Ai lang y, ai tâm từ, ai vui cười hỉ hả?
Ai nhân lãng, ai hát dạo, ai tiêu dao mây gió?
Ai duyên quả, ai kinh qua, ai nhập cư thất nghiệp?
Ai đạo tràng, ai thiền viện, ai tu sĩ tại gia?
Ai tự yêu, ai ngã ái, ai khoe thân khoang phận?
Ai làm lụng, ai ngồi không, ai ngược xuôi gian tế?
Ai thiên ý, ai thi hành, ai làm ăn sinh lợi?
Ai quan lại, ai dân lành, ai lui về trồng trọt?
Ai bình an, ai đau khổ, ai hoang mang đợi chờ?
Ai nguyện cầu, ai dâng lễ, ai quăng tiền lượm phúc?
Ai mộ đạo, ai mê đường, ai lưng chừng dang dở?
Ai yêu si, ai chợt ngộ, ai dõng xuất địa tòng?
23.11.2020
Đối với những kẻ sống một đời nhiều kiếp, một kiếp nhiều đời như bè lũ xướng ca vô loài, giang hồ bạt mạng, phiêu tán muôn phương hành tẩu Đạo Tình, thì bẩm sinh sớm đã có chí kiên cường, mãnh liệt, gan góc, chuyên tâm.
Một Đời - Một Đạo - Một Tình!
Trọn Đời - Trọn Đạo - Trọn Tình!
Chẳng kể nhị nguyên đối ngẫu âm dương đêm ngày tối sáng chết sống gì hết.
Những kẻ ấy vốn yêu và được yêu Vĩnh Hằng bất diệt Chân Lý.
Những kẻ ấy kinh dị quỷ quyệt, quyết tuyệt đến nỗi quỷ phải khóc thét, ma phải chạy xa vái chào. Hay còn gọi là ma chê quỷ hờn.
Những kẻ ấy mà hiện nguyên hình thì ... thực sự không ai dám nhìn luôn. (Vì nhìn không nổi, biến hoá đa đoan dị thường)
Những kẻ biến dị lưỡng thể đa nhân cách, thái nhân cách, đột biến gen Hồng Trần đó, thực sự là bệnh hết thuốc chữa luôn rồi.
Bệnh này dai dẳng bất trị, tái đi tái lại, diễn hoá luân hồi. Lại còn là bệnh truyền nhiễm, lây lan chết người. Bất cứ ai giao tiếp gần xa, không sớm thì muộn đều phải chịu cảm nhiễm, thế nên muôn đời người ta vẫn “ghét” và “sợ” những kẻ mang mầm bệnh truyền nhiễm Chân Lý này.
***
Trải nghiệm phục sinh trong 7 giây:
chết - sống
Khi tôi chết, hãy để xương thịt tôi hòa cùng đồng cỏ hoang vu của mặt đất, các bộ phận nếu còn sử dụng được, xin cứ tận dụng. Còn linh hồn và ý thức, hãy để nó hòa tan, ngủ sâu một thời gian trong bóng đêm vô tận. Khi thức giấc, xin cho tôi đến nơi nào có vô số tình yêu và tự do tồn tại...
Thở ra trong 7 giây
.
.
.
.
.
.
Mở mắt: Hóa ra đây đúng là nơi ngươi từng muốn đến. Đúng là đây, nơi vô số tình yêu và tự do tồn tại. Nhìn xem, có phải vậy không ! Phải vậy không ?! Đâu xa nữa. Ở đâu xa !?
Ngươi đã về nhà. "Nhà" ! Có phải ngươi ở đâu, nơi đấy chính là nhà ?! Có phải không... Phải hay không? Ngôi nhà mà ngươi mong muốn trở về, chẳng phải vẫn luôn ở đây hay sao, chính nơi này, nơi vô số tình yêu và tự do tung cánh. Có phải không, ngươi đã quên? Như người cầm ngọn đuốc trên tay mà vẫn hớt hải chạy đi tìm ánh sáng... như người đang ở nhà mà vẫn đi lạc ...
Ngươi đã trở về!
Có ai nói cho ngươi hay, mọi thứ kia chính là phần tử của ngươi, người xa lạ không quen kia chính là máu thịt, hơi thở và tình yêu của ngươi. Người ngươi căm ghét kia lại chính là ngươi vậy. Người ngươi không biết mặt, lại chính là thầy, cha, và mẹ ngươi. Con vật, thực vật, hoa quả trong bụng ngươi lại chính là con cái và tổ tiên ngươi. Kỳ lạ làm sao? Mỗi tấc đất ngươi đứng là hồn ma và thiên thần của dĩ vãng và tương lai. "Thực tại, là mảnh đất không lối vào" ... Tâm trí ngươi cứ lăng xăng như nó muốn, tùy ý, chỉ cần nhớ, ngươi đã về nhà. Đừng buồn, đừng ngại, đừng cô đơn, bởi vì có thể ngươi không nhớ, ngươi từng quên: Nơi nào có những người thân yêu ở, nơi đó chính là nhà. Quanh ngươi, có gì không phải là thứ ngươi không thân yêu? Đừng buồn nữa... Thân yêu ! ...
Đừng căm ghét bất cứ một điều gì, vì đó chính là ngươi vậy.
"Thù ghét (hoặc căm ghét) là một thái cực cảm xúc của sự cực kỳ không thích ai hoặc cái gì. Cảm xúc này có thể hướng đến các cá nhân, các nhóm người, các tổ chức, các đối tượng, hành vi, hay ý tưởng nào đó."
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thù_ghét
Ngây ngất và trống không
Thỏa mãn và đòi hỏi
Kết thúc và khởi đầu
Trống không và thỏa mãn
Đòi hỏi và kết thúc
Khởi đầu và ngất ngây...
Mấy chữ? Hình như 6. Vòng lặp này có khác mấy so với vòng sống không ? Có khác gì vòng tình yêu, tình luyến, tình cảm, tình thân, tình thâm,... tình các loại tình trong thất tình lục dục cõi người? Chữ Tình trong tiếng Việt, ngôn ngữ không biến hình thật là Thần "Tình"
Tình là gì?
Chẳng qua cũng chỉ là vòng lặp lại dài miên man. Thế nào đó mà người ta vẫn thích ở trong vòng đấy, không thích ra ngoài. Nói thật là, ... trừ những bậc giệt trừ toàn bộ: Tâm, Ý, Thân trong khoảng "tạm thời" , còn lại đều không ai ra khỏi lưới Tình. Kể cả Phật, Thánh cũng không thoát ! Vẫn ở trong Tình Yêu rộng khắp mà.
Vậy đã đến lúc nên đặt câu hỏi:
Phải chăng Tình là bản chất, là cái tự nhiên, tự tính, tự sẵn tồn tại trong vũ trụ?
Có loại tình lớn, có loại tình nhỏ, nhưng về bản chất đều là sự mở rộng không giới hạn, luôn luân chuyển và nhân lên, dài ra mãi, không có kết thúc. Bản chất là không có kết thúc, chỉ có chuyển đổi, thay hình đổi dạng, biến thể khác nhau. Tình yêu, tình ghét, tình bạn, tình thương, tình người, tình mẫu tử, tình phụ tử, tình già, tình trẻ, tình hoài, tình đơn, tình đa ...
Tình có thể ghép với hàng loạt các sắc thái, các chữ để diễn đạt thế giới tâm thức, cảm xúc quy tụ trong sinh vật có ý thức. Một cái cây, đồ vật cũng hoàn toàn có tình (có nhận thức)
Vậy có gì không phải là Tình trên đời này? Tình ở khắp nơi, nhắm mắt cũng thấy, mở mắt cũng thấy. Ta chính là Tình.
Lý do ta sống? Cũng một chữ Tình.
*** bắt đầu yêu tiếng Việt sâu sắc! ***
Nhiều khi định nghĩa xã hội rất là khiến mình không hấp thụ được.
Ừm, đằng nào cũng không bận tâm nữa, điên hay không điên cũng không quan trọng nữa, dở hay không dở cũng không quan trọng, bình thường hay không bình thường cũng là vô ích rồi.
Có một sự thật đó là: bạn không thể giải thích cho một người chưa tiến hóa những thứ quá cấp tiến, họ sẽ cho là bạn khùng. Càng không như họ vẫn nghĩ, họ càng cho là thế "không bình thường".
Bình thường? Thế nào là bình thường? Thế nào là nên hay không nên? Trên đời quả thực chẳng có gì nên hay không nên. Với mỗi cảnh, mỗi hình, mỗi tâm là một cái phù hợp riêng biệt, tương đồng chỉ là hình thức. Nên hay không nên, nếu dùng cái nên của người này áp lên cái nên của người kia theo một cái "khuôn bình thường" thì quả là...
Thực ra là cái từ 'không bình thường' này xưa thấy rất không thích, bởi vì với mình, mình thấy cái gì cũng là 'rất bình thường', rất rất rất ... bình thường. Thế quái nào mà họ cứ nghĩ có một cái gì là 'không bình thường'. Không phải cái gì cũng là "bình thường" mà không tầm thường hay sao.
Đằng sau đều là cả những câu chuyện và nguyên do dài. Chẳng thể hiểu được họ khinh khi, thắc mắc cái gì, phán đoán, suy xét cái gì? Mọi cái bị làm cho đau khổ theo dây truyền một cách không cần thiết.
Không có một cái gì tầm thường, vô nghĩa hết. ! #_# Càng nói càng thấy lời nói không diễn tả được, chỉ có trái tim... Lời nói ngày càng cấp thấp vì nó khiến người ta chấp chặt, cố định vào ngôn từ câu chữ.
Mình lắm lời quá... -_-
Mọi định nghĩa, cách nói đối với những người "không bình thường" như mình đều là vô ích. Tốt nhất là mình không cố giải thích, vì càng giải thích càng làm nước chè đặc lại, còn mình có thể bị rát cổ, down tinh thần. Tốt nhất là, cứ "không bình thường" nếu như thế là bản chất. Gò ép chỉ khiến méo mó, đau khổ.
Hãy tôn trọng chính mình, đừng vì điều gì mà tự sát cái con người thật bên trong đó. Mọi định nghĩa đúng/sai, phải/trái, có nghĩa/vô nghĩa, tốt/không tốt, đẹp/không đẹp,... đều chỉ là "Retarded". Không có gì đáng nhạo với những người retarded, chỉ là mình đã đi qua chỗ đó, đợi họ cũng đi qua thôi, ta thay vì bức xúc, bực bội trong lòng, nên thấy đồng cảm với hoan hỉ, tâm không nóng vội.
Tự thích nghi bản thân để đạt được mục đích của mình, chớ phiền não mà tự hại tự thiệt. Kỳ thực, không ai có thể giúp và quan tâm bạn hơn chính bạn cả. Hãy mạnh mẽ. Yếu đuối lớn nhất của đời người là không sống thật bản thân mình ! Dối trá lớn nhất là dối trá với bản thân.
Đừng sợ đơn độc. Đừng mất bình tĩnh. Đừng sốt ruột, lộn ruột. Kiểm soát cảm xúc tiêu cực bên trong đi. Calm down and breath. Kiên nhẫn chút. Mình ở đây là để học bài học kiên nhẫn. Từ bé đến lớn kiếp này đều có bài học liên miên để thử thách lòng kiên nhẫn. Kiên nhẫn đi. Ngươi tưởng ngươi đã hoàn thành bài học tức giận sao? Trong bụng còn đầy một ổ bực bội như thế, dẹp nó đi.
https://mch.moh.gov.vn/pages/news/17238/Cach-phat-hien-va-ngan-ngua-long-ruot-o-tre.html
Bậc giệt trừ là thế nào, trong khi tức giận vô cớ một cái hiển nhiên, sự không như ý muốn của ngươi là hiển nhiên, ấy là thần tình thiêng liêng, sao ngươi dám tức? Tức là cái đáng loại trừ nhất. Tức là Đau.
Thông bất thống. Ngươi là bậc giệt trừ, kể cả tức bản thân cũng không được tức, nghe chưa!?
Bài học lần này của ngươi là ở trong sự không được toại ý, vì ý muốn và ý chí của người đã từng quá mạnh, quá lấn át đi mọi điều khác. Lần này ngươi phải rút kinh nghiệm, không được bất chấp tất cả, không được kiêu ngạo nữa.
Như vậy, ngươi phải học cách chung sống hợp lý với cái ý muốn của mình. Vì mọi ý muốn thuộc về cá thể, đều ít hay nhiều làm ảnh hưởng đến môi trường xung quanh một cách chủ quan, ép buộc. Đã là ép buộc thì luôn có bạo lực.
Hiểu vì sao mi sinh trong nơi bạo lực chưa? Chính mi đã bạo lực đó chứ! Mi ngày nào còn có ý muốn, ngày đó phải học cách hài hòa nó, kiên nhẫn chờ đợi, kiên trì, mài rũa nó sáng lên. Nghe chưa! Không vô cớ đâu. Ngươi đang làm rất tốt, tiếp tục rèn luyện đi.
Feb 10, 2016
***
“Có một diễn biến nổi tiếng trong cuộc đời của Socrates là giáo huấn mà ông nhận được khi còn trẻ do Diotima, nữ đạo sư ở đền Delphi giảng dạy về Chiếc thang Tình ái. Bà giải thích cho ông biết rằng muốn khám phá ra Tự tại Tối hậu vốn là Chân Thiện Mỹ Tuyệt đối thì người ta cần phải yêu thương. Bà dạy Socrates rằng cá thể trước hết phải yêu thương một người và chỉ một mà thôi với một ý thức hoàn toàn hiến dâng. Một đặc trưng của tình yêu thương này ắt là chủ thể yêu thương phải tạo ra những đối tượng đẹp đẽ của tư tưởng, lời nói và hành động vốn là kết quả của năng lực yêu thương mà y đã phát triển được. Thế rồi Diotima nói tiếp rằng, mặc dù tình yêu bắt đầu bằng việc yêu vẻ đẹp bên ngoài của đối tượng được yêu thương nhưng sẽ đến lúc chủ thể yêu thương ắt yêu thương một đối tượng yêu thương mà dáng vẻ bên ngoài tuyệt nhiên không có phẩm tính đẹp đẽ. Nhưng y sẽ tiếp tục yêu thương rộng lớn để tạo ra những tặng vật tốt đẹp ban cho thế gian.
Thế rồi giống như việc leo lên cầu thang, Diotima giải thích rằng khám phá kế tiếp ắt là: Nếu chủ thể yêu thương thấy đối tượng được yêu thương có điều gì dễ thương thì chủ thể yêu thương ắt phải nhận thấy phẩm tính dễ thương ấy cũng có nơi những người khác, và vì vậy ắt cũng bắt đầu yêu thương những người khác nữa. Diotima dạy rằng tiếp tục leo lên Chiếc thang Tình ái, tiếp đó chủ thể yêu thương sẽ bắt đầu yêu thương vẻ đẹp của Khoa học và Luật lệ, và rốt cuộc ở đầu mút cuối của Chiếc thang chủ thể yêu thương ắt giáp mặt với Vẻ đẹp Tuyệt đối vốn đã từng là nguyên thể dẫn dắt mọi trải nghiệm lâu bền của y về tình thương yêu.
Ta không thể mô tả Vẻ đẹp Tuyệt đối này bằng bất cứ thuật ngữ nào trong trải nghiệm của loài người hoặc dùng bất cứ ví dụ tương tự nào mô tả cho bất cứ sinh linh hoặc sự vật nào đang có trên trần thế. Nhưng chủ thể yêu thương biết rằng chính nguyên thể Vẻ đẹp Tuyệt đối này lúc nào cũng đang dẫn dắt mình leo lên Chiếc thang Tình ái để cuối cùng đạt tới mức thành tựu là phát hiện được Vẻ đẹp Tuyệt đối. Khỏi cần phải nói rằng nhìn thấy Vẻ đẹp Tuyệt đối ‘tận mắt’ có thể nói là hiệp nhất với sự Bất tử và vì vậy mọi ý thức về sự chết đều biến mất khỏi cuộc đời của chủ thể yêu thương.
Từ ngữ ‘yêu thương’ có rất nhiều nghĩa. Khi đấng Christ bảo rằng Điều răn Đầu tiên là hãy yêu thương Thượng Đế thì Ngài có nói thêm Điều răn thứ Nhì cũng giống như vậy, ‘Con hãy yêu thương đồng loại của mình như chính bản thân mình’. Hiển nhiên là ta không thể ‘yêu thương’ người lân cận với cùng một cường độ tận tụy và xả thân như một bà mẹ yêu thương con mình hoặc chủ thể yêu thương yêu thương đối tượng được yêu thương của mình. Trong lời nói của đấng Giê su Ki Tô, từ ngữ ‘yêu thương’ có nhiều ý nghĩa hơn hẳn so với lòng Từ thiện toàn bích vốn chẳng bao giờ phạm phải sự bất công nào đối với người lân cận và ắt chia xẻ với y bất cứ điều gì tốt đẹp mà mình đã phát hiện ra được.
Có một loại tình yêu quả thật rất hi hữu, tuy nhiên nó đã diễn ra đối với một vài người nam hoặc nữ. Điều này là khi đối tượng được yêu thương được coi là một linh ảnh về Đấng Thiêng liêng, là con đường dẫn tới Thượng Đế. Vậy là ta có câu chuyện tuyệt vời về tình yêu của Dante đối với Beatrice. Vào cuối tác phẩm Cuộc sống mới của mình (Vita Nuova) qua một trong nhiều bài thơ, ông có nói tới Mona Bice, vốn là phu nhân Beatrice. Khi kết luận tác phẩm Cuộc sống mới Dante có viết rằng: ‘Nếu đời tôi mà tiếp tục thêm được vài năm nữa thì tôi hi vọng sẽ nói với nàng cái điều mà tôi chưa bao giờ nói với bất cứ người phụ nữ nào khác’. Phần cuối cùng trong tác phẩm Hài kịch Thiêng liêng tức phần Thiên đường vốn không tách rời khỏi sinh hoạt trên cõi trời của Beatrice.
Trong sáng tác vĩ đại của Dante là vở Hài kịch Thiêng liêng có hai cá thể dẫn dắt ông đi hành hương. Thông qua tác phẩm Luyện ngục thi sĩ Virgil đã đi đến chỗ gặp được Dante, ông bảo rằng được một thông điệp của một phu nhân ở trên cõi trời biệt phái ông dẫn dắt Dante trong cuộc du hành xuống âm phủ. Virgil là biểu tượng minh triết toàn bích nơi con người. Nhưng có lúc trong cuộc hành hương của Dante khi ông chuyển từ Luyện ngục sang Thiên đường thì có một nhân vật thứ nhì xuất hiện để dẫn dắt ông. Đó chính là người yêu Beatrice của ông vốn là biểu tượng của Minh triết Thiêng liêng. Chính bà dẫn dắt ông từ cõi trời này sang cõi trời khác. Một khi ông đã hoàn toàn đắm chìm vào vẻ đẹp tuyệt vời của Beatrice thì ông ở trong trạng thái ngây ngất. Chính lúc bấy giờ bằng một ‘nụ cười hớp hồn’ bà ngỏ lời với ông bằng những lời lẽ âu yếm: ‘Chàng hãy quay lại lắng nghe, vì Thiên đường không chỉ ở trong đôi mắt của thiếp’. Thật vậy chỉ khi ông chăm chú theo dõi tầm nhìn của Beatrice thì ông mới phát hiện ra rằng mình đã chuyển từ một cõi trời này sang một cõi trời khác kế tiếp cao hơn.
Trong huyền thoại Ba Tư, ta cũng thấy cái cường độ yêu thương ấy của một chủ thể yêu thương đối với một đối tượng được yêu thương khi người phụ nữ Zuleykā nói với người yêu của mình là Yusūf:
‘Thiếp sẽ cuộn tròn tấm thảm sự sống khi thiếp nhìn thấy
Gương mặt thân yêu của chàng một lần nữa và thiếp ắt không còn hiện hữu;
Vì trong sự ngây ngất ấy bản ngã và mọi thứ đều bị mất đi
Những sợi tơ hồng trong tư tưởng của thiếp ắt vuột khỏi tay thiếp;
Chàng ắt là linh hồn của thiếp để thay thế cho linh hồn của chính thiếp;
Mọi tư tưởng về Bản ngã đều bị quét sạch khỏi tâm trí thiếp,
Và ắt chỉ thấy chàng thay thế cho thiếp;
Quí giá hơn cả cõi trời, thân thương hơn cả trần thế,
Bản thân thiếp cũng bị quên đi nếu chàng ở gần bên thiếp’.
Tình yêu của người nữ tu Heloise đối với nam tu sĩ Abelard là chồng của mình cũng được giải bày tương tự:
‘Tâm hồn của em không còn thuộc về em nữa mà thuộc về chàng. Nhưng giờ đây, hơn bao giờ hết, nếu nó không ở cùng chàng thì nó chẳng ở đâu hết. Đó là vì nếu không có chàng thì nó không thể tồn tại ở bất cứ nơi đâu.
Xét về vấn đề hai linh hồn hoàn toàn tận tụy với nhau trong tình yêu qua tinh thần hi sinh, ta có một phát biểu rất đáng chú ý vào năm 1875 của vị Chơn sư thuộc Chi bộ Ai Cập trong Quần Tiên Hội, ngài ký tên là ‘Chơn sư Serapis’.
‘Hỡi huynh đệ, nên biết rằng ở đâu có một tình thương tâm linh chân chính tìm cách tự củng cố để tăng lên gấp đôi qua sự hiệp nhất thuần túy, thường tồn của cả hai, theo ý nghĩa trần tục thì dưới mắt Ain Soph vĩ đại; điều này không phạm phải tội lỗi nào hoặc tội ác nào vì đó chẳng qua chỉ là sự lặp lại thiêng liêng các Nguyên thể Âm và Dương vốn là sự phản chiếu xuống tiểu vũ trụ của tình huống ban sơ trong Cơ sáng tạo. Các Thiên thần có thể mỉm cười trước sự hiệp nhất ấy ! Nhưng huynh đệ ơi, chuyện đó rất hiếm có và chỉ có thể được sáng tạo ra căn cứ trên sự giám sát minh triết và yêu thương của Quần Tiên Hội để cho những đứa con trai và con gái bằng đất sét không thể bị bại hoại hoàn toàn và lặp lại được Tình yêu Thiêng liêng của những Cư dân Cõi cao (Thiên thần) đối với các con cái của Adam. Nhưng ngay cả như vậy cũng phải chịu nhiều đau khổ trước khi được tưởng thưởng. Atma của con người có thể vẫn còn thanh khiết và đạt mức tâm linh cao siêu trong khi nó hiệp nhất với xác thịt vật chất; tại sao hai linh hồn trong hai thể xác lại không thể vẫn còn trong sạch và không ô nhiễm bất cứ sự hiệp nhất phù du trần tục của hai thể xác nêu trên.
Ta ắt để ý thấy rằng Chơn sư không nói tới hai người yêu nhau bình thường cho dù họ có tận tụy với nhau đến đâu đi nữa, mà nói tới hai người được đặc trưng bởi ‘một tình yêu tâm linh đích thực’.
Khi ta có hai Linh hồn như thế thì một hành vi đặc biệt của Quần Tiên Hội có thể diễn ra khiến cho hai Linh hồn này ‘tuy hai mà một’. Nhưng tác động đặc bệt này chỉ có mục đích để cho cả hai có thể trở thành một kênh dẫn lớn hơn đối với các thần lực từ bên trên. Nếu mỗi một người được biểu thị bằng con số một, thì trong trường hợp bình thường, hai người tận tụy với nhau có thể được biểu thị là 1+1=2. Nhưng khi diễn ra tác động đặc biệt của các Chơn sư thì không còn là 1+1=2 nữa mà là 22 , nghĩa là 2x2=4. Nói cách khác, kênh dẫn để cho thần lực từ trên cao tuôn đổ xuống không phải là hai kênh dẫn, mỗi kênh có trị số bằng 1, mà là một kênh dẫn lớn hiệp nhất có trị số bằng 4.
Hơn nữa, khi hai Linh hồn tận hiến cho Công trình Vĩ đại mà do Tình yêu Thương lẫn nhau càng ngày càng tăng, càng ngày càng phát hiện thêm Ánh sáng Ẩn tàng, thì cứ mỗi kiếp sống trôi qua, phẩm tình của chúng dưới một kênh dẫn hiệp nhất cho Công trình và Ánh sáng ấy lại tăng theo cấp số nhân. Trong khi kiếp đầu tiên bắt đầu là 4, thì kiếp kế tiếp là 2x4=8, kiếp sau nữa là 2x2x2x2=16, v.v. . . với vẻ huy hoàng và hữu ích càng ngày càng tăng.
Nhưng Chơn sư có bảo rằng trong khi sự hiệp nhất này ‘chỉ có thể được sáng tạo ra qua sự giám sát minh triết và yêu thương của Quần Tiên Hội’ thì ‘ngay cả được như thế cũng phải chịu nhiều đau khổ trước khi được tưởng thưởng’. Tại sao lại phải chịu đau khổ vốn là yếu tố không thể tránh khỏi trong cái qui trình hiệp nhất cấp cao này? Tôi chỉ có thể gợi ý lời giải đáp qua một ví dụ tương tự. Ngày nay, các chuyến bay đều vượt qua những khoảng cách dài và lúc nào người phi công cũng phải mặc đồng phục ngay cả trong một vài ngày khi y chờ đợi ở nơi đến trước cuộc hành trình trở về. Y ắt chỉ mang theo hành lý tối thiểu thôi, thậm chí có lẽ chỉ mang theo quần áo lót. Việc vứt bỏ các túi xách, rương v.v. . . thường thường thì là chuyện cần thiết vì điều kiện của chuyến bay. Cũng giống như vậy, hai Linh hồn đã cam kết tận hiến cho Công trình Vĩ đại ắt phải giải thoát khỏi nhiều loại hình Nghiệp quả vốn ngăn cản họ phục vụ hữu hiệu cho Công trình Vĩ đại. Việc ‘trả quả’ này tất nhiên gây nhiều đau khổ sắc sảo, có lẽ trải dài qua nhiều năm. Nhưng khi thảm kịch hành hình trên ‘thập tự giá’ này đã qua rồi đối với mỗi người trong kiếp đó thì tác động của Quần Tiên Hội mới có thể diễn ra được. Từ lúc đó trở đi, hai Linh hồn ‘tuy hai mà một’.
Có một sự kiện thú vị là từ lúc hai Linh hồn trở nên ‘tuy hai mà một’ do tác động của các Chơn sư thì nghiệp quả của họ hòa lẫn vào nhau. Điều này dường như thể hai Nghiệp quả ấy là hai bình thông nhau bằng một ống chung. Nếu mức nước ở bình này dâng lên thì mức nước ở bình kia cũng dâng theo cho đến khi cả hai mức nước ngang nhau. Nếu mức nước ở một bình này giảm đi thì sự bình đẳng hóa tương tự cũng xảy ra như thế. Đau khổ của người này đồng thời được người kia chia xẻ; cũng vậy niềm vui của người này góp thêm vào niềm vui của người khác. Thế là xuyên suốt qua bao nhiêu thời đại, cả hai đề huề sánh bước bên nhau.
Chiếc thang của Tình yêu cao cả và toàn bích không phải là Chiếc thang duy nhất mà các Linh hồn có thể theo đó bước lên Cõi giới Bất tử. Còn có những phương tiện đáp ứng khác nữa. Một phương tiện như vậy là đáp ứng với thông điệp do Thiên nhiên ban ra. Nhà thơ nước Anh, Wordsworth cảm nhận được thông điệp này một cách sâu sắc nhất. Ông cần phải cô đơn để trải nghiệm vĩ đại như vậy mà ông đã miêu tả qua những lời lẽ sau đây:
. . . ‘Cái tâm trạng được ban phước ấy,
Trong đó gánh nặng của điều bí nhiệm,
Trong đó sức nặng gây mệt mỏi
Của toàn thể cái thế giới chẳng ai hiểu nổi này,
Được giảm nhẹ đi; cái tâm trạng thanh thản được ban phước ấy,
Trong đó tình luyến ái âu yếm dắt ta đi,
Cho đến khi hơi thở của cái bộ khung xác thịt này,
Và ngay cả chuyển động của dòng máu con người,
Hầu như tạm ngưng lại và ta đang thiu thiu
Trong cơ thể để biến thành một linh hồn sống động;
Trong khi con mắt của ta đâm ra tịch lặng do quyền năng của sự hài hòa và công năng sâu kín của hoan hỉ, Mà ta nhìn xuyên suốt được sinh hoạt của vạn vật’.
Ông đã mô tả rất minh bạch về cái trải nghiệm: ‘Chúng ta thiu thiu trong xác thịt để biến thành một linh hồn sống động, vào cái lúc mà ông biết thốt lên được thế nào là Bất tử, mặc dù ông khó lòng thực chứng được nó theo cái nghĩa mà tôi đang sử dụng hiện nay về ‘sự Bất tử ’.
Còn có những phương thức thực nghiệm khác nữa. Mỗi Linh hồn có con đường riêng của mình dẫn tới Đỉnh cao nhất. Một số Linh hồn hưởng ứng với thông điệp của Thiên nhiên khi nó xuất phát từ một rặng núi hùng vĩ; Linh hồn khác lại đáp ứng với thông điệp xuất phát từ biển cả; Linh hồn khác lại đáp ứng với thông điệp xuất phát từ núi đồi, thung lũng hoặc hồ nước; có Linh hồn lại thấy nó trong một đóa hoa đẹp tuyệt vời như hoa sen hoặc hoa hồng; nhưng nếu ta có một tâm trạng đáp ứng đúng đắn thì thông điệp về Bất tử ấy cũng có thể tìm được nơi đóa hoa dại nhỏ nhất trên cánh đồng.
Cũng vậy, một số người đáp ứng thông điệp của âm nhạc. Ắt có một vài khoảnh khắc đáp ứng cao hứng khi thính giả quả thực ‘ngủ thiu thiu trong thể xác để biến thành một linh hồn sống động’. Không thể trải nghiệm điều này trong những phòng hòa nhạc thời nay vì ngay sau khi buổi trình diễn âm nhạc kết thúc thì người ta vỗ tay hoan hô nhặn xị lên làm cắt đứt hoàn toàn tâm trạng cao hứng ấy. Nhưng tôi đã nghe ở Luân Đôn trong phòng riêng của mình các loại âm nhạc vĩ đại mà dàn nhạc của đài BBC Luân Đôn trình diễn. Dĩ nhiên ngay sau khi buổi trình diễn âm nhạc kết thúc, tôi phải đứng phắc lên và tắt radio để cho tâm trạng cao hứng của tôi không bị khựng lại vì tiếng vỗ tay dễ sợ. Nhưng vào lúc kết thúc một bản sonate trình diễn bằng vĩ cầm nào đấy, khi nhạc sĩ vĩ cầm kết thúc bằng một nốt nhạc nào đó tắt dần đi thì tôi đã cảm nhận được mình tiếp xúc với sự Bất tử.
Tất cả ai lắng nghe khúc dạo đầu tác phẩm Lohengrin của Wagner cũng đều có được ý thức về tính Bất tử ấy trong một chừng mực nào đó. Tác phẩm này miêu tả Chén Thánh khi nó còn ở trên Trời mà các thiên thần sùng bái vây quanh, họ từ từ đưa nó xuống trần thế để rồi lại thu hồi nó. Trong khúc dạo đầu mô tả Chén Thánh trên Trời, nhạc sĩ vĩ cầm chơi đàn rất nhuyễn với một nốt nhạc rất cao và tiếp tục trong mấy chục nhịp. Các nhạc cụ khác cũng dần dần gia nhập vào đội ngũ vĩ cầm, mọi thứ đều rất tinh vi để bộc lộ qua âm nhạc việc Chén Thánh từ từ giáng xuống. Rồi tới lúc Chén Thánh giáng trần do các thiên thần mang giữ và toàn thể dàn nhạc họp nhau lại vang khúc khải hoàn qua âm lượng tưng bừng của âm thanh nối tiếp trong một thời gian. Âm lượng lớn này từ từ giảm bớt khi các thiên thần trở về Trời mang theo Chén Thánh và cuối cùng giống như khúc dạo đầu, âm nhạc xuất phát từ đàn vĩ cầm với một nốt nhạc cao từ từ tắt dần.
Thật kỳ diệu khi đôi lúc trong âm nhạc việc cuối cùng thực chứng được thông điệp vĩ đại do âm nhạc chuyển tải lại có thể được trải nghiệm từ chỉ một cú vỗ lên trống cơm. Có một ví dụ trong tác phẩm Vành đai Nibelungen của Wagner, trong đó khi âm nhạc từ từ kết thúc thì có một cú gõ nhẹ cuối cùng trên trống giống như chìa khóa mở toang cánh cửa bí nhiệm.
Chúng ta quả thật có trải nghiệm những khoảnh khắc thực chứng đứt quãng. Điều này dường như thể khi ta leo lên tới đỉnh một ngọn núi rồi từ đó nhìn ra ngoài thấy một viễn cảnh vĩ đại. Nhưng sau đó chúng ta lại xuống thung lũng. Carlyle đã từng một lần miêu tả tác dụng của âm nhạc như sau: ‘Âm nhạc là một thứ ngôn ngữ khôn dò, không thốt nên lời, nó đưa ta tới tận biên giới của điều vô hạn, rồi để cho ta nhìn đăm đăm vào đó trong một lúc’. Tương tự như vậy, tùy theo tính khí của mỗi người mà ai ai cũng có những tia chớp lóe thoáng thấy điều vượt ngoài tầm sự sống phù du và ở tận cõi Bất tử.
Vấn đề là liệu có thể nào thực chứng được tính Bất tử, tức sinh hoạt trong cõi Phi Thời gian, lúc nào cũng vậy mà không bị ngắt quãng chăng? Điều này cần có một loại hình Yoga mới mẻ và cao cấp. Tôi chỉ có thể miêu tả nó bằng một ví dụ tương tự. Trước hết ta thật sai lầm khi nghĩ rằng quá khứ là quá khứ. Trong cụm từ ‘Hiện tại Vĩnh hằng’ có một sự thật tuyệt vời. Ta có thể khiến cho quá khứ cũng sống động như hiện tại, miễn là ta biết được phương tiện thiện xảo. Yếu tố trước hết là ta phải nhớ kỹ điều mà mình trải nghiệm khi ở trên đỉnh núi, thế rồi sống trở lại với cường độ trải nghiệm của mình cho dẫu một điều gì đó trong cường độ ấy đã phai mờ đi trong ý thức của ta. Thế rồi mọi khoảnh khắc cao độ ấy – không chỉ là trên Chiếc thang Tình ái mà còn trên mọi Chiếc thang khác nữa – đều phải được sống trở lại. Có thể nói ta phải khiến cho mỗi trải nghiệm trong quá khứ giống như một chuỗi ngọc trai được xuyên xỏ trên một sợi dây bằng bạc (ở Ấn Độ là một chuỗi hạt gồm 108 hạt) và biến chuỗi ấy thành một tràng hạt.
Khi sùng tín tay cầm tràng hạt, cứ mỗi một bài cầu nguyện ngắn lặp đi lặp lại thì lần một hạt. Người ta làm như vậy hết tiếng đồng hồ này sang tiếng đồng hồ khác, ngoại trừ thời gian cầu nguyện chính thức lâu dài hơn. Tương tự như vậy, ta phải biến những khoảnh khắc cao hứng trong quá khứ thành một tràng hạt sao cho khi ta sống trở lại những khoảnh khắc ấy một lần nữa thì toàn thể quá khứ trở thành một Hiện tại sống động đối với ta. Mỗi khoảnh khắc quá khứ khi ta ở trên đỉnh núi rồi nhìn về xa xăm thấy một linh ảnh thật sự ngụ ý ta đang nhất thời sinh hoạt hiệp thông với sự Bất tử. Do đó, khi ta rèn luyện mình bằng tràng hạt thì Thời gian không còn yếu tố chết chóc nữa, bởi vì ta luôn luôn sống trong Phi Thời gian vốn hiệp nhất với tính Bất tử.
Nếu theo luận đề của tôi và của Socrates, người ta có thể ngày nào trong cuộc đời mình cũng ý thức được tính Bất tử và vì mọi kiếp sống đều là một nhà tù cho nên người ta có thể thắc mắc, Tại sao không tự tử để ra khỏi nhà tù ấy?”
No comments:
Post a Comment