sau người ta đồn rằng ông chưa bao giờ học hỏi ai cả. Xét theo nghĩa bóng, đó là một sự khẳng định đầy ý nghĩa. Tuy nhiên bút pháp “họa như điêu khắc”, vẫn thể hiện món nợ ông mang do ảnh hưởng ban đầu của Ghirlandaio, điều này lộ rõ trong các nét phác cắt đứt đoạn trong các tác phẩm của Michelangelo. Kỹ thuật sáng tác này rõ là ông đã hấp thụ từ vị ân sư mở nghiệp cho ông. Các đường nét hoàn thiện, lịch lãm trong tác phẩm như bức “Thánh John ra đời” không hề có nét nào giống nhau, dù rất nhỏ. Trí tuệ vĩ đại của ông được thể hiện trong các tác phẩm đầu tay khác như bức “Thánh gia” (còn có tên gọi khác là Doni Tondo). Đây không phải là một bức hấp dẫn với vẻ đẹp nồng nàn, xa xăm, nhưng cái đẹp lan rộng của nó, vẫn tồn tại trong tâm trí người xem, trong khi nhiều bức dễ tiếp cận hơn lại nhanh chóng đi vào lãng quên.


NHÀ NGUYỆN SISTINE


Trong con mắt người đời ai cũng cho rằng chính bức bích họa trên trần nhà nguyện Sistine đã trưng ra một Michelangelo vĩ đại, ở tài năng đã lên tột đỉnh. Việc chùi rửa và phục chế gần đây đã làm cho kiệt tác này biểu lộ hết vẻ huy hoàng nguyên thủy, với bao màu sắc tuyệt mỹ. Tác phẩm siêu phàm như bật lên tiếng chào một ngày mới, vang vọng với sức sống bền bỉ, mãi mãi được nhìn nhận ở mức độc tôn. Nó đã gây sửng sốt cho vô số người yêu chuộng nghệ thuật.


Bức “Siêu nhân lgnudo”, trích từ bích hoa trên trần đền thánh Sistine, Michelangelo vẽ năm 1508-1512.


Câu chuyện về “Sáng Thế” được thể hiện trên trần nhà nguyện không hề đơn giản chút nào. Một phần do chính 

Michelangelo đã là một người phức tạp đến mức gần như lập dị, một phần nữa do ông vẽ bức tranh này với niềm tin tưởng tuyệt đối, rằng mọi người ai cũng cần biểu lộ chính mình, phần nữa, do ông đã cố cân bằng chủ đề thành các sự kiện cho đạt mức độ vĩ đại của siêu nhân Ignudi, rất gần gũi với người trần tục. “Nó” thể hiện một sức mạnh vượt trội, tuy nhiên ta vẫn không thể nắm bắt nó một cách chính xác, xem chân lý này thực ra là gì? Ý nghĩa của cân đối trong tranh là một ý nghĩa riêng tư, siêu nhân khó mà diễn đạt bằng lời hay “lý thuyết hóa” mà người ta phải thực nghiệm và sống với nó bằng nội lực vô song.



NHÀ TIÊN TRI VÀ THÁNH THỬ DO THÁI

Với một nguồn nội lực, dù được thể hiện dưới nhiều dạng thức dễ hiểu, trong các nhà tiên tri và tướng số vĩ đại đang ngồi trong cốc thật trang nghiệm, trong số các nữ tiên trị của Hy Lạp và La Mã cổ đại nổi tiếng nhất là nữ tiên tri xứ Cumae, theo tác phẩm “Aeneid”, đã chỉ dẫn cho Aeneas trong chuyến hành trình xuống lòng địa cầu. Michelangelo là một nhà thơ và học giả “hạng nặng”, một con người học thức sâu sắc và cũng là người cực kỳ thành khẩn. Cái nhìn của ông đối với Thượng đế là cái nhìn cực đoan như “nước với lửa”, nó khủng khiếp dữ dội mà thuần khiết. Các thầy số và nhà tiên tri, được mời đến để giải mã những lời phán truyền bí ẩn của Thượng đế, họ có trí tuệ và sự hiểu biết vô hạn. Họ đều là những người nói năng chuẩn mực, vô cùng thận trọng.



Bức “Nữ tiên tri xứ Erythracn. Michelangelo vẽ trên trần đền Sisa, từ năm 1508-1512.

Ở đây, “Nữ tiên tri xứ Erythraean” ngả người tới trước, hoàn toàn bị thu hút vào cuốn sách. Họa sĩ không cố vẽ cho ta thấy bất kỳ nữ tiên tri nào vận trang phục theo đúng mốc lịch sử, hoặc gợi lại các truyền thuyết được kể lại bởi các tác giả xa xưa. Sự hấp dẫn trong tranh ông, nằm ở hình tượng mang đầy tính nhân bản, bằng chứng cho ta thấy rằng các giá trị tinh thần luôn được đề cao, tách biệt mọi cảm giác mơ hồ từ thời u mê. Vài nữ tiên tri được thể hiện bằng những người tuổi tác, lưng còng như để thông báo khả năng tiên tri tiềm ẩn của họ.


Bức “Ngày phán xét cuối cùng” (The Last Judgment), Michelangelo vē trên bức tường phía đông nhà nguyện Sistine năm 1536-1541, khổ 13,43m x 14,61m.


Sự cảm nhận mơ hồ về quyền năng của Chúa Trời (không phải quyền làm cha của Người) đã được làm rõ trong tác phẩm mang tính cách tuyên cáo Một ngày phán xét cuối cùng mà chúng ta đã từng biết đến. Đó là lời kết án cuối cùng của Michelangelo về một thế giới mà ông coi là đã mục rửa thối nát, một lời tuyên án đậm màu chính thống giáo sâu sắc, phù hợp với quan điểm thời đó. Ông tự vẽ mình ở vào địa vị phán quan, nhưng chỉ mang bộ da hay như chiếc phong bì, bao ngoài. Cái chết, vắt kiệt con người ông bằng phương tiện nghệ thuật. Sự an ủi duy nhất có lẽ ngay cả Thánh nữ Đồng Trinh cũng phải run lên khi xem khung cảnh như bão tố. Về việc bộ da này là của Thánh Bartholomen tử đạo qua lời hứa giải thoát của Ngài, ta có thể hiểu rằng dù mang bộ da đọa đày, họa sĩ vẫn được giải thoát một cách thần kỳ.



Bức “Truyền sức sống” (The Creation of Man), Michelangelo vẽ trên trần thánh đường Sistine năm 1511-1512.

Gây ấn tượng lớn không kém nữ tiên tri Erythraean là thần tượng Adam trong bức “Truyền sức sống (Sáng tạo loài người)”, nâng bàn tay của ông lên Đấng tạo hoá (Đức Chúa Cha), thờ ơ với những đớn đau sắp tới trong cuộc sống đọa đày.


•••


Nói đến Vatican người ta nghĩ ngay đến một vương quốc nhỏ bé nằm trong lòng thành Rome, nổi tiếng về những kiến trúc độc đáo, thu hút hàng triệu du khách mỗi năm và các nhà nghiên cứu nghệ thuật, lịch sử tôn giáo bởi những công trình nghệ thuật trác tuyệt. Một trong số đó là bức tranh trên vòm nhà nguyện Sistine.


Những ai đã từng may mắn được một lần ngửa cổ ngắm nhìn mái vòm của nhà thờ Sistine, chắc chắn sẽ không khỏi kinh ngạc trước sự kỳ vĩ của bức họa khổng lổ trên vòm mái. Và chắc chắn cũng không ít người lầm tưởng rằng, phải cần đến một tập thể những họa sĩ tài ba mới có thể làm nên kiệt tác này. Song trên thực tế, bức họa khổng lồ đó là của một mình Michenlangelo - nhà điêu khắc, họa sĩ, nhà thơ, gương mặt sáng giá nhất của Italia thời Phục hưng.


Michelangelo “Người siêu phàm” của thời đại Phục hưng


Giáo hội Thiên Chúa giáo từng có ảnh hưởng lớn trong đời sống tinh thần của toàn châu Âu. Thiên Chúa giáo cũng là một chủ đề lớn được các nghệ sĩ thời văn hóa Phục hưng khám phá và sáng tạo. Đã có rất nhiều kiệt tác thi ca, âm nhạc, điêu khắc, hội họa... về chủ đề này. Leonardo Da Vinci có "Đức mẹ trong hang đá" và "Bữa tiệc cuối cùng"; Raphaello có "Đức mẹ Sistine"; Pontormo có bức họa "Đem Chúa từ thánh giá xuống"...


Nhưng có lẽ Michenlangelo là người có nhiều tác phẩm sáng giá về đề tài này hơn cả, bởi sự nghiệp sáng tác của ông vì rất nhiều lý do đã gắn chặt với Thiên Chúa giáo. Trong suốt cuộc đời, Michenlangelo chỉ nhận mình là một nhà điêu khắc, dẫu rằng ông cũng rất tài tình trong hội họa và thi ca.


Hai trong số các tác phẩm nổi tiếng của ông là "Đức Mẹ Sầu Bi" và "Vua David", được thực hiện trước khi ông bước sang tuổi 30.


Tuyệt tác trên vòm nhà nguyện Sistine


Được biết, ban đầu, Michenlangelo chỉ định vẽ bức họa trên vòm mái nhà thờ một cách qua loa cho xong việc. Nhưng khi biết những kẻ đố kị loan tin rằng ông không thể nào hoàn thành bức họa đó thì ông quyết sẽ vẽ nên một bức họa để đời, cả về quy mô, cả về trình độ mỹ thuật, cốt để cho những kẻ ganh ghét chưng hửng...


Nhà thờ Sistine được xây dựng cuối thế kỷ XV. Trước đó, các danh họa thời văn hóa Phục hưng như Botticelli, Perugino đã từng vẽ một số bích họa lên tường của nhà thờ. Còn vị trí khó nhất là khu vực trên trần của mái vòm, các vị tiền bối đành phải "để lại" cho hậu thế. Michenglangelo là hậu thế đó.


Việc đầu tiên là Michenlangelo cho dỡ bỏ giàn giáo của người tổng kiến trúc sư đã dựng sẵn, tự tay dựng nên một giàn giáo mới. Ông cũng đuổi hết những người trợ thủ được cử đến, vì cho rằng họ không đáp ứng được tiêu chuẩn ông nêu ra. Là người chưa bao giờ sử dụng các loại bột màu, chưa bao giờ vẽ một bức họa, Michenlangelo bằng lòng nhốt mình trong không gian của nhà thờ Sistine, vừa nghiên cứu vừa làm việc.


Ông phải trèo lên một giàn giáo rất cao, ngửa cổ, cong lưng vẽ lên trần trong một tư thế rất khó khăn, liên tục trong 4 năm 3 tháng trời ròng rã... Ngày 1 tháng 11 năm 1512, bức tranh trên vòm nhà nguyện Sistine đã được khánh thành.


Vòm mái của nhà thờ Sistine có diện tích 540 mét vuông. Chủ đề của bức họa là câu chuyện "Sáng thế " trong Kinh Cựu Ước, được tạo thành từ 9 bức tranh liên kết lại. Bố cục có hơn 300 nhân vật và 9 tình tiết trung tâm từ Sách Khải huyền, được chia thành ba nhóm: nhóm thứ nhất là Sự sáng tạo Thế giới Thiên đàng và Trái đất của Chúa; nhóm thứ hai là Chúa tạo ra người đàn ông và đàn bà đầu tiên Adam và Eve và sự mất ân huệ của Chúa do bất tuân lệnh nên bị đuổi ra khỏi vườn Eden; và cuối cùng, nhóm thứ ba là sự cầu khẩn của Loài người và đặc biệt là của gia đình Noah.


Mỗi nét vẽ của ông không chỉ mang theo sự tôn kính và trông ngóng đối với Thiên Đường mà còn làm nổi bật một tâm hồn thần thánh thuần khiết, một sự đoạn tuyệt với những ưu phiền nơi trần gian. Những nhân vật trong bức họa gần như khỏa thân nhưng những hình ảnh này không gây ra bất cứ ý nghĩ bất thuần nào. 


Michelangelo đã vẽ họ như những người nam và người nữ rất mạnh mẽ, ngồi đắm mình trong suy tư, đọc, viết, tranh luận, hay như đang lắng nghe một tiếng nói từ nội tâm.


Bích họa “Sự phán xét cuối cùng” và chi tiết kinh điển "Chúa truyền sự sống cho Adam" được coi là trung tâm và điểm hội tụ của bức tranh. Michenlangelo đã vẽ Adam nằm trên mặt đất với tất cả sức mạnh và vẻ đẹp xứng đáng với con người đầu tiên; Chúa Cha đang tiến lại từ một phía khác, được đỡ nâng bởi các Thiên Thần của Người, quấn một tấm áo choàng rộng và oai nghi bung ra như một cánh buồm vì gió thổi, gợi lên sự thoải mái và tốc độ khi Người lướt đi trong khoảng không. Lúc Người đưa bàn tay ra, dù không chạm vào ngón tay của Adam, ta như thấy con người đầu tiên trỗi dậy, như từ trong một giấc ngủ miệt mài, và nhìn vào khuôn mặt chan chứa tình phụ tử của Đấng Tạo Dựng mình.


Trải qua hơn 500 năm, mỗi năm nhà nguyện Sistien đón hàng triệu lượt du khách từ khắp nơi trên thế giới tìm đến, để tận mắt chiêm ngưỡng những tuyệt tác của nghệ thuật đương đại; cũng như lắng mình trong không gian đầy tôn kính pha chút huyền bí của đạo Công giáo.


Nhà nguyện Sistine Chapel là một trong những điểm tham quan ở Ilaly đặc biệt hút khách du lịch. Hình ảnh và tên tuổi của nhà nguyện Sistine Chapel được nhắc đến trong hầu hết các website lữ hành như một niềm tự hào của Italy, một yếu tố góp phần giúp đất nước này được mệnh danh là chiếc nôi của nghệ thuật thế giới.


Tình Yêu Thiên Chúa


Ái Dục Vô Thường và Tình Yêu Thiên Chúa là hai con đường hoàn toàn khác biệt, cho tới đích đến cũng là hoàn toàn khác biệt.


Tình Yêu Thiên Chúa (Tình Yêu - Đức Ái Vĩnh Hằng) dẫn đưa người ta đến Chân Lý,  Bất Biến, Sự Thật, Tự Do, Giải Thoát, Bình An, Cực Lạc - Niết Bàn <Nirvana> Tuyệt Đối. Là con đường trở về với nguồn cội, quê hương linh hồn. 


Ái Dục Vô Thường (Dục tình, thân xác, vật chất giới hạn - Bản ngã Vô thường), hiểu chung là luyến ái, dính mắc, ưa thích, hữu sở, say mê đối với tất cả những gì là Vô Thường, Bản chất hư hoại và dễ thay đổi.


Đạo Thiên Chúa sáng danh Tình Yêu Vô Ngã, Tình Yêu Đại Đồng, yêu hết thảy tha nhân như chính mình, quên mình vì tha nhân.


Đi sâu vào hai hệ ý thức tưởng như mâu này để làm rõ ý nghĩa của việc yêu. 


Phật dạy yêu (ái) là “luân hồi” khổ. Chúa nói yêu (ái) là “thiên đàng” vui. Thực ra sự Ái Yêu được nói đến cần được hiểu là hai đối tượng hoàn toàn khác nhau.


Trong Kinh Thánh cũng có yếu tố mâu thuẫn vi tế dễ gây hiểu nhầm này giữa hai khái niệm: Thiên Chúa (Tình Trời) và Thế Gian (Tình Đời - Trần Tình).


“Tình Đời lên xuống xuống lên

Tình Trời cũng xuống cũng lên với Đời”



1 Giăng (Gioan;John) 2:15

Chớ yêu thế gian


15Chớ yêu thế gian cùng những gì trong thế gian. Nếu ai yêu thế gian thì tình yêu của Đức Chúa Cha không ở trong người ấy. 16Vì mọi sự trong thế gian như dục vọng của xác thịt, ham muốn của mắt, và sự kiêu ngạo về cuộc sống, đều không đến từ Đức Chúa Cha mà đến từ thế gian. 17Thế gian với những dục vọng của nó đều qua đi, nhưng ai làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời thì còn lại đời đời.


<Anh em không phải là thế gian mà là linh hồn đang chịu giới hạn thể xác ở thế gian>



1 Giăng 2:7

Điều răn mới


7Thưa anh em yêu dấu, đây không phải là điều răn mới tôi viết cho anh em, nhưng là điều răn cũ mà anh em đã có từ ban đầu. Điều răn cũ nầy là lời anh em đã nghe. 8Tuy nhiên, tôi cũng viết cho anh em một điều răn mới, là điều chân thật trong Ngài và trong anh em, vì bóng tối đã tan rồi và ánh sáng thật đang chiếu sáng. 9Người nào nói mình ở trong ánh sáng mà ghét anh em mình thì còn ở trong bóng tối. 10Ai yêu thương anh em mình thì ở trong ánh sáng, nơi người ấy không có điều gì gây cho vấp phạm. 11Nhưng ai ghét anh em mình thì ở trong bóng tối, bước đi trong bóng tối và không biết mình đi đâu, vì bóng tối đã làm mù mắt người.



<Các anh em hầu hết đều ở trong thế gian, ai cũng tu pháp “xuất thế gian” thì thế gian chẳng còn. Vậy cứ chiểu theo lời răn mà yêu thương các anh em, có nghĩa là phải giúp đỡ, đồng hành cùng anh em trong thế gian.


Anh em còn vương mang vướng mắc vô thường thì mình cũng phải vương mang mắc mớ vô thường chứ bộ?!


Anh em thích, ái, yêu vô thường thì mình cũng ... biết làm thế nào được? Chẳng nhẽ cấm cản, đoạn tuyệt, từ mặt, kệ xác bay, nghỉ chơi với anh em hết ráo cả luôn!?


Nói cho anh em rõ, để anh em hiểu không nên yêu Vô Thường vì nó hư hỗn mất nết, được định từ lúc sinh ra là phải hư mất, chết tiệt, chết tận. Thì anh em lại tức, lại buồn ... tưởng mình chọc gậy bánh xe không cho anh em như nguyện. 


Đang đà phát triển, đang yêu hăng say, đang phấn đấu, hứng khởi tiến lên “Vô Thường”, tiến bước vào “Hoàng Kim” sung sướng, thịnh vượng ... Mà lại bảo anh em cái bánh xe này chỉ đang lăn xuống vực thôi. Khuyên anh em thay đường đổi lối, thì anh em có ghét, có cho là mình khuyên đểu hay không chứ?


Anh em ơi, có ai thấu được Tình Trời? ...


No comments:

Post a Comment