Monday, February 27, 2023

Cơn Sốt Tình Yêu

Ngôn ngữ chỉ là giới hạn ngưỡng thấp nhất của Tâm. Ngôn ngữ thực ra không hề quan trọng.

Ngôn ngữ xưa nay không bao giờ là quan trọng. Lời nói gió bay. Chỉ có tâm ý, hành động, thái độ và mục đích là quan trọng. Viết những điều này ra cũng không hề quan trọng. Thứ tiếng mẹ đẻ cũng không hề quan trọng. Mỗi lần ra đời lại là một thứ tiếng, giọng điệu - âm sắc - hình tướng - danh gọi - giới tính - nơi sinh nào cũng không hề quan trọng. Những gì đã nói ra, ghi lại, nhại lại, cũng không hề là quan trọng.

ĐIỀU QUAN TRỌNG DUY NHẤT LÀ MỤC ĐÍCH TỘT CÙNG CỦA SỰ SỐNG NÀY.

Cái cây không nói một lời, mà không ngừng ra lá, ra hoa, ra quả.
Mặt trời không nói một lời, mà không ngừng chiếu rọi, soi sáng.
Ngài không nói một lời, mà không ngừng truyền ban sự sống.

Tự nhiên không nói một lời, mà không ngừng thay đổi, thường biến. Chân lý bất biến duy nhất là sự thay đổi liên tục, chuyển đổi, chuyển biến không ngừng.

Khí hậu luôn biến đổi kể từ lúc tạo lập. Trái đất luôn nóng lên rồi lại lạnh đi. Trời luôn mưa rồi lại nắng. Biến đổi khí hậu vẫn luôn biến nơi này từ khô cạn thành lênh láng. Biến đổi khí hậu biến sa mạc thành rừng già. Biến đổi khí hậu luôn hằng diễn ra, ngay trong một ngày. Thời tiết biến đổi trong một ngày từ nắng sang mưa, từ gió nhẹ sang cuồng phong bão tố, từ oi bức sang mát mẻ, từ mây mù sang quang đãng, từ bảng lảng đến vời vợi da trời. Chỉ nội trong một ngày thôi mà có thể có tất cả những biến đổi ấy. Thì trong 1 năm hay 1000 năm, mấy nghìn năm, có gì là không biến đổi?

Người ta hù nhau để gây nỗi sợ. Gây vấn đề để rồi đưa ra giải pháp. Tạo chiến tranh để rồi thiết lập hòa bình. Bán mua bằng nỗi sợ, xưa nay vẫn là những cuộc mua bán lãi lời.

NGÀI không cho ta biết về tương lai cũng như quá khứ. Biết về chúng qua sách vở hay bất cứ gì khác thì cũng không là sự thật. Bởi vì ta chưa đủ đức độ và tình thương. Bởi vì ta còn nhiều cố chấp bản ngã nơi mình. Sự thật tuyệt đối là điều chẳng thể ảo tưởng về.

NGÀI không cho ta biết con đường này ta đi là sai hay đúng. Bởi vì với NGÀI mọi con đường đều là Sự Thật Tình Yêu. Ta dùng ngoại ngữ thay vì tiếng quê hương để nói cùng NGÀI. Tiếng quê hương vĩnh viễn là vô âm, vô thinh, vô ngôn, bất thuyết. Ôi lời nói thật chỉ là lớp áo mĩ miều, khi đã hiểu thì đâu cần Áo Nghĩa Thư - Từ.

Khi đã "hợp" thì đâu sợ biến chuyển, đổi thay. Đâu còn cần lời lẽ bất kỳ nào để biểu đạt Tình Yêu Hằng Hiện. Đâu sợ quên tiếng vô thinh muôn thủa không lời. Đâu luyến tiếc những ngữ ngôn tạm bợ. Đâu nhìn nghe chữ nghĩa mà bắt mặt đời.

Mỗi ký tự này là một hơi thở nông sâu, ngắn dài, khắc khoải. Mỗi dấu phẩy, dấu chấm là một Tâm Tình vô tận... Ai có thể đếm hết số ký tự Ẩn Hiện từ thủa chưa hình. Ai đếm hết những nhịp đập tình thương muôn thủa.

Mọt mối nào nhai hết những kỳ thư hằng sống, ngôn tình nào tả hết những sắc thái vô cùng. Danh gọi, ngữ nghĩa, Phật Ma nào trở Đạo hằng biến hiện. Cao siêu nào thấu hiểu mọi bài học Hồng Trần.

THANH ÂM NÀO LÀ LỜI THIÊNG HẰNG SỐNG?

 

...



Mây cùng Mưa đem nước cam lồ trong tịnh bình Quán Thế Âm rải tới những miền đương cơn sốt nặng.


Nhật cùng Nguyệt muôn đời tận hiến trao Tình.



The Imitation of Christ

Gương Chúa Giêsu - Full

https://youtu.be/AHYKVkPqDdI

Sách "The Imitation of Christ" (Gương Đức Christ) nguyên gốc được viết bằng tiếng Latinh vào đầu thế kỷ 15 sau CN. Ngày chính xác và tác giả của nó vẫn còn là vấn đề được bàn luận. Những bản chép của nó bằng tiếng Latinh còn lưu lại khắp nơi ở Tây Âu, và cùng một danh sách dài những bản dịch, ấn bản khác nhau, minh chứng cho tính phổ cập chưa từng thấy của nó. Rất nhiều tái bản rải rác khắp Châu Âu và trong các nhà thờ vào thế kỷ 15. Tác giả được cho là người biên soạn ấn bản này là Thomas Haemmerlein, hay Thomas a Kempis, ông sống ở Kempen, Rhine, sinh năm 1379, dành 70 năm của cuộc đời ở Núi Agnes trong một tu viện. Ông mất ngày 26/07/1471.

Ngoài Kinh Thánh, không một bản viết Thiên Chúa Giáo nào có sự thịnh hành qua thời gian như cuốn sách này. Cấu trúc tác phẩm theo phong cách viết của những nhà thần bí trung cổ, hành ý từ Kinh Thánh và nhà thờ tiên khởi, tất cả những yếu tố đó hòa quyện vào nhau một cách tinh tế và nhuốm cảm tình tôn giáo, vừa mãnh liệt hăng hái nhiệt thành (ardent), vừa hợp lý đầy đủ (sound), khiến nó đã tồn tại qua 500 năm, như ơn gọi thiêng liêng và hướng dẫn cho khát vọng tinh thần con người.

_____________

LỜI DỊCH GIẢ

           Tác giả “GƯƠNG CHÚA GIÊSU” đã không đề một lời tựa cho tác phẩm của mình.

 Đáng lý vì tôn trọng cuốn sách tuyệt tác này, một cuốn sách mà nhiều học giả đã không ngần ngại đặt liền sau Bộ Phúc Âm Thư, tôi cũng không cần và cũng không dám viết gì thêm.

Nhưng với hy vọng phổ cập tới mọi tầng lớp quần chúng, tôi thấy không thể không có mấy lời giới thiệu.  Phải chăng đây chỉ là cố gắng đặt tác phẩm vào địa vị xứng đáng của nó. Trong khắp Giáo hội Âu Châu – nhất là mấy thế kỷ trước – GƯƠNG CHÚA GIÊSU đã là cuốn sách thân yêu của giáo hữu, nhất là của giới tu sĩ.  Nó đã được hân hạnh góp phần vào việc tác tạo nên những vị Thánh thời danh, như Inhaxiô, Phanxicô, Têrêsa… Điều đó không có gì lạ.

 Một đàng vì lúc ấy – cũng là hoàn cảnh hiện tại của giáo hữu Việt Nam – những sách tu đức còn ít phổ thông, những vị linh hướng chưa có đủ để cung cấp cho sở nguyện riêng của mỗi người.  Trong hoàn cảnh đó, GƯƠNG CHÚA GIÊSU đã xuất hiện, để trở nên cuốn Tu đức học phổ thông và là kim chỉ nam cho bất cứ những ai muốn và đang đi tìm đường trọn hảo. Đàng khác – và đây là điểm đặc sắc nhất, vì GƯƠNG CHÚA GIÊSU hàm chứa một giáo lý đầy đủ, minh bạch và những phương pháp thực hành thích dụng cho mọi tầng lớp và mọi thời đại. Điều đó thật dễ hiểu. Vì trong khi các sách tu đức học – với tính cách giáo khoa – chỉ chú trọng nhiều ở nguyên tắc mà ít lưu tâm giữ vững ngọn lửa sùng ái trong tâm hồn: điều mà hết thảy, nhất là những người phôi thai trong đường trọn lành, hằng mong ước.  Còn các sách đạo đức khác, nhất là các sách chuyên cứu về những phong trào sùng mộ riêng trong khi hấp dẫn được linh hồn, thì hầu như lại thiếu hẳn tính cách hướng dẫn: một điều kiện tất yếu của mọi sách tu đức. Vì thế – cũng như loại sách trên – nó chỉ thỏa mãn được từng phương diện và từng lớp người.
 Trái lại, ngoài sức hướng dẫn sẵn có, vì căn cứ trên những lời bất hủ của chính Đấng tự xưng là “Đường và Chân lý,” GƯƠNG CHÚA GIÊSU còn có một sức hấp dẫn dồi dào, mãnh liệt và bền bỉ, một sức hấp dẫn hình như trào ra bởi chính ngọn lửa sốt mến của Tác giả và thấm nhuần vào từng trang từng chữ trong sách.  Nó đã và còn đang có sức thiêu đốt và lôi kéo bất cứ những ai tin tưởng bước theo những lời chỉ dẫn của sách này.

Ngoài ra, nếu xét về phương diện xử thế, GƯƠNG CHÚA GIÊSU còn là tất cả một khoa Triết học thực hành.  Vì, không kể những lời Thánh Kinh – nguồn mạch mọi khôn ngoan thông thái – mà ta có thể gặp thấy trong hầu hết mọi trang sách, chính những kinh nghiệm của những người từng trải mà tác giả đã khéo thu thập, thêm vào những nghiệm xét bản thân của Tác giả, đã làm cho mỗi câu của GƯƠNG CHÚA GIÊSU trở nên một bài học khôn ngoan vĩ đại có thể áp dụng cho bất cứ trường hợp nào của đời sống.  Một cuốn sách như thế mà không được phổ thông nơi quần chúng, nhất là riêng trong giáo hữu Việt nam, quả là một sự thiếu sót và thiệt thòi khó có thể đền bù được.

 Sự thực, trước đây đã có một vài bản dịch ra tiếng Việt Nam. Những bản dịch đó dầu sao cũng có mang lại lợi ích không phải nhỏ. Nhưng tiếc vì sách in có hạn, đàng khác hình như hiện nay các bản dịch ấy đã bị đặt vào một hoàn cảnh quá hẹp hòi, nên không còn đủ điều kiện để thỏa mãn nhu cầu ngày càng thêm khẩn thiết.

 Bản dịch GƯƠNG CHÚA GIÊSU đây hẳn chưa phải là bản dịch lý tưởng, vì nó ra đời trong một hoàn cảnh quá ngẫu nhiên. Thực, bất đắc dĩ nó phải thay thế cho những đàn anh nó đã vắng bóng mà chưa có người thế chân. Mong những bản dịch mới mẻ và đầy đủ hơn, sẽ đến bổ khuyết và thay thế cho nó, nếu cần.

 Tại Hà Nội, ngày 1 tháng XI, năm 1953
 Dịch giả: LM Lê Bá Tư


ĐÔI LỜI TÂM HUYẾT GỬI BẠN ĐỌC

1. Bạn muốn được nên thân tình với Thiên Chúa, mời bạn đọc Quyển I sách GƯƠNG CHÚA GIÊSU. Đó là hành trang cho bạn lên đường.
2. Bạn muốn gặp Thiên Chúa, mời bạn đọc Quyển II sách GƯƠNG CHÚA GIÊSU, để khi được gặp Thiên Chúa bạn biết tâm sự với Ngài.
3. Bạn muốn được Thiên Chúa tiếp thu làm bạn tâm giao, mời bạn đọc Quyển III sách GƯƠNG CHÚA GIÊSU, để biết nên làm gì, phải làm gì để bảo vệ tình bạn với Thiên Chúa.
4. Bạn muốn nhờ Chúa Giêsu Kitô, với Chúa Giêsu, sống đời con thảo của Thiên Chúa, mời bạn đọc GƯƠNG CHÚA GIÊSU Quyển IV.
Nhưng xin lưu ý bạn: Con đường nên thánh không có bước nhảy vọt, mà phải là tiệm tiến.  Phải vững bước thứ nhất, rồi mới tiến bước thứ hai, phải nắm chắc bí quyết rồi mới tiến bước thứ ba. Thuần thục giai đoạn ba, không cần mời, Chúa Giêsu sẽ đến với bạn, không chỉ dắt tay bạn mà còn cho bạn nhờ Ngài, với Ngài tôn vinh Thiên Chúa Cha.

GƯƠNG CHÚA GIÊSU là một tác phẩm đã có gần 500 năm nay mà vẫn hiện đại, vì được xây dựng trên nền tảng Phúc Âm. Sách đã được dịch ra hầu hết các thứ tiếng, và đã trở thành sách gối đầu cho các thánh. Việt Nam cũng đã có ba bản dịch, nhưng vì hoàn cảnh đất nước, sách GƯƠNG CHÚA GIÊSU trở nên hiếm, nếu không nói là gần như bị mai một. May mắn thay, chúng tôi gặp được một tập bản dịch của Linh mục Lê Bá Tư, tái bản từ năm 1965. Nhưng đối chiếu với nguyên bản La-văn thì có rất nhiều sai sót, có thể do kỹ thuật ấn loát, nhiều câu vì mất chữ hoặc dịch sát nghĩa quá nên khó hiểu; nhiều câu lại dài dòng quá nên ý nghĩa mất sắc bén…

Nhờ một Linh mục đọc đối chiếu với bản La-văn và sửa lại tới 5 lần, cốt ý là cho sách quý này không bị mai một, mà còn dễ đọc dễ hiểu hơn. 


Nay tôi xin giới thiệu GƯƠNG CHÚA GIÊSU với bạn đọc.
GIÁM MỤC GIÁO PHẬN ĐÀ NẴNG
Phaolô-Tịnh NGUYỄN BÌNH TĨNH


https://sites.google.com/site/giaolychotoi/guong-duc-suy-niem/guong-chua-giesu

https://www.scribd.com/doc/106728488/G%C6%AF%C6%A0NG-CHUA-GIESU-SACH-G%C6%AF%C6%A0NG-PHUC#

Đường Huyền Trang

Thời mà internet wifi 3G chưa phát triển, Đức Phật hay chúa Jesus không dùng "mạng" để kết nối, truyền đạo, rao giảng. Vậy mà ngẫm thấy, sức ảnh hưởng vào tận cùng tâm linh tinh thần bản thể của những ai được gặp hay nghe biết đến các ngài, và cuộc đời của chính các ngài, là sâu xa rộng lớn đến mức nào.

Còn thời mà CÔNG NGHỆ THÔNG TIN như vũ bão chiếm đoạt hết mọi khả năng TRỰC NHẬN của con người, được tận dụng, lợi dụng tối đa công suất, phục vụ cho những nhu cầu phàm ngã, phàm tình, hay thánh ngã, thánh ái, "thánh ... " của con người thì thôi còn nói chi đến những gì XƯA CỔ, mà người thời trước phải mất bao nhiêu xương máu, cùng cực mới có thể tiếp truyền. Chẳng những không trân trọng mà còn đối xử với chúng như những thứ vô dụng, không đáng để học tập nghiên ngẫm hay sống vì. Giờ là lúc nào rồi, là thời đại nào rồi, HOÀNG KIM đến nơi rồi, TỐI TÂN đến nơi rồi, mà còn CỔ HỦ khư khư những mớ tri kiến "chắt nhặt" được từ xưa xửa. Không tiến bộ, tiến hóa đi để rồi còn thông minh thấu hiểu trực tiếp, KIẾN THỨC TỪ TRỜI, THIÊN Ý từ CAO, ĐIỂN Ý từ TÂM... THẦN KINH ĐIÊN LOẠN. Rồi lại cùng nhau ngợi ca sức mạnh CỦA MÌNH!

Người thời cổ, phải đi ngàn dặm, leo ngàn núi, vượt ngàn sông ... để cầu một lời từ bậc Đạo Sư, tịnh hóa Tâm Thân. Còn giờ thì chẳng phiền não mệt mỏi thế, chỉ cần 0,1 giây thôi là có cả một đống kinh thư đạo pháp đầy đến nỗi bội thực, không tiêu hóa hết nổi. Công nghệ cấp tiến, đến nỗi đâu đâu cũng phụ thuộc vào nó, từ miền xuôi đến miền ngược, không ai là không "bắt kịp" thời đại thông tin "đường" truyền đa phương tiện.

- Hượm đã nào, đừng ăn vội, để chụp kiểu ảnh cái up lên "chia sẻ"!

- Nào nào, làm kiểu ảnh, để lưu lại kỷ niệm "hiếm có khó gặp"!

- Ấy ấy, để kiểm tra tin báo, xem có gì mới lạ hay ho, ai khoe ai, ai chửi ai, ai yêu ai!

- Organic, Tự Nhiên, Homeschool, Tự do "Osho" à? Hay! Like! Theo!

Thế rồi, vô số nhóm bạn, nhóm đạo, nhóm người nổi lên, được biết tới, tìm đến để chia sẻ với nhau cùng: cái sự TƯƠNG TÁC - DUYÊN - HỢP nhờ do phương tiện truyền thông "tâm linh" như thế. Nào đâu còn có ai "thui thủi" không biết đường làm đi đôi với nói, thực đi đôi với ảo, không "marketing" quảng bá giới thiệu chính mình, để được "biết đến", "hỗ trợ", "đồng hành" ...

Khó cho cái người mà cứ lui thủi một mình, một đường, một nẻo riêng, không hòa cùng nhân thế!

Nhưng mà, hòa rồi thì, rất có nguy cơ hay chiều hướng BÃO HÒA.

------------

- Bản Thể Vũ Trụ là gì? Tâm Thể Vũ Trụ là gì? Ở đâu? Chân Tướng của tất thảy mọi sự xảy ra trong Trời Đất là gì?

- Ai có thể trả lời cho tất cả? Ai có quyền trả lời cho tất cả? Ai sẽ là trọng tài phân định cho tất cả giả chơn?

- Thế nào là tiến hóa? Tăng trưởng có phải là tiến hóa không? Nếu tăng trưởng là tiến hóa, vậy thì tăng trưởng thiện lành hay tăng trưởng tà vạy cũng đều là tăng trưởng và đều là tiến hóa cả mà? Chân Tướng của "bức tranh" Tiến Hóa Toàn Cảnh là gì? Có phải là Vũ Trụ Vô Biên hay không?

- Vũ Trụ Vô Biên thì có giới hạn nào cho cùng tận hay không? Không có giới hạn nào cho cùng tận thì ai có khả năng xác định tận cùng, xác định mức độ tiến hóa, phân cấp cho các giai vị, giới tầng như là các nấc thang bất tận cho tiến hóa vô cùng?

- Chân Lý là bất biến tuyệt đối, vậy thì làm sao có tiến hóa nếu như Chân Lý Tuyệt Đối là tuyệt đối không thể có biến chuyển đổi thay, không thêm không bớt, không vơi không đầy, không trên không dưới, không cao không thấp, không trong không ngoài, không trái không phải, không trước không sau, không khởi đầu không kết thúc?

-----------

ĐƯỜNG HUYỀN TRANG


Ngài Huyền Trang theo truyện Tây Du không gọi là Huyền Trang mà kêu là Tam tạng thỉnh kinh hay Đường Tăng. Trong sách nói đủ là Tam tạng Pháp sư Huyền Trang.
 
Đạo Phật bắt đầu vào Trung Quốc có lẽ từ đời Tần, đến đời Hán ảnh hưởng còn ít; qua đời Đông Tấn và Nam Bắc Triều, nhân xã hội Trung Hoa hủ bại, loạn lạc liên miên, dân chúng khổ sở, không tìm được nỗi an ủi ở đạo Phật mới có ở đạo Nho, nên quay về đạo Lão, nhất là đạo Phật, mà đạo Phật mới có cơ sở phát triển mạnh mẽ. Sử chép đời Bắc Triều đã có non 900 chùa Phật và tại Lạc Dương, Tăng Ni ở các nước họp nhau lại có trên 3.000 người. Từ vua quan đến dân chúng, ai cũng sùng bái đạo Phật. Tăng Ni được hưởng nhiều quyền lợi: khỏi phải đi lính, được miễn thuế, sưu dịch; cho nên càng loạn lạc, càng nghèo khổ, dân chúng lại càng chạy vào ẩn náu dưới cửa Phật. Người có của cũng xin đầu Phật, để đất đai khỏi phải đóng thuế, thành thử đạo Phật bành trướng rất mau; đến đời Bắc Ngụy, nhà chùa chiếm được một phần ba tổng số diện tích đất đai trong nước.
 
Cuối đời Nam Bắc Triều, nhà Châu thấy nguy cơ cho triều đình, chủ trương diệt đạo Phật, bắt 3 triệu Tăng Ni hồi tục và ra lệnh phá rất nhiều chùa chiền. Nhưng đến cuối thế kỷ thứ VI, đạo Phật lại phục hưng, rồi nhân chính sách bạo tàn của Tùy Dạng Đế làm cho dân chúng lầm than, điêu đứng (ba lần chiến tranh với Cao Ly, động viên đến hơn một triệu tráng đinh nhưng thua; một lần xuống Giang Nam ngắm quỳnh hoa nở, mà bắt hơn một triệu dân để đào kinh từ Lạc Dương đến Giang Đô), chùa chiền lại mọc lên rất nhiều, mở rộng cửa đón những kẻ chán ngán thời cuộc hoặc trốn sâu lậu thuế.
 
Thân phụ Huyền Trang là một trong nhưng người chán ngán đó. Ông không quy y, vẫn giữ đạo Nho, nhưng ham đọc kinh của đạo Lão và đạo Phật".]
 
Lúc 8 tuổi ngài thích nghi lễ, rất nghiêm cẩn, có lễ độ, tính tình ngay thẳng, không thích nhảy nhót, không ngơ ngác y như các em bé khác. Lúc cha ngài đem Hiếu kinh giảng cho ngài nghe, đến đoạn ông Tăng Tử khi nghe giảng bèn đứng dậy nghe thầy giảng kinh. Thấy ông Tăng Tử như vậy, khi ngài đang ngồi nghe cha giảng kinh, ngài cũng đứng dậy sửa áo. Cha ngài ngạc nhiên hỏi tại sao đang ngồi nghe như vậy mà đứng dậy là nghĩa làm sao ? Ngài thưa: Tăng Tử nghe thầy giảng mà còn đứng nghiêm trang thay huống chi con nghe cha dạy mà con không đứng dậy là vô lễ. Thế cho biết lúc 8 tuổi ngài đã như vậy rồi. Từ đó chúng ta biết tinh thần của ngài ra sao rồi.
 
["Huyền Trang, hồi tám tuổi đã thích lễ nghi, tính tình nghiêm cẩn. Ít năm sau, một người anh là Tố quy y, Huyền Trang được nghe anh thỉnh thoảng giảng đạo Phật cho nghe, ham mê cũng muốn theo anh. Năm 13 tuổi, ông lại chùa Tịnh Độ ở Lạc Dương xin quy y. Mới đầu, nhà chùa còn do dự, chê ông nhỏ tuổi quá, sau thấy ông thành tâm và thông minh lạ thường, nên chấp thuận .([2])]

Lúc bấy giờ ở ngôi chùa Tịnh Độ được phép của nhà vua tuyển chọn thêm 27 vị tăng. Trong khi đó người xin vô làm Tăng có cả 100. Người đại diện Triều đình đến tuyển chọn tên là Trịnh Thiện Quả. Ngài Huyền Trang tuổi nhỏ nên không được đưa vào danh sách tuyển chọn. Nhưng Ngài cứ đứng lấp ló ngoài cửa lắng nghe. Trịnh Thiện Quả thấy vậy liền hỏi về tuổi tác, quê quán, sở thích ... Đặc biệt khi khỏi vì sao ngài muốn đi xuất gia ? Ngài trả lời: Tôi xin xuất gia là xa thì nối Phật, Như Lai, gần thì làm sáng như Pháp (Viên thiệu Như Lai, cận quan như pháp). Câu này có ý nói: Tôi xuất gia ý nhìn về xa, về trước, về đức Phật, tôi muốn nối dõi giòng giống của Phật. Nhìn về gần trong hiện tại tôi muốn là sáng giáo pháp đang di truyền của ngài vậy. Xuất gia là vì mục đích đó. Trong khi tuổi đang còn nhỏ, chỗ Triều đình tuyển Tăng, vì tuổi nhỏ không được tuyển, cũng không chịu về nhà cứ đứng thơ thẩn lấp ló để mà nghe ngóng, ham thích cái chuyện xuất gia đó, cho nên khi trả lời câu nói đó thì ông Trịnh Thiện Quả đặc cách cho ngài được vào làm Tăng".
 
["Ông học hết các kinh của Tiểu thừa, Đại thừa rồi đến kinh Niết-bàn, giáo lý rất cao siêu; học đến quên ăn quên ngủ".]
Kinh Niết-bàn là kinh cao nhất: Phật nói lên câu: Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Các Kinh khác có Kinh nói có Kinh không. Tất cả chúng sanh đều có Phật tính, trong Kinh Niết-bàn chú trọng đưa lên cái đạo lý ai cũng có Phật tính. Đó là một đạo lý cao siêu nhất. Bây giờ chúng ta nghe lâu ngày quá quen rồi nên coi thường, chứ người mới nghe, nghe nó lạ tai lắm, lạ vô cùng, vì họ lý luận: Phật là Phật, chúng sanh là chúng sanh. Phật là cao thượng, là siêu việt, còn chúng sanh là thấp hèn, là ô uế, là mê muội, chớ sao chúng sanh lại có Phật tính. Câu đó chỉ trong đạo Phật mới có chứ các đạo giáo khác không làm sao mà có. Câu đó được nói ra, được nhấn mạnh ở trong Kinh Đại bát Niết-bàn. Cho nên Kinh Đại bát Niết-bàn có ý nghĩa cao sâu là vậy. Trước khi đi Tây vức, chính ngài đã học nhiều kinh sách rồi, bởi trước ngài, ngài sinh năm 1602, trước ngài ở Trung quốc năm 1607 đã có ngài Ma-đằng đến Trung Quốc dịch kinh Tứ thập nhị chương. Từ đó trở về sau trải qua 4, 5 thế kỷ có nhiều vị Tăng ở Ấn Độ và các nước khác đến dịch kinh cũng nhiều rồi nên ngài cũng đã học các kinh dịch đó, cả Tiểu thừa, Đại thừa ở Trung Quốc.
 
["Hồi đó là cuối đời Tùy, đầu đời Đường, trong nước loạn lạc. Khi đô thành một ổ đạo tặc, mà miền Hồ Nam thành cái hang mãnh thú, đường phố Lạc Dương đầy thây người.
 
Phải lánh đi nơi khác, Huyền Trang bàn với anh qua Thành Đô (Tứ Xuyên), ngụ chùa Không Túc trong 2, 3 năm, tiếp tục học hết kinh của các giáo phái.
 
Năm 20 tuổi, nội loạn đã chấm dứt, ông về Trường An, kinh đô nhà Đường. Trường An là đất Phật đầu tiên ở Trung Hoa. Từ 5 thế kỷ trước, những vị tu hành ở Ấn Độ qua cất chùa tại đó và dịch những kinh tiểu thừa, Đại thừa từ Phạn ngữ qua Hoa ngữ. Công việc dịch thuật đó có thể chia làm hai thời kỳ:
 
- Từ Đông Hán đến Tây Tấn (khoảng 230 năm) dịch chưa có hệ thống gì cả.
 
- Từ Đông Tấn đến đầu đời Đường (khoảng 270 năm) đã thấy những dịch phẩm có giá trị như bộ Pháp Hoa, bộ Đại phẩm ..., tuy có thú vị về văn chương, nhưng chưa thật sát nghĩa. Dịch giả đại biểu cho thời ấy là một người Tây Vức tên là Cưu-ma-la-thập.
Ở Trường An, Huyền Trang ráng đọc hết những kinh đã dịch, tìm những Hòa thượng có danh tiếng để học đạo, nhưng ông nhận thấy rằng họ cũng thờ đức Thích Ca Mâu Ni mà giáo thuyết của họ khác nhau xa quá, có khi phản nhau nữa. Có bao nhiêu tôn phái là có bấy nhiêu chủ trương, làm cho ông hoang mang, không nhận được đâu là đạo chính truyền".]
Bởi vì khi đạo Phật truyền qua Trung Hoa rồi thì có ngài cũng nghiên cứu và trong quá trình nghiên cứu cũng có sự hiểu biết riêng của mình. Chính vì thế nên nhận định cũng khác nhau, nên mới lập ra các tông phái, hệ phái như Tịnh Độ tông, Luật tông, Pháp tướng tông, Chân ngôn tông, Cu xá, Duy thức ... mỗi tông phái đều có kiến giải riêng. Vị này hiểu câu Kinh Phật như thế này nên chủ xướng ra như thế này, vị khác hiểu như thế kia nên xướng ra như thế kia, cho nên khi đọc, ngài thấy như vị này nói vầy, vị khác nói khác, có vẻ hoang mang không biết đâu là chánh đạo.
 
["Bất mãn, ông xin phép anh đi học đạo ở khắp miền Bắc tại các vùng Xuyên Đông (đông đô tỉnh Tứ Xuyên), qua Hồ Bắc, Hà Nam, Sơn Đông, Hà Bắc. Càng tìm hiểu, ông càng nảy ra nhiều nghi vấn, đã không tin được các vị Hòa thượng mà ngay trong những bản dịch kinh Phật ông cũng thấy nhiều chỗ lờ mờ mâu thuẫn, hoặc dịch sai. Vậy muốn hiểu rõ đạo thì chỉ còn một cách là đến nơi phát tích của đạo Phật, tức Ấn Độ, để học tiếng Phạn rồi nghiên cứu tại chỗ những kinh điển cổ nhất. Ý "Tây du" của ông phát sinh từ đó."]
 
Từ đó chúng ta biết rằng, ngài cố tìm cách đi tìm học đạo ở Ấn Độ. Trước khi qua Ấn Độ, ngài đã cố công đi tìm các vị Hòa thượng, trưởng lão về các bộ kinh còn lại. Nhưng các Hòa thượng đôi khi trả lời không đồng nhất, thậm chí có khi mâu thuẫn nhau. Trong các kinh được dịch có nhiều chỗ tối nghĩa, có đoạn dịch sai nên Ngài quyết chí phải tìm đến tận gốc - nơi sản sinh phật giáo để tìm hiểu cho tận ngọn ngành. Ngài tin rằng đó là sự cầu học một cách chắc chắn từ nơi gốc thì mới bảo đảm hơn. Từ tấm gương cầu học tận gốc của Ngài, thiết nghĩ chúng ta cũng nên học tập như Ngài vậy.
 
Ngày nay, các Phật tử khi đọc các kinh sách của các Thiền sư, thức giả trước tác dịch thuật bằng tiếng Việt, đó là điều quí. Nhưng quí hơn là phải đi vào các văn bản gốc của các kinh đã được in ấn, để từ đó chúng ta đối chiếu các bản dịch hay trước tác ấy đúng tới mức nào. Khi đọc kinh sách Phật giáo, các Phật tử cũng phải có nhận thức vững vàng về giáo lý, điều nào sai chưa đúng lắm thì có thể tìm hiểu nơi các vị đã hiểu biết để tránh sự thắc mắc, hoặc giả là nên cầu học nơi các vị đã có trình độ Phật học vững vàng thì chắc chắn các Phật tử sẽ nhận ra được chỗ đúng sai trong các kinh sách Phật học đã được trước tác in ấn trước đó. Các Phật tử nên trầm tỉnh suy tư về giáo lý của đức Phật, đừng vội phê phán. Dĩ nhiên, phải thận trọng trong khi đọc là tốt nhất, đừng tưởng rằng sách nào viết về Phật cũng đúng và tin theo hết.
 
Đó là thái độ cẩn trọng, trọng Pháp, nên ngài Huyền Trang mới có tinh thần đi tìm học từ bản gốc ở Ấn Độ là vậy. Đó cũng là cách giải đáp những nghi vấn, thắc mắc mà bấy lâu này ngài đang phân vân không biết đâu là đúng đâu là sai, và nếu đúng thì đúng tới mức nào, nên Ngài quyết chí đi cầu pháp ở Tây phương là vậy.
 
["Năm Trinh Quán nguyên niên, năm đầu triều vua Đường Thái Tôn (62 sau Công nguyên)."]
Có nhiều thuyết nói năm Trinh Quán nguyên niên, có năm Trinh Quán nhị niên, có năm Trinh Quán tam niên, xê xích trong một hai năm.
 
["Huyền Trang cùng với vài vị Hòa thượng nữa dâng biểu lên nhà vua xin phép qua Ấn du học. Truyện Tây Du Ký chép rằng Đường Thái Tôn sai Tam Tạng ([3]) đi thỉnh kinh, lại cho làm ngự đệ, cho lấy họ nhà Đường, có lẽ để nịnh triều đình mà quy công cho nhà vua, chứ sự thật thì khác hẳn; vua Thái Tôn không cho phép, vì nước mới được bình trị, vương quyền chưa được vững, mà sự ngoại giao với các dân tộc ở phía Tây, tại Trung bộ Á Châu lại chưa được tốt đẹp".]
Theo truyền thuyết, có nhiều người nói như trong truyện Tây Du, Ngài Huyền Trang đi thỉnh kinh là do lịnh của vua Đường Thái Tông. Nếu nói như vậy thì sai lầm, không những không sai đi mà cấm không cho đi nữa là khác. Bởi vì lúc đó vua Đường mới dành được ngôi nơi triều nhà Tùy, cho nên việc bình định trong nước chưa yên. Sự giao dịch với bên ngoài vua đều cấm hết. Nội bất xuất ngoại bất nhập. Ngài Huyền Trang tự tìm trốn đi chứ không phải vua sai đi.
 
["Đợi mãi không được phép, các vị Hòa thượng cùng dâng biểu với ông ngã lòng bỏ đi. Ông kiên nhẫn ở lại Trường An, học hết tiếng Ấn Độ. Đêm ngày ông cầu nguyện các vị Bồ-tát cho ông đủ sáng suốt và nghị lực thực hành nổi chương trình tây du của ông, mà ông biết là rất khó khăn, phải qua nhiều nơi hiểm trở, hoang vu, trộm cướp."]
 
Đơn phát 627 mà đến 629 cũng chưa có.
 
["Một đêm năm 629, ông nằm mộng thấy một ngọn linh sơn ở giữa biển, bèn nhảy xuống nước để lội qua thì vừa lúc đó, một bông sen xuất hiện, đỡ ông, đưa ông tới chân núi. Núi dựng đứng, leo không được, ông chưa biết tính sao thì một ngọn cuồng phong bí mật nâng bổng ông lên tới ngọn núi. Đứng trên núi nhìn chung quanh thây cảnh bao la, rực rõ. Ông thích quá, tỉnh dậy."]

Vì sự thành tâm cầu nguyện rất chí thành cao độ và rất chính đáng, cho nên có sự cảm ứng là ngài nằm mộng thấy một ngọn linh sơn ở giữa biển. Sướng quá ngài nhảy ào xuống chứ không biết có lội được hay không ! Trong khi nhảy như vậy có một bông sen đỡ lên đưa đến chân núi thì núi quá cao không biết làm sao mà leo. Khi ấy có một ngọn gió cuồng phong nâng lên chóp núi. Khi đứng trên chóp núi nhìn tứ bề chung quanh mênh mông bát ngát không có gì. Ngài rất sung sướng và tưởng tượng rằng việc đi thỉnh Kinh của mình đã có cảm ứng.
 
["Từ đó ông càng quyết tin rằng thế nào cũng thành công và chính lòng quyết tín, mộ đạo đó đã giúp ông thắng mọi gian nan sau này. Ít bữa sau, nhân miền chung quanh Trường An bị nạn mưa đá mất mùa, triều đình xuống chiếu cho phép dân ở kinh đô được đi nơi khác làm ăn, ông theo nhóm người di cư, tiến về phương Tây, mở đầu cuộc du hành vạn lý.
 
Năm đó (629), ông 28 tuổi (tính theo lịch phương đông), đến năm 44 tuổi mới trở về, tính ra xa quê luôn trong 16 năm.
Tuổi đó là tuổi hăng hái, tin tưởng, mà bẩm tính ông lại nghiêm cẩn, ôn hòa, nên ông rất được nhiều người mến trọng. "Nước da hơi sạm, mắt sáng. Vẻ mặt uy nghiêm, nét mặt tươi sáng rực rỡ. Giọng nói trong trẻo, rõ ràng, ngôn ngữ cao nhã, hoa mỹ, du dương, ai nghe cũng mê..." Nhìn ông, người ta nhận ngay thấy sự dung hòa của đạo Phật và đạo Khổng - lòng từ bi, đại độ của đạo Phật, đức lễ độ, sáng suốt của đạo Khổng. Ông vừa thương người, vừa cương quyết, trang nghiêm như đại giang, mà lại bình tĩnh, rực rỡ như bông sen nổi trên mặt nước".]
 
Ngài không những thông minh mà rất đẹp. Tánh tình rất nghiêm cẩn mà lại hòa nhã, khiêm tốn. Đó là điều rất hiếm. Thường thường người thông minh thì hay kiêu ngạo, kiêu căng khó khiêm tốn, nhu hòa. Người thông minh thì hay cãi. Nhưng ở ngài không có chuyện đó, đó là đức tính của một con người toàn diện, đạo đức, thông minh, cần cù, nghiêm cẩn, nhu hòa, nhẫn nhục ... đều có nơi Ngài.

http://www.phatgiaohue.vn/Print.aspx?TinTucID=186

wikipedia
Nguyên nhân đi Ấn Độ

Khoảng đầu thế kỉ 7, kinh sách Phật giáo của Trung Quốc gồm có vô số những bản dịch, văn bản chữ Hán; đại diện và làm nền tảng cho nhiều quan điểm đối chọi nhau. Tất cả đều tự nhận mình là "Phật giáo". Trên một chừng mức nhất định, Phật giáo Trung Quốc của thế kỉ thứ sáu có thể được xem là một trường tranh cãi giữa các trường phái của Duy thức tông, tức là giáo phái được ghi lại trong các tác phẩm của Vô Trước và Thế Thân. Thế nhưng, các điểm chi tiết của hệ thống này, cả về mặt cơ bản lẫn luận giải, là đối tượng của những cuộc tranh cãi triền miên.

Trong không khí đó thì cậu tiểu tăng Trần Huy học tập và trưởng thành với kinh sách Phật giáo nói trên. Sư được tham cứu kinh sách cùng với tăng già với số tuổi mười ba. Nhà Tùy (589-618) điêu tàn, chiến tranh, nội loạn gây ra chết chóc và bất ổn trong nhiều vùng Trung Quốc. Vì thế nhiều tăng sĩ, học trò kéo nhau về Tràng An, kinh đô của nhà Đường, nơi mà các vị đó được ủng hộ trong việc tu hành và giáo hóa một cách tương đối an toàn. Huyền Trang cũng về Tràng An và sau khi theo học với nhiều vị sư tiếng tăm, Sư đã được biết là một người học rộng và có tư chất. Thế nhưng Sư sớm kết luận rằng: mọi tranh cãi, diễn dịch khác nhau trong Phật giáo Trung Quốc là hậu quả của sự thiếu thốn kinh sách chủ chốt viết bằng tiếng Hán. Đặc biệt, Sư cho rằng một bản dịch đầy đủ của bộ Du-già sư địa luận, một bộ luận bách khoa của phái Duy thức tông miêu tả con đường dẫn tới Phật quả của Vô Trước, sẽ có khả năng giải quyết mọi tranh chấp. Trong thế kỉ 6, đã có một vị tăng Ấn Độ là Chân Đế (một Đại dịch giả khác) đã dịch một phần tác phẩm đó. Huyền Trang thấy mình phải dịch trọn bộ luận Ấn Độ này và giới thiệu cho Trung Quốc.

Mặc dù nhà vua cấm Huyền Trang ra đi, Sư vẫn lên đường, trải qua nhiều gian khổ trên đường băng qua núi non và sa mạc, đối diện với đói khát và giặc cướp, và cuối cùng sau một năm, Sư tới Ấn Độ. Khi tới nơi, Sư nhận ra rằng sự khác biệt giữa Phật giáo Ấn Độ và Trung Quốc không phải chỉ ở vài chương thiếu sót của một bộ luận. Từ trên một thế kỉ nay, Phật giáo Ấn Độ nằm trong vòng cương toả của lý luận duy lý của Trần-na và dù một số bài luận về Nhân minh học của Trần-na đã được phiên dịch thì lý luận Phật giáo – nay đã trở thành một phần không tách rời khỏi triết học Phật giáo Ấn Độ – vẫn hoàn toàn chưa ai biết tới tại Trung Quốc. Huyền Trang cũng khám phá được rằng, tư tưởng Phật giáo mà người Phật tử hay tranh luận và diễn dịch mênh mông hơn, lớn rộng hơn nhiều so với những tài liệu lưu hành tại Trung Quốc: nhiều quan điểm Phật giáo được tôi luyện trong các cuộc tranh luận nghiêm túc giữa các Phật tử và người ngoài, các quan điểm đó không hề được biết tới tại Trung Quốc và những từ ngữ, khái niệm trong các cuộc tranh luận giàu nội dung đó có ý nghĩa rất rõ rệt. Trong khi tại Trung Quốc thì tư tưởng Duy thức và tư tưởng Như lai tạng không thể phân chia được, thì trong quan điểm kinh viện của Duy thức Ấn Độ, tư tưởng Như lai tạng không được nhắc tới, thậm chí bị từ chối. Nhiều nội dung chủ yếu của Phật giáo Trung Quốc (thí dụ Phật tính) và các kinh sách quan trọng (thí dụ Đại thừa khởi tín luận) thì hoàn toàn không được Ấn Độ biết tới.

Huyền Trang ở lại Ấn Độ nhiều năm để học tập với những vị thầy danh tiếng nhất, chiêm bái các thánh tích và tham gia vào các cuộc tranh luận với những Phật tử và ngoại đạo, đả bại tất cả những đối thủ và trở nên nổi tiếng là một nhà luận sư cứng rắn. Sau một loạt hội luận với hai đại diện của Trung quán tông (môn đệ kế thừa quan điểm Long Thụ), Sư viết một bài luận giải bằng tiếng Phạn với ba ngàn câu kệ nói về "Điểm không khác biệt giữa Trung quán và Duy thức" mà ngày nay không còn. Sau khi hứa với Giới Hiền, thầy dạy của Sư tại đại học Na-lan-đà (trung tâm tu học Phật pháp tại Ấn Độ thời bấy giờ) là sẽ trình bày lý luận của Trần-na tại Trung Quốc, Sư trở về quê hương với hơn 600 bộ kinh luận viết bằng tiếng Phạn. 


Long Nữ 9 tuổi thành Phật

https://vtv.vn/xa-hoi/be-gai-bi-cha-duong-xam-hai-nhieu-lan-dan-den-mang-thai-20210619150914863.htm

https://vietnamnet.vn/be-gai-bi-cha-duong-xam-hai-nhieu-lan-den-mang-thai-747219.html

https://laodong.vn/phap-luat/be-gai-12-tuoi-bi-cha-duong-nhieu-lan-xam-hai-me-ruot-bao-hanh-961253.ldo

https://go-korea.com/mot-be-gai-bi-cha-duong-hiep-dam-343-lan-trong-vong-12-nam-it-nhat-2-lan-lam-em-be-co-bau-nhung-bat-phai-pha-thai/

https://danviet.vn/dang-long-be-gai-bi-cha-duong-xam-hai-tinh-duc-den-lu-lan-7777415942.htm

 https://vnexpress.net/doi-bat-hanh-cua-co-gai-bi-cha-duong-bat-coc-4489238.html

 

Như Ý 9 tuổi 

https://youtu.be/ZxsclLSiugI


 CHÁNH VĂN:

5.- Bấy giờ ở Hạ phương vị Bồ-tát theo hầu đức Đa Bảo Như Lai tên là Trí Tích bạch với đức Đa Bảo Phật nên trở về bổn quốc, đức Thích-ca Mâu-ni Phật bảo Trí Tích rằng:

- Thiện nam tử! Chờ giây lát, cõi đây có Bồ-tát tên Văn-thù-sư-lợi có thể cùng ra mắt nhau luận nói pháp mầu rồi sẽ về bổn độ.

Lúc đó, ngài Văn-thù-sư-lợi ngồi hoa sen nghìn cánh lớn như bánh xe, các vị Bồ-tát cùng theo cũng ngồi hoa sen báu, từ nơi cung rồng Ta-kiệt-la trong biển lớn tự nhiên vọt lên trụ trong hư không, đến núi Linh Thứu, từ trên hoa sen bước xuống đến chỗ Phật, đầu mặt kính lạy chân hai đức Phật, làm lễ xong, qua chỗ Trí Tích cùng hỏi thăm nhau rồi ngồi một phía.

Ngài Trí Tích Bồ-tát hỏi ngài Văn-thù-sư-lợi rằng:

- Ngài qua cung rồng hóa độ chúng sanh số được bao nhiêu?

Ngài Văn-thù-sư-lợi nói:

- Số đó vô lượng không thể tính kể, chẳng phải miệng nói được, chẳng phải tâm lường được, chờ chừng giây lát sẽ tự chứng biết.

Ngài Văn-thù nói chưa dứt lời, liền có vô số Bồ-tát ngồi hoa sen báu từ biển vọt lên đến núi Linh Thứu trụ giữa hư không. Các vị Bồ-tát này đều là của ngài Văn-thù-sư-lợi hóa độ, đủ hạnh Bồ-tát đều chung luận nói Sáu pháp ba-la-mật. Những vị mà trước kia là Thanh văn ở giữa hư không nói hạnh Thanh văn nay đều tu hành “nghĩa không” của Đại thừa.

Ngài Văn-thù-sư-lợi nói với ngài Trí Tích rằng:

- Tôi giáo hóa ở nơi biển việc đó như thế.

Lúc ấy, ngài Trí Tích Bồ-tát nói kệ khen rằng:

Đại Trí đức mạnh mẽ
Hóa độ vô lượng chúng
Nay trong hội lớn này
Và tôi đều đã thấy
Diễn nói nghĩa thiệt tướng
Mở bày pháp Nhứt thừa
Rộng độ các chúng sanh
Khiến mau thành Bồ-đề.

GIẢNG:

Bồ-tát Thị giả của Phật Đa Bảo ở phương dưới tên là Trí Tích. Tích là dấu vết, là chứa nhóm, Trí Tích là trí hiểu biết do huân tập, nên còn kẹt còn vướng mắc. Trí này còn phân biệt còn vướng mắc, thuộc về Hữu sư trí, nên không thể tin nhận Tri kiến Phật. Vì vậy mà ở đây biểu trưng bằng hình ảnh Bồ-tát Trí Tích ở Hạ phương đòi trở về bản quốc. Bồ-tát Văn-thù tiêu biểu cho Căn bản trí. Căn bản trí hằng dứt sạch mọi nhiễm ô tham ái chấp trước, luôn thanh tịnh, có khả năng tin nhận Tri kiến Phật, nên biểu trưng bằng hình ảnh Bồ-tát Văn-thù ngồi hoa sen lớn từ biển lớn vọt lên hư không, đến núi Linh Thứu đảnh lễ Phật. Sau khi đảnh lễ Phật, Bồ-tát Trí Tích và Bồ-tát Văn-thù cùng thăm hỏi nhau. Hai vị Bồ-tát gặp nhau để làm gì? Vì Bồ-tát Trí Tích thuộc về Hữu sư trí, do huân tu, tùy duyên ứng hiện giáo hóa chúng sanh mà được. Còn Bồ-tát Văn-thù là Căn bản trí có sẵn nơi mỗi người hằng thanh tịnh sáng suốt. Hai trí này hợp nhau mới viên mãn đạo Bồ-đề thành Phật, nên nói Bồ-tát Trí Tích và Bồ-tát Văn-thù cùng ra mắt luận nói pháp mầu. Lại nữa, Căn bản trí là trí biết đầy đủ, biết được Tri kiến Phật sẵn có nơi mọi chúng sanh. Vô số chúng sanh ở cõi Ta-bà này ai cũng có Tri kiến Phật, nên nói Bồ-tát Văn-thù giáo hóa vô lượng vô số chúng sanh không thể tính kể.

alt

CHÁNH VĂN:

6.- Ngài Văn-thù-sư-lợi nói:

- Ta ở biển chỉ thường tuyên nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa.

Ngài Trí Tích hỏi ngài Văn-thù-sư-lợi rằng:

- Kinh này rất sâu vi diệu là báu trong các kinh, trong đời rất ít có, vậy có chúng sanh nào siêng năng tinh tấn tu hành kinh này mau được thành Phật chăng?

Ngài Văn-thù-sư-lợi nói:

- Có con gái của vua rồng Ta-kiệt-la mới tám tuổi mà căn tánh lanh lẹ, có trí tuệ, khéo biết các căn tánh hành nghiệp của chúng sanh, được pháp tổng trì, các tạng pháp kín rất sâu của các Phật nói đều có thể thọ trì, sâu vào Thiền định, rõ thấu các pháp. Trong khoảnh sát-na phát tâm Bồ-đề được bậc Bất thối chuyển, biện tài vô ngại, thương nhớ chúng sanh như con đỏ, công đức đầy đủ, lòng nghĩ miệng nói pháp nhiệm mầu rộng lớn, từ bi nhân đức khiêm nhường, ý chí hòa nhã, nàng ấy có thể đến Bồ-đề.

Trí Tích Bồ-tát nói rằng:

- Tôi thấy đức Thích-ca Như Lai ở trong vô lượng kiếp làm những hạnh khổ khó làm, chứa nhiều công đức để cầu đạo Bồ-đề chưa từng có lúc thôi dứt, ta xem trong cõi tam thiên đại thiên nhẫn đến không có chỗ nhỏ bằng hột cải, mà không phải là chỗ của Bồ-tát bỏ thân mạng để vì lợi ích chúng sanh, vậy sau mới được thành đạo Bồ-đề. Chẳng tin Long nữ đó ở trong khoảng giây lát chứng thành bậc Chánh giác.

Nói luận chưa xong, lúc đó con gái của Long vương bỗng hiện ra nơi trước, đầu mặt lễ kính Phật rồi đứng một phía nói kệ khen rằng:

Thấu rõ tướng tội phước
Khắp soi cả mười phương
Pháp thân tịnh vi diệu
Đủ ba mươi hai tướng
Dùng tám mươi món tốt
Để trang nghiêm Pháp thân
Trời, người đều kính ngưỡng
Long thần thảy cung kính
Tất cả loài chúng sanh
Không ai chẳng tôn phụng
Lại nghe thành Bồ-đề
Chỉ Phật nên chứng biết
Tôi nói pháp Đại thừa
Độ thoát khổ chúng sanh.

GIẢNG:

Ở đây không những nam tử được Bồ-tát Văn-thù giáo hóa cho thành Phật, mà hàng nữ nhi như Long nữ cũng được độ thành Phật. Long nữ chẳng những mang thân nữ lại còn là loài rồng mới có tám tuổi, mà nói thành Phật thì Bồ-tát Trí Tích không tin. Tại sao? Vì Trí Tích là trí do huân tập. Bởi do huân tập được, nên chỉ biết tu mà được thành Phật. Thành Phật là phải trải qua vô lượng kiếp hành Bồ-tát đạo, như lời Phật Thích-ca kể lại tiền thân của Ngài. Bây giờ nói Long nữ, vừa là nữ, vừa là thú, vừa là nhỏ mà thành Phật, thì làm sao tin được? Nên với Bồ-tát Trí Tích, Ngài không thể tin. Còn Bồ-tát Văn-thù là Căn bản trí, biết rõ tất cả chúng sanh đều có sẵn Tri kiến Phật, nếu căn tánh lanh lợi khi được khai thị, tin nhận và hằng sống với Tri kiến Phật là thành Phật, bất luận là nam hay nữ, lớn hay nhỏ, người hay thú.

CHÁNH VĂN:

7.- Bấy giờ, ngài Xá-lợi-phất nói với Long nữ rằng:

- Người nói không bao lâu chứng được đạo Vô thượng, việc đó khó tin. Vì sao? Vì thân gái nhơ uế chẳng phải là pháp khí, thế nào có thể được thành Vô thượng Chánh giác? Đạo Phật xa rộng phải trải qua vô lượng kiếp cần khổ chứa nhóm công hạnh, tu đủ các độ, vậy sau mới thành được. Lại thân gái còn có năm điều chướng: một, chẳng được làm Phạm thiên vương; hai, chẳng được làm Đế Thích; ba, chẳng được làm Ma vương; bốn, chẳng được làm Chuyển Luân Thánh vương; năm, chẳng được làm Phật. Thế nào thân gái được mau thành Phật?

Lúc đó, Long nữ có một hột châu báu, giá trị bằng cõi tam thiên đại thiên đem dưng lên đức Phật. Phật liền nhận lấy. Long nữ nói với Trí Tích Bồ-tát cùng Tôn giả Xá-lợi-phất rằng:

- Tôi hiến châu báu, đức Thế Tôn nạp thọ, việc đó có mau chăng?

Đáp:

- Rất mau.

Long nữ nói:

- Lấy sức thần của các ông xem tôi thành Phật lại mau hơn việc đó.

Đương lúc đó cả chúng hội đều thấy Long nữ thoạt nhiên biến thành nam tử, đủ hạnh Bồ-tát, liền qua cõi Vô cấu ở phương Nam ngồi tòa sen báu thành bậc Đẳng chánh giác, đủ ba mươi hai tướng, tám mươi món đẹp, khắp vì tất cả chúng sanh trong mười phương mà diễn nói pháp mầu.

Khi ấy, trong cõi Ta-bà hàng Bồ-tát, Thanh văn, trời, rồng, bát bộ, nhân cùng phi nhân đều xa thấy Long nữ thành Phật khắp vì hàng nhân thiên trong hội đó mà nói pháp, sanh lòng vui mừng đều xa kính lạy, vô lượng chúng sanh nghe pháp tỏ ngộ được bất thối chuyển, vô lượng chúng sanh được lãnh lời thọ ký thành Phật. Cõi Vô cấu sáu điệu vang động, cõi Ta-bà ba nghìn chúng sanh trụ bậc Bất thối, ba nghìn chúng sanh phát lòng Bồ-đề mà được lãnh lời thọ ký.

Trí Tích Bồ-tát và ngài Xá-lợi-phất tất cả trong chúng hội yên lặng mà tin nhận đó.

GIẢNG:

Không riêng gì Bồ-tát Trí Tích không tin Long nữ sẽ thành Phật mà cả Tôn giả Xá-lợi-phất cũng không tin. Ngài nêu lên năm điều mà nữ giới không thể làm được, là Phạm thiên vương, Đế Thích, Ma vương, Chuyển Luân Thánh vương, Phật. Thông thường những người tu hành có liên hệ tình cảm với phái nữ, nửa chừng cởi áo tu ra đời thì bấy giờ người nữ ấy bị coi như ma nữ, phá hại người tu hành. Ở đây nói nữ giới không thể làm Phạm thiên, Đế Thích, Chuyển Luân Thánh vương, cho đến Ma vương cũng không làm được. Tại sao chê phái nữ quá vậy? Như trước đã nói, tuy Tôn giả Xá-lợi-phất đã được thọ ký, nhưng Ngài còn quen cái nhìn theo nghiệp tướng, thấy người nữ nghiệp nặng hơn người nam, nên không thể làm Phạm thiên, Đế Thích... Vì nhìn trên nghiệp tướng nên thấy người nữ khó tu hơn người nam.

Long nữ dâng hạt châu lên Phật để cúng dường, có nghĩa là trình sự tin nhận Tri kiến Phật. Giống như trình sở ngộ để Phật Tổ ấn chứng cho chỗ tin, thấy của mình là không sai. Việc thành Phật của Long nữ nhanh hơn việc dâng châu lên Phật.

Bấy giờ trong chúng hội đều thấy Long nữ thoạt biến thành nam tử đầy đủ công hạnh Bồ-tát, liền qua cõi Vô cấu thành Phật thuyết pháp. Ngài Trí Tích thuộc hàng Bồ-tát, Tôn giả Xá-lợi-phất thuộc hàng Thanh văn, cả hai đều là bậc trí tuệ. Nhưng trí tuệ của hai Ngài do huân tập, còn hạn cuộc trong vòng tương đối nên còn thấy theo nghiệp tướng, vì vậy mà không thể tin Long nữ thành Phật. Căn cứ trên nghiệp tướng thì thân nam nữ có sai biệt, nhưng Tri kiến Phật sẵn có nơi mỗi người thì không khác. Hơn nữa Tri kiến Phật không có nam nữ đối đãi, vì không có nam nữ đối đãi nên ai nhận ra Tri kiến Phật thì thành Phật, bất luận nam hay nữ, không nhận được thì không thành Phật.

Phẩm này nêu lên hai đặc điểm:

- Thứ nhất là bình đẳng giữa thiện và ác, kẻ ác người thiện ai cũng có Tri kiến Phật như nhau. Dù ác dù thiện một phen nhận ra Tri kiến Phật của chính mình thì thành Phật. Chẳng hạn đồ tể Quảng Ngạch ngộ được lý đạo liền nói: “Hôm qua tâm dạ-xoa, ngày nay mặt Bồ-tát, dạ-xoa và Bồ-tát, chỉ cách một đường tơ.” Ở đây Phật thọ ký cho Đề-bà-đạt-đa thành Phật là để nói kẻ ác phạm tội ngũ nghịch như Đề-bà-đạt-đa vẫn có Tri kiến Phật, nếu thức tỉnh tu hành thì cũng thành Phật.

- Thứ hai là bình đẳng giữa nam và nữ, giữa người và thú, người nam hay người nữ, kể cả súc sanh đều có Tri kiến Phật. Vì vậy mà Bồ-tát Thường Bất Khinh gặp ai cũng nói: “Tôi không dám khinh các ngài, các ngài sẽ thành Phật.” Đó là để nói lên ý nghĩa này. Ai ai cũng có Tri kiến Phật, nhưng vì quên nên không nhận, vì vậy mà cứ luân hồi mãi trong sáu đường. Nếu nhận ra thì thành Phật, nên ở đây Long nữ khi nghe kinh Pháp Hoa liền tin nhận và thành Phật.

- Phẩm kinh này dạy cho chúng ta một lối nhìn bình đẳng, dù là người thiện hay ác, đều thấy như nhau, đối với người ác, không khinh thường, không ác cảm, dù là người nam hay nữ cũng thấy như nhau, vì ai ai cũng có Tri kiến Phật. Dù là người hay thú, tất cả đều có Tri kiến Phật nên không nỡ hại nhau. Nếu tin nhận được thì công đức vô lượng.

Hòa Thượng Thích Thanh Từ
Trích Phẩm 12 “Đề Bà Đạt Đa” trong “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Giảng Giải”

-------

Long Nữ 8 tuổi thành Phật

Long nữ thành Phật

Trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa, phẩm thứ 12 Đề Bà Đạt Đa có nói sự kiện Long nữ, con gái Long vương thành Phật như sau:

“Lúc bấy giờ, Bồ tát Trí Tích, thị giả của Phật Đa Bảo bạch xin phép Phật Đa Bảo trở về nước. Đức Phật Thích Ca mới bảo Bồ tát Trí Tích: “Thiện nam tử, hãy chờ giây lát. Ở đây có Bồ tát Văn Thù, ông và Văn Thù có thể cùng nhau ra mắt mà luận nói pháp mầu, xong rồi sẽ về”.

Ngay khi ấy, Bồ tát Văn Thù và các Bồ tát tùy tùng ngồi trên hoa sen lớn, từ nơi cung Rồng (Long cung) Ta kiệt la trong biển lớn bay lên hư không, rồi bay đến núi Linh Thứu, từ hoa sen bước xuống, đảnh lễ Phật Đa Bảo và Phật Thích Ca, kế đến hỏi thăm Bồ tát Trí Tích, sau đó ngồi qua một bên.

Bồ tát Trí Tích bèn hỏi Bồ tát Văn Thù: “Ngài qua cung Rồng hóa độ được bao nhiêu chúng sinh?” Bồ tát Văn Thù đáp: “Vô lượng. Nếu Ngài không tin, sẽ tự chứng biết”.

Bồ tát Văn Thù nói chưa dứt lời thì có vô số Bồ tát ngồi hoa sen từ biển bay lên đến núi Linh Thứu, trụ trên hư không, tất cả đều do Bồ tát Văn Thù hóa độ. Bồ tát Văn Thù nói: “Ở biển, ta thường tuyên thuyết kinh Diệu Pháp”. Bồ tát Trí Tích hỏi: “Kinh này rất thâm diệu. Vậy có chúng sinh nào siêng tu theo kinh này mà mau thành Phật không?” Bồ tát Văn Thù đáp: “Có con gái của Long vương, mới lên tám tuổi mà đầy đủ trí đức, trong khỏanh khắc phát Bồ đề tâm, được bậc bất thối chuyển, biện tài vô ngại, từ bi rộng lớn, công đức đầy đủ, có khả năng đến Bồ đề”.

Bồ tát Trí Tích không tin hỏi: “Chính Đức Phật Thích Ca còn phải trải qua vô lượng kiếp tu tạo nhiều công đức, làm những hạnh khó làm mới thành đạo Bồ đề, làm sao tin được Long nữ trong chốc lát mà chứng thành Chánh giác”.

Đàm luận chưa xong, Long nữ bỗng hiện ra, cung kính đảnh lễ Phật rồi đứng qua một bên, nói kệ xưng tán pháp thân và cho biết nhờ nghe được diệu pháp mà nàng đã thành Bồ đề, nhưng việc này chỉ Phật chứng biết mà thôi.

Bấy giờ Tôn giả Xá Lợi Phất nói với Long nữ: “Thân gái nhơ uế, có năm điều chướng ngại, còn con đường Phật đạo xa diệu vợi, phải trải qua vô lượng kiếp cần khổ mới đi hết, mà ngươi nói tu không bao lâu đã chứng được vô thượng Chánh giác. Làm sao tin được?” Long nữ bèn lấy một hạt châu hiến dâng Đức Phật Thích Ca, Đức Phật thọ nhận. Bấy giờ Long nữ hỏi Bồ tát Trí Tích: “Tôi hiến châu, Thế Tôn nhận lấy, việc ấy có mau chăng?” Bồ tát Trí Tích đáp: “Mau”. Bấy giờ Long nữ nói: “Ông hãy lấy thần lực của ông xem đây, tôi thành Phật còn mau hơn việc đó”.

Chúng hội liền thấy Long nữ thọat nhiên biến thành nam tử, đủ hạnh Bồ tát, qua cõi Vô cấu phương nam, ngồi hoa sen báu, thành bậc Đẳng Chánh giác”.

Câu chuyện Long nữ thành Phật có ý nghĩa cao sâu: Tất cả chúng sinh đều có Phật tính, dù là lòai nào, nam, nữ, già, trẻ, bé, lớn đều có khả năng thành Phật nếu như đầy đủ trí tuệ và công đức phước báu, tu hành không thối chuyển, có tâm từ bi rộng lớn, có vô ngại biện tài. Cũng như Long nữ vốn là lòai rồng (súc sinh), lại mang thân nữ, chỉ mới tám tuổi thôi, nhưng nhờ tu tập, tích chứa công đức phước báu, có tâm tánh, ý chí của bậc nam nhi trượng phu quân tử (Long nữ biến thành thân nam), hội đủ điều kiện nhân duyên (thành tựu Lục độ vạn hạnh, chứng đạt tâm thanh tịnh, sạch vô minh phiền não (qua cõi Vô cấu) mà Long nữ đã thành bậc Đẳng Chánh giác.

Theo kinh điển Phật giáo, Rồng là một trong Tám bộ chúng thường theo ủng hộ Phật pháp (Thiên long bát bộ): Thiên (Trời), Long (Rồng), Dạ xoa (Thần Dạ xoa, quỷ Dạ xoa), Kiền thát bà (Thần âm nhạc ở cõi trời, thường tấu thiên nhạc hầu vua trời Đế Thích), A tu la (Phi thiên, các chúng sinh này có phước báu như chư thiên nhưng kém đức, tâm thường sân hận và ưa tranh đấu), Ca lâu la (Kim sí điểu, lòai chim cánh vàng), Khẩn na la (Nhơn phi nhơn, hình dáng giống con người nhưng chẳng phải người, là vị thần đánh pháp nhạc cho trời Đế Thích nghe), Ma hầu la già (Thần mình người đầu rắn, bụng to). Trong các thời pháp của Đức Phật đều có sự tham dự của hàng Thiên long bát bộ.
Phan Minh Đức

---

TẠI SAO TIỂU LONG NỮ THÀNH PHẬT NHANH (trong Sát na)?.
.
* Kinh Pháp Hoa là vua các kinh. Ẩn chứa Phật Pháp sâu kín Vi Diệu.
- Điều ẩn kín lớn nhất toàn bộ kinh là pháp hành “Diệu Pháp” mà Thầy Võ Hoành Sơn đã khai thị.
- Ngoài ra, từng Phẩm cũng còn ẩn kín những ý nghĩa riêng, để giúp người hành ứng dụng mau thành tựu “Diệu Pháp”.
.
* Đây muốn nói những ý nghĩa ẩn vụ trong Phẩm Đề Bà Đạt Đa, trong kinh Pháp Hoa.
* Những ẩn dụ:
- Đề Bà Đạt Đa ẩn dụ cho Bồ tát Nghịch Hạnh.
- Vị Quốc Vương phát nguyện cầu đạo ẩn dụ cho người thực hành Sáu Ba La Mật.
- Trí Tích Bồ Tát ẩn dụ cho Tri kiến của phàm phu, chấp kinh tu vô lượng kiếp mới được Thành Phật.(Trí Tích và ở hạ phương ).
- Bồ Tát Văn Thù ẩn dụ cho Trí Huệ Phật (Độ vô lượng Bồ Tát không thể tính,không thể nói, tâm không thể lường được).
- Tiểu Long Nữ ẩn dụ cho Thân Người, mới thực hành thiền có đủ 8 Thức (8 tuổi).
- Ngài Xá Lợi Phất ẩn dụ cho Vọng Tâm: Chấp Ngã, Chấp Pháp và óc phân biệt của người thế gian.
1/-Chấp Ngã: - Thân gái nhơ uế… (Vì có Ngã nên có Nhân; thân gái…)
2/- Chấp Pháp: -Đạo Phật xa rộng phải trải qua vô lượng kiếp cần khổ chứa công hạnh…
3/- Óc phân Biệt: - Là 5 Điều chướng . Đồng thời cũng là ẩn dụ cho Ngủ Uẩn trong Thân – Tâm con người.

- Hột Châu báu:- Ẩn dụ cho Tất cả kiến Chấp to lớn kể trên.
- Đem dâng lên Đức Phật: - Ẩn dụ cho Buông Lìa vào trạng thái Thân – Tâm Rỗng Không.
- Phật liền nhận lấy: - Ẩn dụ cho Nhập Tri Kiến Phật.
- Tiểu Long Nữ hóa thành Thân Nam Tử thành bậc Đẳng Chánh Giác: - Ẩn dụ cho Phật Tánh trùm khắp vô phân biệt.

* Vậy tại sao Tiểu Long Nữ Thành Phật nhanh? .
- Xâu chuỗi lại các điều trên; Chư Vị sẽ hiểu vì sao Tiểu Long Nữ Thành Phật rất nhanh.
- Tiểu Long Nữ nói “ Tôi hiến châu báu, Đức Thế Tôn nạp thọ, việc đó có mau chăng?”.
- “Lấy sức thần của các ông xem tôi thành Phật lại mau hơn việc đó”

* Lời kết:
- Thực hành thiền trực tiếp “Diệu Pháp” trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa thành tựu thì việc Thành Phật (Trực nhận Phật Tánh) cũng không khác như trên.
.
Pháp Hoa Hội Thiền Việt Nam,
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT.

 

----------------

  Đoàn Trung Còn (1908–1988), pháp danh Hồng Tai, hay Tỳ kheo Thích Hồng Tại, là một cư sĩ Phật giáo và học giả Phật học có tiếng tại Việt Nam. Ông được đánh giá là có công rất lớn cho sự nghiệp chấn hưng Phật giáo và phổ biến Phật học tại Việt Nam vào giai đoạn nửa đầu thế kỷ 20.

Ông sinh ngày 2 tháng 11 năm 1908, quê tại xã Thắng Nhì, thị xã Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa, nay thuộc phường Thắng Nhì, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Lúc nhỏ ông theo học trường Pháp Việt tại Vũng Tàu, sau lên học ở Sài Gòn. Sau khi tốt nghiệp với bằng Thành chung (Diplomat), ông ra làm tư chức và lập nghiệp tại Sài Gòn.

Bản thân căn bản học vấn của trường Pháp Việt, do đó ông rất thông thạo tiếng Pháp. Bên cạnh đó, vốn xuất thân trong một gia đình có truyền thống Nho học và tín ngưỡng Phật giáo, ông còn chuyên tâm tự học chữ Hán, trở thành một người có căn bản Hán học. Ngoài ra, ông còn thường xuyên tiếp xúc với các sư sãi người Khmer và Phật giáo Nam Tông, có điều kiện nghiên cứu và học tập từ các kinh sách Phật giáo chép bằng chữ Bắc Phạn (Sanscrit) hoặc chữ Nam Phạn (Pàli). Chính nhờ đó mà ông có một căn bản khá vững chắc về Hán học và Phạn học, đủ giúp ông đi sâu vào nghiên cứu kinh điển nhà Phật, danh cả đời chuyên tâm nghiên cứu, dịch kinh sách Phật giáo.

Ông bắt đầu viết và xuất bản các tác phẩm về Phật giáo vào năm 1931, cho xuất bản các sách Chuyện Phật đời xưa, Văn Minh Nhà Phật Qua Tàu, Triết Lý Nhà Phật do nhà Agence Saigonnaise de Publicité ấn hành.

Năm 1932, ông sáng lập Phật học Tòng Thơ để xuất bản các sách ông biên khảo về Phật giáo và các bộ kinh căn bản do ông phiên âm và dịch nghĩa. Song song đó, ông sáng lập thêm Trí Đức Tùng Thư để xuất bản các bộ sách quan trọng của Nho giáo do ông phiên âm và dịch nghĩa, với mục đích là duy trì nền đạo học chân chính, hầu giúp cho lớp hậu tiến biết cách tu thân, tề gia và trị quốc. Mục đích tôn chỉ của hai tùng thư này đã được ông minh thị trong lời bố cáo như sau:

“Những kinh sách của bổn quán xuất bản, hoặc in có chữ Hán, hoặc in toàn chữ Việt, đều được nghiên cứu và nhuận sắc rất kỹ lưỡng, vì mục đích của bổn quán là muốn truyền bá Phật pháp, cho nên chẳng ngại công cán và thì giờ.
“Vậy mong rằng kinh sách ấy sẽ bổ ích cho độc giả thiện tâm trên đường tu học.
“Vì sau này giấy đắt công cao, vậy bổn quán yêu cầu những vị đã thỉnh kinh sách, khi coi rồi thì nên cho bà con quen biết mượn coi, đó là quý vị phụ lực với bổn quán mà truyền bá đạo lý vậy.
“Và bổn quán cũng yêu cầu những vị “hằng tâm hằng sản” nên thỉnh kinh sách Phật mà ấn tống, thì phước đức vô lượng. Những nhà từ tâm bố thí có lẽ cũng dư biết rằng, trong các việc bố thí, chỉ có việc thí Pháp là có công đức hơn hết”.
Những năm sau đó, ông cho xuất bản tiếp các sách như: Truyện Phật Thích ca (1932) Tăng đồ Nhà Phật (1934), Các Tông Phái Đạo Phật ở Viễn Đông (1935). Ngoài ra, ông còn xuất bản một số kinh sách do các tăng sĩ, cư sĩ khác biên soạn dưới danh nghĩa Phật học Thơ Xã.

Sau ông dùng nhà riêng tọa lạc tại 143 đường Đề Thám (Dixmude cũ), Quận Nhứt, Sàigòn làm nhà Xuất bản Phật học Tòng Thơ để xuất bản những Kinh, sách Phật giáo do ông soạn, dịch. Ông cũng xuất bản những sách Khổng giáo hay Hán văn dưới tên nhà xuất bản Trí Đức Tòng Thơ.

Năm 1955, ông hợp tác cùng với một số tăng sĩ và thân hữu thành lập Hội Phật giáo Tịnh độ tông Việt Nam, đặt trụ sở tại chùa Giác Hải, Phú Lâm Chợ Lớn. Ông được bầu giữ chức Trị sự trưởng Ban chấp sự Trung ương. Năm 1959, ông xây cất chùa Liên Tông tại số 145 Đề Thám, Giáo hội Tịnh Độ Tông dời trụ sở về đây hoạt động.

Đầu thập niên 1970, ông xuất gia, thọ giới trở thành tu sĩ Thích Hồng Tại. Mặc dù trải qua nhiều biến động, ông vẫn tiếp tục nghiên cứu, biên soạn và sáng tác cho đến khi qua đời vào ngày 15 tháng 3 năm 1988, hưởng thọ 80 tuổi với trên 50 năm cống hiến cho sự nghiệp nghiên cứu và truyền bá Phật giáo. Giáo hội Tịnh Độ Tông Việt Nam tổ chức tang lễ của ông tại chùa Liên Tông sau đó di quan đến nơi hỏa táng ở đồi khuynh diệp của Bác sĩ Tín ở Xa lộ Biên Hòa.

Các tác phẩm Phật học của ông được biên soạn, dịch thuật thường căn cứ trên những thư tịch Phật giáo Tây phương. Sách của ông được lưu hành rộng khắp cả ba miền đất nước và có số lượng khá cao so với các tác giả, dịch giả khác.

Công trình lớn nhất của ông là bộ Phật học từ điển (3 quyển, khổ 24 x 15 cm, 2415 trang). Đây là bộ từ điển Phật học đồ sộ và giá trị nhất từ trước đến nay. Hiện nay thư tịch Phật học Việt Nam cũng chưa có bộ từ điển nào có số mục từ đồ sộ và giải thích rõ các thuật ngữ chuyên môn Phật học như bộ sách của ông. Đây là lần đầu tiên Từ điển Phật học này sắp xếp các mục từ theo mẫu tự La tinh và mỗi mục từ được chua thêm các thứ tiếng Pháp, Hán, Tạng, Pali, Sancrit rất rõ, giúp độc giả có điều kiện tham khảo từ các sách viết bằng các ngoại ngữ trên.

Những sách Khổng giáo, Hán văn do ông soạn dịch xuất bản trong Trí Đức Tòng Thơ
Truyện đức Khổng tử
Nhị thập tứ hiếu (Hán Việt)
Hiếu Kinh (Hán Việt).
Tam tự Kinh (Hán Việt).
Tứ thơ: Đại học, Trung dung, Luận ngữ, Mạnh tử (Hán Việt).
Tam thiên tự (3 cuốn: 1 cuốn in theo xưa Hán Việt, 1 cuốn in theo Tiểu tự điển Hán Việt Pháp, 1 cuốn in theo Tiểu tự điển Pháp Hán Việt)
Minh Đạo Gia Huấn (Hán Việt)
Ngũ thiên tự: 2 quyển: 1 quyển theo xưa, 1 quyển theo lối tự điển Hán, Việt, Pháp
Học Chữ Hán một mình.
Những kinh, sách do tự ông hay cộng tác với người khác soạn dịch, nhà xuất bản Phật học Tòng Thơ
Truyện Phật Thích Ca
Du lịch xứ Phật
Đạo lý nhà Phật
Chuyện Phật đời xưa
Văn minh nhà Phật.
Triết lý nhà Phật.
Lịch sử nhà Phật.
Pháp giáo nhà Phật
Tăng đồ nhà Phật (1934)
Các tông phái đạo Phật.
Diệu pháp liên hoa kinh (1936).(In lần thứ ba 1969)
Một trăm bài kinh Phật.
Na Tiên Tỳ kheo kinh.
Mấy thầy tu huyền bí.
Tam bảo văn chương.
Pháp Bảo đàn kinh, cùng dịch với Huyền Mặc Đạo Nhơn (1947)
Vô Lượng Thọ kinh. Hán Việt.
Quán Vô Lượng Thọ kinh. Hán Việt (1947)
Địa Tạng kinh. Hán Việt.
Di Lặc kinh. Hán Việt. (in lần thứ hai, 1949)
Bồ Tát Giới kinh. Hán Việt (1953)
Qui nguyên trực chỉ.
Phật học từ điển. Việt, Hán, Pháp, Phạn (1963)
Yếng sáng Á châu
Kim cang kinh. Hán Việt
Chư Kinh tập yếu (A Di Đà Kinh, Phổ môn, Tứ thập nhị chương kinh, Phật Di giáo kinh, Vô lượng nghĩa Kinh). Hán Việt
Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh Hán Việt (1971)
Đại Bát Niết Bàn Kinh Hán Việt.

Sau khi ông qua đời năm 1988, hệ phái Tịnh Độ Non Bồng (núi Dinh - Bà Rịa) tôn vinh ông lên ngôi vị Hòa thượng.

Ông lập gia đình với bà Lê Thị Tàu, quê ở An Giang, sinh được 2 người con, một trai, một gái. Bà mất năm 1985.

http://www.tuvienquangduc.com.au/tacgia/doantrungcon.html


https://thuvienhoasen.org/a13268/tieu-su-ty-kheo-thich-hong-tai-tuc-doan-trung-con-1908-1988-nha-phat-hoc-mien-nam

https://thuvienhoasen.org/a13355/kinh-sach-do-thay-doan-trung-con-cu-si-nguyen-minh-tien-dich-pdf

Sunday, February 26, 2023

Hội Luận 4

Ẩm Thực Bên Sông

Trong Ngũ Dục - 5 thứ dục lạc (Tài, Sắc, Danh, Thực, Thùy) thì Ẩm Thực chiếm một vị trí không hề nhỏ. Có câu: "Ăn để sống, sống để ăn" dành cho những tín đồ ăn uống ở đời.

Hôm nay Thời Gian và Không Gian có điều kiện, nên bao tất cả một bữa thịnh soạn ngon lành. Ai nấy đều chờ đợi những món tâm đang được chế biến hết sức công phu với tất cả tấm lòng.

Thực đơn những món chính gồm có:

- Rau vườn hấp Phật
- Ngô khoai cùng Chúa
- Đậu hầm Tứ Đại
- Cá độ Di Lặc
- Salad trộn Hồng Trần
- Âm Dương xào xả láng
- Cháo Tịnh Độ dễ tiêu
- Cơm Vĩnh Hằng nóng hổi
- Canh Bát Nhã thường không
- Món tráng miệng Nhân Quả

Chi tiết từ khâu chuẩn bị đến chế biến như sau:

1. Rau vườn hấp Phật

Trước tiên phải kiếm hạt giống rau các loại, dễ trồng và phù hợp với khí hậu vùng miền. Rồi cuốc đất, khoanh vùng một mảnh để gieo hạt. Đất đen và tơi là đất tốt để trồng trọt, không quá nhiều cát hoặc quá nhiều sét. Nhiều cát thì đất không giữ được nước và dinh dưỡng, thực vật khó phát triển. Nhiều sét thì đất đặc, dễ úng nước, cây dễ yếu bệnh. Tuy nhiên còn tùy vào khí hậu và cách xử lý cải tạo đất. Nếu đất bạc màu, thiếu dinh dưỡng thì phải bón phân tự nhiên. Để các loại phân hữu cơ (lá cây, vỏ hoa quả, phân xanh từ gia súc hoặc phân người hoai mục, rồi bón lên đất. Tuyệt đối tránh phân hóa học, phân vô cơ, bởi vì nó giết chết các vi sinh vật trong đất, trực tiếp làm đất ngày càng bạc màu.

Khi hạt đã gieo xuống các luống đất, cần tưới mỗi ngày và chờ trong khoảng 2-3 tuần cho chúng nảy mầm. Nếu nắng gắt hoặc mưa to thì phải che chắn cho cây con. Tùy vào chất đất dễ tích nước hoặc ít ngậm nước, mà điều độ lượng nước tưới cho cây. Khi cây đang phát triển thì tưới thêm phân bón, nước tiểu (hòa loãng với tỷ lệ 1/3 - 1 phần nước tiểu 3 phần nước sạch). Nước để tưới cây không nên có hóa chất, không nên có muối mặn, không nên có kim loại nặng. Nhiều giếng khoan có mức muối rất cao, thí nghiệm cho nước từ giếng vào ngăn đá đông lạnh rồi lấy ra khi nó đông đặc, nếm thử phần bề mặt của nước đá, nếu vị mặn ở lưỡi thì có nghĩa là nước ấy không nên dùng tưới cây. Nước thành phố có hóa chất rất nặng mùi thì cây càng không thích.

Cây lớn kha khá, cho nhiều lá rồi, thì bắt đầu tỉa lá để ăn. Tỉa dần hàng ngày lấy những lá to và già, giúp cho cây bớt gánh nặng và lại càng mọc thêm nhiều lá mới. Nếu không tỉa thì cây sẽ nhanh chóng ra hoa và kết hạt. Kết hạt xong là cây héo, và chết. Vậy nên càng tỉa nhiều lá, thời gian sống của cây càng dài, càng lâu ra hoa và hạt. Tùy từng loại rau mà có cách tỉa, hái khác nhau. Cũng có loại chỉ hái những ngọn non, lá non. Càng hái cây càng thích, càng cho nhiều lá mới.

Khi đã hái được một rổ đầy, thì đem rửa sạch rồi hấp. Nồi nước sôi thì mới cho rau vào ngăn hấp. Nếu có bí nữa thì càng ngon, cắt khoanh rồi hấp cùng với rau chín tới thì ngọt lừ. Sáng nào cũng ăn sáng bằng món rau vườn tươi xanh như thế, thì quả thực là Cực Lạc cho dạ dày và sức khỏe. Đều đặn ăn như vậy thành thói quen thì năng lượng sung mãn tràn đầy sức sống.

2.  Ngô khoai cùng Chúa

Khâu chuẩn bị cũng như trên, cần có đất trồng ngô hay khoai, rồi cần chăm sóc, thu hoạch. Khi thu hoạch Ngô cũng cần biết cách cất trữ sao cho mọt bọ không xơi mất. Ngô khô rồi, thì tách ra từng hạt để nghiền thành bột, hoặc nấu nguyên hạt với vôi, để chuyển hóa các chất giúp dễ hấp thụ dinh dưỡng hơn. Món Tortilla giống như bánh đa, từ ngô nguyên hạt nấu lên, rồi chắt bỏ nước, xay ra, viên lại, làm dẹt thành từng lá mỏng hoặc dày, rồi nướng với nhiệt độ cao vừa phải, nó sẽ phồng lên như chiếc gối. Nướng càng lâu thì càng giòn, nếu muốn mềm thì đợi phồng cái là lật qua lật lại rồi nhấc ra. Nhấc ra phải có sẵn chiếc khăn để đặt vào ủ cho nóng. Nướng một chục chiếc mới ăn một thể tùy vào sức ăn mỗi bụng.

Ngô không làm bánh thì cũng có thể luộc hoặc hấp khi còn tươi mới hái. Cao lương mĩ vị nào cũng không sánh bằng. Cũng như thế là khoai. Khoai lang, khoai tây, khoai ta, khoai sọ, mỗi nơi có một loại khoai thích hợp với thổ nhưỡng và khí hậu. Khoai, sắn (Cassava) cũng là dược liệu trong y thuật cổ đại. Món ngô khoai này Chúa cũng phải thèm những khi đói bụng. Nếu có món lạc đi kèm nữa thì khỏi cần thức nhắm gì hơn. Lạc rất dễ trồng, ưa đất pha cát, lại hồi nhiều dinh dưỡng cho đất sau khi cây hết vòng đời. Lạc bùi ngùi đứng hàng Tứ Đế trong lương thực muôn đời.

3. Đậu hầm Tứ Đại

Đậu với Lạc, có hai món này thì cứu được cả thiên hạ. Đậu là họ cây leo, khí hậu thích hợp để trồng là mát mẻ, không quá nóng, không quá lạnh. Đậu có hơn 48 dinh dưỡng và vi chất. Hoàn toàn có đầy đủ lượng đạm cần thiết. Nếu có thể thay đạm động vật bằng đạm thực vật, thì đậu là ứng cử viên số 1 cho điều này. Có rất nhiều loại đậu, họ nhà Đậu xưa nay vô cùng phong phú sắc màu. Đậu đen, đậu đỏ, đậu xanh, đậu trắng, đậu vàng, đậu tía, đậu nành, đậu đũa, đậu bắp, ...
 
Sau khi gieo hạt, qua thời gian chăm sóc, 3 tháng thì thu hoạch đậu, tách hạt đậu khỏi vỏ đậu (như tách lạc khỏi vỏ lạc). Vỏ đậu và vỏ lạc là phân hữu cơ rất tốt cho đất, đập nhỏ vỏ ra thì chúng sẽ hoai mục nhanh hơn. Hạt đậu phơi khô rồi cất trong hũ thủy tinh hoặc nơi mát, tối, tránh mối mọt và bọ. Nếu bảo quản tốt có thể trữ 10 năm liền.

Đậu càng để lâu thì càng khô, khi nấu càng lâu chín. Nếu có nồi áp suất thì có thể nhanh hơn bình thường. Nếu nấu nồi thường thì 3 ngày 3 đêm có khi vẫn chưa mềm nhừ. Bí quyết là cho vào một chút dấm trong khi nấu. Như vậy sẽ giúp đậu nhanh nhừ hơn. Sở dĩ cần phải nấu nhừ vì nếu không thì ăn vào bụng sẽ rất cạng, gây đau bụng. (Có món bột đậu ăn liền mà chỉ cần đổ nước sôi vào khuấy mấy giây là húp. hưng thực ra ăn như vậy khó tiêu và dễ gây táo bón hoặc nóng trong. Khi đã xay thành bột thì cũng tiện lợi, nấu ít nhất 30' là xong nhưng cần khuấy luôn tay vì bột sẽ vón cục và bén đáy nồi gây cháy rất nhanh.)

Đậu hầm mềm, có thể ăn liền hoặc hạ thổ, rồi xay hoặc giã nhuyễn. Sau đó lại cho vào nồi cô đặc lại, rồi đổ vào lọ thủy tinh có nắp tốt. Đóng lọ khi đậu sôi nóng già, thì nhiệt độ làm cho lọ tự hút chân không. Các công đoạn chu toàn thì để lọ vào nơi khô mát, rất lâu sau có nguyên mùi vị.

Đậu hầm Tứ Đại này là đặc sản thượng hạng, chỉ có những ai đã một nắng hai sương mới trân trọng, thấu hiểu. Đất - Nước - Lửa - Gió đều đồng quy trong nó.

4. Cá độ Di Lặc

Di Lặc không độ Cá thì thôi! Sao Cá lại độ Di Lặc được?

Ấy là vì chưa ai nếm được "Từ Thị" - Lòng Từ trong con cá. Nó hy sinh, dâng hiến mạng sống mình cho tất cả bữa no, thì sao không thể nói nó đã "độ" - giúp cho ai đó chứ?!

Cá độ Di Lặc xuất phát từ sự quan phòng của Đấng Tạo Thành tất cả. Ngài sinh ra con cá để nó phải chết vì kẻ khác. Cá ăn vi sinh vật, thực vật dưới nước. Tùy từng loại cá, có loại ăn thịt, có loại ăn chay. Cá chép ăn chay, không ăn những con cá khác (tuy cũng ăn vi sinh vật). Nhiều loại cá ăn tôm tép, hoặc cá nhỏ hơn nó. Cá lớn nuốt cá bé là sự thật tuyệt đối ở biển.

Bắt một con cá bằng cách câu, thả lưới, ... Bắt được rồi thì mổ bụng, moi ruột bỏ đi, mang hay phổi cũng bỏ (cho vào vại làm phân bón cho vườn). Đánh vảy, rửa sạch, rồi bắt đầu chế biến. Nấu cá không nên dùng lửa lớn vì sẽ làm thịt nó dai, mất nước. Không nên rán ngập vì tốn nhiều dầu mỡ. Tốt nhất là hấp. 

Cần một cái chảo có nắp đậy. Cho vào một chút dầu hoặc mỡ. Cắt con cá làm đôi hoặc ba cho vừa chảo, khía cả hai mặt trên thân cá, rồi đặt vào chảo, rán qua hai mặt trong vòng 5' rồi nhấc ra, đổ hành củ và cà chua cắt nhỏ vào với một ít dầu nữa đảo đều 5', rồi lại cho cá vào đun đậy vung với lửa trung bình trong 10' nữa. Mở ra kiểm tra, khi thịt của con cá đã chuyển màu từ trong trong sang trắng đều, thì đã chín rồi.

Khi ăn không nên bỏ bất cứ một phần nào từ đầu đến vây và đuôi, vì con cá đã phải hiến cả mạng sống của nó mà không một lời oán trách. Ăn thật từ từ tránh hóc xương. Nhằn chiếc đầu thật kỹ, và ngẫm nghĩ về lòng từ bi của tất cả mọi sinh loài. Vì vậy món này gọi là Cá Độ Di Lặc.

5. Salad trộn Hồng Trần

Rau tươi các loại rửa 3 lần bằng nước Vô Ngã từ sông Sự Sống, lần thứ 4 rửa lại bằng nước đun sôi để nguội pha với chút dấm và muối. Công đoạn rửa sạch này rất quan trọng. Vớt ra cho ráo hẳn, rồi thái nhỏ đều. Gọt và cắt nhỏ một quả táo từ Cây Cấm - Hiểu Thiện Biết Ác trong vườn địa đàng. Thêm một quả bơ nữa. Để cả vào bát to Chánh Đạo. Xong!

Đến phần nước trộn salad (dressing). Salad ngon là ở nước trộn. Không có gì thì nước tương bần trộn vào đã là cực phẩm. Còn có điều kiện thì bày vẽ như sau:

- Dấm 1/4 cốc
- Mật ong hoặc mật mía 2 thìa
- Tỏi cô đơn 1 củ băm nhuyễn
- Muối 2 nhúm, Hạt Tiêu 1 nhúm
Trộn đều lên những thứ đó, rồi đong 1/4 cốc dầu oliu hoặc dầu lạc, dầu dừa,... đổ vào chung với bát dấm, khuấy thật đều cho đến khi hỗn hợp đặc sánh. Cho vào lọ cất nếu không dùng hết một lần.

Trộn khoảng 10 thìa hỗn hợp này với bát to rau kể trên. Ta có được Salad trộn Hồng Trần. Khi ăn có thể cảm nghiệm mọi Đắng Cay Chua Ngọt. Vị giác nên biết ơn Đấng Tạo Nên tất cả những điều ấy.

6. Âm Dương xào xả láng

Món này có mà không, không mà có. Sắc tức là không, không tức là sắc. Oẳn tà là vằn rắc khó hiểu vô cùng. Âm là Không, mà Dương là có. Một món mà vừa không, vừa có thì thật khó tả nguyên liệu cũng như cách chế biến. Món này ai đủ tuổi đạo, đủ tuổi đời mới nên ăn. Ăn nhiều cũng không tốt. Gây Âm Dương bất phân, Tâm Thần tán loạn, Khí Huyết tổn hao, Định Lực tiêu tán, Tẩu hỏa nhập ma, Bê tha bệ rạc, Uổng phí một đời. Món này có độc, vì thế không nên phổ biến ở đây.

7. Cháo Tịnh Độ dễ tiêu

Đối ngược với món Âm Dương xào ở trên rất khó tiêu, khó hiểu. Món Cháo Tịnh Độ rất đơn giản và dễ ăn. Đến trẻ nít, em bé cũng có thể tiêu hóa tốt. Món này có nguyên liệu chính là:

- Nước Vô Ngã từ Nguồn Sự Sống
- Ngũ ấm cốc loại: gạo đậu ngô khoai... nảy mầm càng tốt

Khi chế biến cũng rất đơn giản, chỉ cần nấu nhừ bằng nồi gang chắc chắn. Dùng Lửa Tam Muội tịnh hóa mọi tạp niệm trong nồi. Đun liu riu đậy nắp, thỉnh thoảng mở vung khuấy đều. Đun càng lâu thì cháo càng ngon. 12 tiếng là thời gian tối thiểu. Bởi thời gian dài cần sự kiên trì, nên còn gọi là Tịnh Độ.

Món này thích hợp cho cả người già lẫn trẻ nhỏ, người khỏe cũng như người bệnh, ai ăn cũng đều được lợi ích dài lâu.

8. Cơm Vĩnh Hằng nóng hổi

Cơm này không nấu bằng nồi cơm điện, mà nấu bằng nồi gang. Dùng củi nhóm bếp sao cho Lửa không quá lớn, cũng không quá nhỏ. Lửa sao cho cơm sôi cũng cùng lúc với ngọn lửa nhỏ dần đi, không thêm củi nữa. (Có câu tục ngữ: "Chồng giận thì vợ bớt lời, cơm sôi bớt lửa một đời không hư").

Khi ăn cơm này nên nhớ tới sự cam kết của Tình Yêu Vĩnh Hằng.

9. Canh Bát Nhã thường không

Bát Nhã là 8 thứ nhã nhặn trong lời nói như bát nước đầy.

“Nước đổ khó hốt, gương vỡ khó lành”. Mỗi lời nói ra cũng giống như bát nước hắt đi, thật khó lòng thu hồi về được nữa…

Thường không nói những việc sau:

1. Không nói những lời chán nản, thối chí

2. Không nói những lời tức giận

3. Không nói những lời oán trách

4. Không nói những lời tổn thương

5. Không nói những lời khoe khoang

6. Không nói những lời dối trá, thêu dệt 

7. Không nói những lời bí mật

8. Không nói những lời riêng tư


10. Món tráng miệng Nhân Quả

Món này không thể cưỡng cầu. Có Quả gì thì ăn quả nấy. Mùa nào thức ấy. Nhân nào Quả nấy. Khi ăn phải luôn nhớ mình sẽ gieo gì. Bởi nhân đã gieo là trùng trùng ra quả. Mỗi một quả lại là một nhân mới, cho cây Nhân Quả mãi mãi xanh đến tận ngày tàn tháng tận Hồng Trần.





Saturday, February 25, 2023

Hội Luận 3

Hội luận 3

Mây đang lơ đãng trên cao, bỗng vần vũ hỏi: "Đố các cậu, trên thế gian này con gì yếu nhất?

Cả lũ bàn tán xôn xao mà vẫn chưa ra được câu trả lời. Mây bèn đáp: "Con Người".

Mây thong thả nói:

Con người phải xây những ngôi nhà thật lớn để trú ngụ, vì sợ rằng đất trời sẽ không dung họ. Lại phải làm những thành lũy quân sự thật dày, vì sợ kẻ thù sẽ không tha họ. Con người phải khóc từ khi sinh ra tới lúc lìa đời, vì sự phản bội của tổ tông họ với Đấng Tạo Thành. Con người không có được thảnh thơi, dẫu có thì chỉ là thảnh thơi tạm thời, giả tạm. Sâu trong họ là những nỗi lo, những bất toàn, bất toại, và bất công hằng hiện. Bởi vì họ yếu đuối, chẳng thể từ bỏ tất cả, để tự do sống trong trời đất. Xã hội nhân loài không cho con người cái đặc quyền tự do "làm chủ" cuộc đời mình.

Con người rất thông minh và có thể nghĩ ra mọi thứ, nhưng không thể nghĩ ra một việc rất đơn giản là .......

Mưa sốt ruột, đợi mãi không nghe hết câu. Hỏi gấp: "Là việc gì vậy Mây? Nói nốt đi chứ!"

Mây cười trừ nói lảng: "Thôi, việc này là của con người, liên quan gì tới bọn mình đâu mà quan tâm cho mệt. Việc của bọn mình là làm mây, làm mưa, nào chúng ta cùng tiếp tục mây mưa mãi mãi. Kệ loài người, còn bao nhiêu loài khác chứ đâu phải chỉ mình loài người, quan tâm thiên vị họ làm gì. Chúng chúng sinh linh đều bình đẳng, đừng xoay quanh con người mãi thế."

Mưa không hài lòng: "Ai quan tâm gì đâu, tự nhiên đi đặt vấn đề thì cũng phải tự mình làm rõ chứ!"

Mây nhớ lại mọi thứ mình đã từng tận mắt trông thấy. Từng cảnh tượng anh em tương tàn, gia đình ly tán, những bãi chiến trường máu nhuộm loang lổ đất, những gươm giáo và súng đạn, những tiếng la hét rùng rợn và những tiếng cười vô nghĩa của những kẻ giàu sụ. Những đứa trẻ được dạy cách giết nhau và tự hào về lòng quả cảm đó. Những kẻ già đầu mà vẫn phải toan lo chiến cuộc, sống còn. Mọi nhân sự đã tham gia, phục vụ tất thảy những cuộc tranh chiến, cướp đoạt, sát hại... còn dã man hơn cả thú loài.

Mây nói nốt: "Họ không thể nghĩ ra một việc rất đơn giản là, họ không cần đấu tranh giết chóc đồng loại."

Mưa tí tách từng hạt: "Tưởng gì, điều đó thì xưa hơn trái đất rồi. Con người đông quá, thì họ nghĩ ra cách dùng vũ khí giết nhau bớt cho đỡ chật, đỡ tốn tài nguyên, lương thực ấy mà."

Mây lắc đầu: "Không phải! Không phải do chật chỗ, mà là do họ không biết cách chia sẻ, không biết phân bố và dàn đều dân số khắp địa cầu. Không biết tha thứ và làm hòa nhau. Không biết lá lành đùm lá rách, lá rách đùm lá rách hơn. Không biết cộng tác và kết hợp. Hoặc như có biết, nhưng quyền lực và sự ích kỷ đã làm lu mờ tất cả."

Mưa tấm tắc: "Hay! Nói hay lắm, nghe như Mây mà thành nhà cải cách xã hội thì thật ra trò."

Mây xua xua: "Thôi! Mây không muốn làm người! Mất tự do chết, mây với mưa không cần cải cách, xã hội tự có cách thay đổi. Chúng ta không thể áp đặt bất cứ điều gì dù là tốt đẹp. Bởi mọi sự áp đặt đều không là tốt đẹp."

Mưa bó tay: "Triết lý! Triết thuyết! Lý thuyết quá. Mây có nghe câu: Mọi lý thuyết chỉ là màu xám, còn cây đời mãi mãi xanh tươi"

Mây và mưa lại hòa làm một, nhập vào trời và đất, cho cây cỏ tốt tươi nhờ nguồn nước diệu kỳ. Không cần biết con người và những chiến tranh đau khổ của họ, hay những yếu đuối nao nào.

...

Có kẻ đầu óc đen tối mà nghĩ rằng mây và mưa là chuyện gì bậy bạ thì cũng chẳng sao. Cả đất trời này, thiếu gì hiểu lầm, hiểu lạc.

Mây và mưa, tình và ái lưu chuyển, kính cẩn hôn xuống mặt đất này nơi chúng thuộc về. Rơi xuống từng chiếc hôn công bình, bất kể thiện ác, bất kể giàu nghèo, bất kể cây cối hay loài vật.

Mây trở thành Mưa, rồi Mưa lại trở về làm Mây.

...

Là một thể thống nhất không cùng.






 


Friday, February 24, 2023

Hội Luận 2

Hội luận 2


Gió thở dài thoang thoảng, làm nắng cũng đìu hiu suy ngẫm:


“Động đến Phật thì ai cũng mặc định là chẳng có gì hay ngoài Thiền với Xả.


Động đến Chúa thì ai cũng mặc định là chả có gì hay ngoài Cứu và Chuộc. 


Động đến Thiên Sứ Muhammad thì ai cũng mặc định là chả có gì hay ngoài gái với gú, chém với giết.


Tôn giáo là sản phẩm của lối mòn định kiến, vậy mà không có nó thì nhân loại chẳng biết sẽ ra sao. Thương ghét ghét thương thân phận con người quá đỗi. 


Làm người với nhau cả, mà muốn sống yên lành nhiều khi cũng khó. Nhất là vùng Trung Đông khi xưa chả có gì ngoài gió và cát. Để sinh tồn phải ăn cướp, giết chóc nhau là bình thường ... Trẻ chết yểu, thanh niên chết sớm, đời du mục chẳng canh tác trồng chọt được gì, nước còn không có mà uống, phải tranh nhau từng cái giếng.


Đó là khi dầu mỏ chưa lên ngôi. Còn bây giờ khác lắm rồi... 


Nạn Đói hiện thời không còn là vật chất, mà là đói khát một sự Tử Tế, Đạo Đức, Tin Yêu tột cùng trong thiêng liêng vô kỷ. Khủng hoảng này là khủng hoảng muôn đời!”


Nắng than: “Lòng anh em ở đâu thì của cải anh em ở đó. 


Nếu chúng ta coi vật chất, xác thịt, tiền bạc, danh vọng, gái gú, dục tình ... là của cải chúng ta. Thì lòng chúng ta cũng chỉ ở đó mà thôi. Chúng ta không bao giờ chạm tới cái vô kỷ. Những kẻ chậm hiểu, nhanh lầm chẳng bao giờ ngừng si đắm những lối mòn chết chóc.”


Mưa phớt phơ vài hạt: “Nước mắt là giải pháp cho tội tình và đau khổ.”


Đất lắc lư: “Động đất là san bằng tất cả mọi hư vinh.”


Chó sủa: “Đất động ở Syria làm 48.000 người chết trong đống đổ nát rồi. Mấy chục ngày nay chưa bới hết xác ra. Họ hàng nhà chó bọn tớ cũng được huy động để kiếm tìm người còn sống. Có anh Dobermann khỏe nhất đã đào bới liền 3 ngày 3 đêm không ngủ và cứu được 40 người rồi. Anh đánh hơi giỏi và nghe ngóng tốt nên còn năng suất hơn cả chục người cứu hộ nữa. Anh ấy kiệt sức và phải ngủ một lúc rồi lại làm tiếp. Đất có động thì cứ ở quê là đỡ, chứ ai bảo họ toàn sống ở các thành phố, xi măng cốt thép nhà tầng đè bẹp người thì văn minh cái gì?


Mèo uyển chuyển nhẹ nhàng nói: “Văn minh ở cái chỗ đi ị không cần phải giấu kít.   Không phải quan tâm hay nhìn tới kít lần thứ hai. Không cần biết có kít thì xử lý ra sao, như thế nào, dùng để làm gì.”


Gà hắng giọng: “Tớ đã từng ở thành phố rồi, chả có văn minh gì đâu. Một con gà gáy thì con kia cũng phải tức nhau tiếng gáy mà gáy theo. Nhiều khi tớ gáy chỉ để được nghe đứa khác cũng gáy. Gáy cho đỡ buồn. Đua nhau mà gáy, xem ai khỏe hơn, gáy hay hơn. Ăn rồi chỉ việc quanh đi quẩn lại gáy trong chuồng.”


Vịt tròn mắt hỏi: “Gà có được ở nhà cao cửa rộng, lộng lẫy trang hoàng lắm không? Tớ thì chẳng thích mấy chỗ đó. Có sông có nước cho vịt tắm, vịt bơi là vịt thích nhất. Vịt chẳng màng thứ văn minh gì khác.”


Cò lớn đáp lời: “Cánh còn chẳng có chỗ sải nữa là.”


Cá thêm vào: “Cá bơi một dòng đông tắc thở. Hết cả oxy con nào con nấy lờ đờ cốt qua ngày đoạn tháng.”


Heo khẳng định: “Vậy nên phim con heo mới thịnh hành, từ người già đến trẻ nhỏ ai cũng xem. Làm phim và xem phim là cả một ngành nghệ thuật, công nghệ âm thanh ánh sáng mãn nhãn cả. Chẳng có thú gì hay thì thú heo, thú dục chứ sao nữa.”


Cú cự cãi: “Đừng vơ đũa cả nắm thế. Bao nhiêu ẩn sĩ, giác giả, ưu bà tắc, ưu bà di, Bồ Tát, hiền nhân, tuy ở thành thị mà tâm như đại Hải, trí như thiên Sơn. Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn đó. Dĩ nhiên, xã hội đa dạng, đa ngành mà. Thánh thiện, ô trọc đủ cả. Cái thú dục, thú tình thì chẳng đâu không có. Đến cả chư Thiên còn tha hoá tự tại.”


Bồ câu gật gù: “Ừ, bọn này cũng nghe danh Thiên Sứ Muhammad từ trời xuống, mà coi cũng nản lắm. Thiên Sứ gì mà gái gú như vẹm. Danh hiệu “Tiên tri” chẳng biết ai đặt cho hay ông ấy tự gọi. Rồi mấy người nổi tiếng như David với Solomon cũng rặt đa thê mà thực có ra gì đâu. Giết người cướp vợ người, làm vua làm chúa để rồi được cung được phụng, được gái được gú. Loài người coi vậy mà chẳng bằng con vật nhiều khi, như loài Bồ câu - cả đời chỉ một vợ một chồng, đến chết không rời. Đến cả giống Quạ đen hay Diều hâu chuyên ăn xác chết cũng thủy chung chỉ một trọn đời hôn phối. 


Họa hoằn lắm, biến động dân số, hoặc có nhiều con tự nhiên gay les - bê đê - đực rựa, thì mới phải điều tiết hôn sự. Một đực mấy cái - hay một cái mấy đực gì gì. Rồi bí quá thì, con cái đẻ ra cũng chẳng cần quan tâm ai là cha mẹ, anh em, giao phối không phân biệt. Thần thoại Hy Lạp có ghi  chi tiết điều này.”


Chim sâu quét mỏ: “Loài người được đặc ân của Thiên Chúa mà. Allah cho phép là được, Allah cho phép thì nói gì 10, có 100 hay 1000 cũng được tất. Cưới được cứ cưới! Tự cưới tự chịu. Mà thậm chí không cưới, cũng cứ tự do thoải mái quan hệ “ra vào” cho sung sướng thỏa mãn đôi bên. Như trong ngành nghề con heo đó. Cung Cầu song phương, có cung có cầu - có cầu có cung mà! 


Chim sâu như mình thì chỉ dám cầu một bạn đời thôi đã đủ rồi, cùng nhau làm tổ, thay phiên nhau ấp trứng, thay phiên nhau kiếm mồi cho con, thế là đã mệt phờ hết ngày rồi. Làm sao quan hệ hơn thế mà chim chu toàn được.”


...


Gió lặng thinh từ nãy, chợt cất giọng xa xăm: 


“Sự Sống là dòng chảy thực tại không ngừng. Sống đâu phải chỉ là để quan hệ vào ra. Nếu các bạn coi mục đích của sự sống này chỉ là như thế, thì thật uổng phí cuộc đời rồi. Sự sống này là chiêm nghiệm và chiêm ngưỡng.


Hãy chiêm ngưỡng cơn gió vô hình, vì chuyển động xê dịch của khí quyển mà sinh ra. Vì hơi thở của vạn hữu mà tồn tại. Vì bức bối của muôn loài mà đến, vì lợi gọi của nơi khác mà lại đi. Gió vô hình mà thổi bay vạn trạng. Không biết ai sinh ra Gió và cũng chẳng biết Gió sinh ra ai. Gió bí ẩn và chẳng thể nắm bắt, vô dục chẳng thể cưỡng cầu. 


Gió vừa là mạnh mẽ và dịu êm, bất phân âm dương giới tính. Gió không chân mà đi khắp chỗ, ở mọi nơi mà cũng chẳng ở nơi nào. Gió tự do tột cùng như thế. Gió chẳng chấp niệm và cũng chẳng để bất cứ ai chấp niệm về mình. Gió đến không hỏi, đi không báo. Có ai nghe lời của gió chất chứa mọi âm thanh, từ thủa không hình?


Gió vội vàng và thong thả, từ tốn mà lẹ mau. Gió là bạn của tất thảy, vỗ về tất thảy, chan hoà cùng vô hạn. Gió cũng điên cuồng và bão tố như thường, khi Gió tràn vận tốc. 


Gió là dòng khí không ngừng chuyển động, là hơi thở của Đấng Tạo Thành. Gió là kẻ đưa tin của Chân Lý, là hộ pháp của Vĩnh Hằng. Lòng không Gió sao thấy được chân tâm?


Chân tình của gió không là giáo điều, tín chấp. Lời răn của gió là vô sở. Kinh nghiệm của gió không là câu chữ, ngôn lời, thêm bớt, quá vãng hay tương lai, cao siêu hay phẩm vị. Không là sinh tử, tử sinh.


Gió vượt qua sinh tử, giải thoát sinh tử, mà vẫn luân hồi mãi mãi. Có ai chưa từng yêu một cơn gió vào lúc nóng nực?


Gió không nói bằng lời, mà bằng hành động. Gió không thuyết giảng mà luôn “thân giáo”. Ai có thể tạc tượng hay đóng đinh một cơn gió, quỳ lạy một cơn gió? 


Ai có thể lạy tất cả các cơn gió trong từng phút giây này? 


Lạ lùng thay là vị thầy không hình dạng. 


Thân, Khẩu, Ý đều vô ngã, vô biên.


Vừa là bạn, vừa là thầy của thực hữu. Các bạn có biết Gió bao nhiêu tuổi?”


Nắng khỏe khoắn tỏa rạng như đồng tình ủng hộ: 


“Nắng cũng như Gió!”


Thế là tất cả các bạn cùng nhau tưởng tượng mình hoá thành những cơn gió và bay đến mọi miền, đi khắp muôn nơi.


https://thangiao.com/2022/02/27/than-giao-1-tai-sao-noi-ai-cung-co-the-lam-thay/


https://m.giacngo.vn/nhung-bai-hoc-tu-than-giao-post1552.html