https://vtv.vn/xa-hoi/be-gai-bi-cha-duong-xam-hai-nhieu-lan-dan-den-mang-thai-20210619150914863.htm
https://vietnamnet.vn/be-gai-bi-cha-duong-xam-hai-nhieu-lan-den-mang-thai-747219.html
https://danviet.vn/dang-long-be-gai-bi-cha-duong-xam-hai-tinh-duc-den-lu-lan-7777415942.htm
https://vnexpress.net/doi-bat-hanh-cua-co-gai-bi-cha-duong-bat-coc-4489238.html
Như Ý 9 tuổi
CHÁNH VĂN:
5.- Bấy giờ ở Hạ phương vị Bồ-tát theo hầu đức Đa Bảo Như Lai tên là Trí Tích bạch với đức Đa Bảo Phật nên trở về bổn quốc, đức Thích-ca Mâu-ni Phật bảo Trí Tích rằng:
- Thiện nam tử! Chờ giây lát, cõi đây có Bồ-tát tên Văn-thù-sư-lợi có thể cùng ra mắt nhau luận nói pháp mầu rồi sẽ về bổn độ.
Lúc đó, ngài Văn-thù-sư-lợi ngồi hoa sen nghìn cánh lớn như bánh xe, các vị Bồ-tát cùng theo cũng ngồi hoa sen báu, từ nơi cung rồng Ta-kiệt-la trong biển lớn tự nhiên vọt lên trụ trong hư không, đến núi Linh Thứu, từ trên hoa sen bước xuống đến chỗ Phật, đầu mặt kính lạy chân hai đức Phật, làm lễ xong, qua chỗ Trí Tích cùng hỏi thăm nhau rồi ngồi một phía.
Ngài Trí Tích Bồ-tát hỏi ngài Văn-thù-sư-lợi rằng:
- Ngài qua cung rồng hóa độ chúng sanh số được bao nhiêu?
Ngài Văn-thù-sư-lợi nói:
- Số đó vô lượng không thể tính kể, chẳng phải miệng nói được, chẳng phải tâm lường được, chờ chừng giây lát sẽ tự chứng biết.
Ngài Văn-thù nói chưa dứt lời, liền có vô số Bồ-tát ngồi hoa sen báu từ biển vọt lên đến núi Linh Thứu trụ giữa hư không. Các vị Bồ-tát này đều là của ngài Văn-thù-sư-lợi hóa độ, đủ hạnh Bồ-tát đều chung luận nói Sáu pháp ba-la-mật. Những vị mà trước kia là Thanh văn ở giữa hư không nói hạnh Thanh văn nay đều tu hành “nghĩa không” của Đại thừa.
Ngài Văn-thù-sư-lợi nói với ngài Trí Tích rằng:
- Tôi giáo hóa ở nơi biển việc đó như thế.
Lúc ấy, ngài Trí Tích Bồ-tát nói kệ khen rằng:
Đại Trí đức mạnh mẽ
Hóa độ vô lượng chúng
Nay trong hội lớn này
Và tôi đều đã thấy
Diễn nói nghĩa thiệt tướng
Mở bày pháp Nhứt thừa
Rộng độ các chúng sanh
Khiến mau thành Bồ-đề.
GIẢNG:
Bồ-tát Thị giả của Phật Đa Bảo ở phương dưới tên là Trí Tích. Tích là dấu vết, là chứa nhóm, Trí Tích là trí hiểu biết do huân tập, nên còn kẹt còn vướng mắc. Trí này còn phân biệt còn vướng mắc, thuộc về Hữu sư trí, nên không thể tin nhận Tri kiến Phật. Vì vậy mà ở đây biểu trưng bằng hình ảnh Bồ-tát Trí Tích ở Hạ phương đòi trở về bản quốc. Bồ-tát Văn-thù tiêu biểu cho Căn bản trí. Căn bản trí hằng dứt sạch mọi nhiễm ô tham ái chấp trước, luôn thanh tịnh, có khả năng tin nhận Tri kiến Phật, nên biểu trưng bằng hình ảnh Bồ-tát Văn-thù ngồi hoa sen lớn từ biển lớn vọt lên hư không, đến núi Linh Thứu đảnh lễ Phật. Sau khi đảnh lễ Phật, Bồ-tát Trí Tích và Bồ-tát Văn-thù cùng thăm hỏi nhau. Hai vị Bồ-tát gặp nhau để làm gì? Vì Bồ-tát Trí Tích thuộc về Hữu sư trí, do huân tu, tùy duyên ứng hiện giáo hóa chúng sanh mà được. Còn Bồ-tát Văn-thù là Căn bản trí có sẵn nơi mỗi người hằng thanh tịnh sáng suốt. Hai trí này hợp nhau mới viên mãn đạo Bồ-đề thành Phật, nên nói Bồ-tát Trí Tích và Bồ-tát Văn-thù cùng ra mắt luận nói pháp mầu. Lại nữa, Căn bản trí là trí biết đầy đủ, biết được Tri kiến Phật sẵn có nơi mọi chúng sanh. Vô số chúng sanh ở cõi Ta-bà này ai cũng có Tri kiến Phật, nên nói Bồ-tát Văn-thù giáo hóa vô lượng vô số chúng sanh không thể tính kể.
alt
CHÁNH VĂN:
6.- Ngài Văn-thù-sư-lợi nói:
- Ta ở biển chỉ thường tuyên nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
Ngài Trí Tích hỏi ngài Văn-thù-sư-lợi rằng:
- Kinh này rất sâu vi diệu là báu trong các kinh, trong đời rất ít có, vậy có chúng sanh nào siêng năng tinh tấn tu hành kinh này mau được thành Phật chăng?
Ngài Văn-thù-sư-lợi nói:
- Có con gái của vua rồng Ta-kiệt-la mới tám tuổi mà căn tánh lanh lẹ, có trí tuệ, khéo biết các căn tánh hành nghiệp của chúng sanh, được pháp tổng trì, các tạng pháp kín rất sâu của các Phật nói đều có thể thọ trì, sâu vào Thiền định, rõ thấu các pháp. Trong khoảnh sát-na phát tâm Bồ-đề được bậc Bất thối chuyển, biện tài vô ngại, thương nhớ chúng sanh như con đỏ, công đức đầy đủ, lòng nghĩ miệng nói pháp nhiệm mầu rộng lớn, từ bi nhân đức khiêm nhường, ý chí hòa nhã, nàng ấy có thể đến Bồ-đề.
Trí Tích Bồ-tát nói rằng:
- Tôi thấy đức Thích-ca Như Lai ở trong vô lượng kiếp làm những hạnh khổ khó làm, chứa nhiều công đức để cầu đạo Bồ-đề chưa từng có lúc thôi dứt, ta xem trong cõi tam thiên đại thiên nhẫn đến không có chỗ nhỏ bằng hột cải, mà không phải là chỗ của Bồ-tát bỏ thân mạng để vì lợi ích chúng sanh, vậy sau mới được thành đạo Bồ-đề. Chẳng tin Long nữ đó ở trong khoảng giây lát chứng thành bậc Chánh giác.
Nói luận chưa xong, lúc đó con gái của Long vương bỗng hiện ra nơi trước, đầu mặt lễ kính Phật rồi đứng một phía nói kệ khen rằng:
Thấu rõ tướng tội phước
Khắp soi cả mười phương
Pháp thân tịnh vi diệu
Đủ ba mươi hai tướng
Dùng tám mươi món tốt
Để trang nghiêm Pháp thân
Trời, người đều kính ngưỡng
Long thần thảy cung kính
Tất cả loài chúng sanh
Không ai chẳng tôn phụng
Lại nghe thành Bồ-đề
Chỉ Phật nên chứng biết
Tôi nói pháp Đại thừa
Độ thoát khổ chúng sanh.
GIẢNG:
Ở đây không những nam tử được Bồ-tát Văn-thù giáo hóa cho thành Phật, mà hàng nữ nhi như Long nữ cũng được độ thành Phật. Long nữ chẳng những mang thân nữ lại còn là loài rồng mới có tám tuổi, mà nói thành Phật thì Bồ-tát Trí Tích không tin. Tại sao? Vì Trí Tích là trí do huân tập. Bởi do huân tập được, nên chỉ biết tu mà được thành Phật. Thành Phật là phải trải qua vô lượng kiếp hành Bồ-tát đạo, như lời Phật Thích-ca kể lại tiền thân của Ngài. Bây giờ nói Long nữ, vừa là nữ, vừa là thú, vừa là nhỏ mà thành Phật, thì làm sao tin được? Nên với Bồ-tát Trí Tích, Ngài không thể tin. Còn Bồ-tát Văn-thù là Căn bản trí, biết rõ tất cả chúng sanh đều có sẵn Tri kiến Phật, nếu căn tánh lanh lợi khi được khai thị, tin nhận và hằng sống với Tri kiến Phật là thành Phật, bất luận là nam hay nữ, lớn hay nhỏ, người hay thú.
CHÁNH VĂN:
7.- Bấy giờ, ngài Xá-lợi-phất nói với Long nữ rằng:
- Người nói không bao lâu chứng được đạo Vô thượng, việc đó khó tin. Vì sao? Vì thân gái nhơ uế chẳng phải là pháp khí, thế nào có thể được thành Vô thượng Chánh giác? Đạo Phật xa rộng phải trải qua vô lượng kiếp cần khổ chứa nhóm công hạnh, tu đủ các độ, vậy sau mới thành được. Lại thân gái còn có năm điều chướng: một, chẳng được làm Phạm thiên vương; hai, chẳng được làm Đế Thích; ba, chẳng được làm Ma vương; bốn, chẳng được làm Chuyển Luân Thánh vương; năm, chẳng được làm Phật. Thế nào thân gái được mau thành Phật?
Lúc đó, Long nữ có một hột châu báu, giá trị bằng cõi tam thiên đại thiên đem dưng lên đức Phật. Phật liền nhận lấy. Long nữ nói với Trí Tích Bồ-tát cùng Tôn giả Xá-lợi-phất rằng:
- Tôi hiến châu báu, đức Thế Tôn nạp thọ, việc đó có mau chăng?
Đáp:
- Rất mau.
Long nữ nói:
- Lấy sức thần của các ông xem tôi thành Phật lại mau hơn việc đó.
Đương lúc đó cả chúng hội đều thấy Long nữ thoạt nhiên biến thành nam tử, đủ hạnh Bồ-tát, liền qua cõi Vô cấu ở phương Nam ngồi tòa sen báu thành bậc Đẳng chánh giác, đủ ba mươi hai tướng, tám mươi món đẹp, khắp vì tất cả chúng sanh trong mười phương mà diễn nói pháp mầu.
Khi ấy, trong cõi Ta-bà hàng Bồ-tát, Thanh văn, trời, rồng, bát bộ, nhân cùng phi nhân đều xa thấy Long nữ thành Phật khắp vì hàng nhân thiên trong hội đó mà nói pháp, sanh lòng vui mừng đều xa kính lạy, vô lượng chúng sanh nghe pháp tỏ ngộ được bất thối chuyển, vô lượng chúng sanh được lãnh lời thọ ký thành Phật. Cõi Vô cấu sáu điệu vang động, cõi Ta-bà ba nghìn chúng sanh trụ bậc Bất thối, ba nghìn chúng sanh phát lòng Bồ-đề mà được lãnh lời thọ ký.
Trí Tích Bồ-tát và ngài Xá-lợi-phất tất cả trong chúng hội yên lặng mà tin nhận đó.
GIẢNG:
Không riêng gì Bồ-tát Trí Tích không tin Long nữ sẽ thành Phật mà cả Tôn giả Xá-lợi-phất cũng không tin. Ngài nêu lên năm điều mà nữ giới không thể làm được, là Phạm thiên vương, Đế Thích, Ma vương, Chuyển Luân Thánh vương, Phật. Thông thường những người tu hành có liên hệ tình cảm với phái nữ, nửa chừng cởi áo tu ra đời thì bấy giờ người nữ ấy bị coi như ma nữ, phá hại người tu hành. Ở đây nói nữ giới không thể làm Phạm thiên, Đế Thích, Chuyển Luân Thánh vương, cho đến Ma vương cũng không làm được. Tại sao chê phái nữ quá vậy? Như trước đã nói, tuy Tôn giả Xá-lợi-phất đã được thọ ký, nhưng Ngài còn quen cái nhìn theo nghiệp tướng, thấy người nữ nghiệp nặng hơn người nam, nên không thể làm Phạm thiên, Đế Thích... Vì nhìn trên nghiệp tướng nên thấy người nữ khó tu hơn người nam.
Long nữ dâng hạt châu lên Phật để cúng dường, có nghĩa là trình sự tin nhận Tri kiến Phật. Giống như trình sở ngộ để Phật Tổ ấn chứng cho chỗ tin, thấy của mình là không sai. Việc thành Phật của Long nữ nhanh hơn việc dâng châu lên Phật.
Bấy giờ trong chúng hội đều thấy Long nữ thoạt biến thành nam tử đầy đủ công hạnh Bồ-tát, liền qua cõi Vô cấu thành Phật thuyết pháp. Ngài Trí Tích thuộc hàng Bồ-tát, Tôn giả Xá-lợi-phất thuộc hàng Thanh văn, cả hai đều là bậc trí tuệ. Nhưng trí tuệ của hai Ngài do huân tập, còn hạn cuộc trong vòng tương đối nên còn thấy theo nghiệp tướng, vì vậy mà không thể tin Long nữ thành Phật. Căn cứ trên nghiệp tướng thì thân nam nữ có sai biệt, nhưng Tri kiến Phật sẵn có nơi mỗi người thì không khác. Hơn nữa Tri kiến Phật không có nam nữ đối đãi, vì không có nam nữ đối đãi nên ai nhận ra Tri kiến Phật thì thành Phật, bất luận nam hay nữ, không nhận được thì không thành Phật.
Phẩm này nêu lên hai đặc điểm:
- Thứ nhất là bình đẳng giữa thiện và ác, kẻ ác người thiện ai cũng có Tri kiến Phật như nhau. Dù ác dù thiện một phen nhận ra Tri kiến Phật của chính mình thì thành Phật. Chẳng hạn đồ tể Quảng Ngạch ngộ được lý đạo liền nói: “Hôm qua tâm dạ-xoa, ngày nay mặt Bồ-tát, dạ-xoa và Bồ-tát, chỉ cách một đường tơ.” Ở đây Phật thọ ký cho Đề-bà-đạt-đa thành Phật là để nói kẻ ác phạm tội ngũ nghịch như Đề-bà-đạt-đa vẫn có Tri kiến Phật, nếu thức tỉnh tu hành thì cũng thành Phật.
- Thứ hai là bình đẳng giữa nam và nữ, giữa người và thú, người nam hay người nữ, kể cả súc sanh đều có Tri kiến Phật. Vì vậy mà Bồ-tát Thường Bất Khinh gặp ai cũng nói: “Tôi không dám khinh các ngài, các ngài sẽ thành Phật.” Đó là để nói lên ý nghĩa này. Ai ai cũng có Tri kiến Phật, nhưng vì quên nên không nhận, vì vậy mà cứ luân hồi mãi trong sáu đường. Nếu nhận ra thì thành Phật, nên ở đây Long nữ khi nghe kinh Pháp Hoa liền tin nhận và thành Phật.
- Phẩm kinh này dạy cho chúng ta một lối nhìn bình đẳng, dù là người thiện hay ác, đều thấy như nhau, đối với người ác, không khinh thường, không ác cảm, dù là người nam hay nữ cũng thấy như nhau, vì ai ai cũng có Tri kiến Phật. Dù là người hay thú, tất cả đều có Tri kiến Phật nên không nỡ hại nhau. Nếu tin nhận được thì công đức vô lượng.
Hòa Thượng Thích Thanh Từ
Trích Phẩm 12 “Đề Bà Đạt Đa” trong “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Giảng Giải”
-------
Long Nữ 8 tuổi thành Phật
Long nữ thành Phật
Trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa, phẩm thứ 12 Đề Bà Đạt Đa có nói sự kiện Long nữ, con gái Long vương thành Phật như sau:
“Lúc bấy giờ, Bồ tát Trí Tích, thị giả của Phật Đa Bảo bạch xin phép Phật Đa Bảo trở về nước. Đức Phật Thích Ca mới bảo Bồ tát Trí Tích: “Thiện nam tử, hãy chờ giây lát. Ở đây có Bồ tát Văn Thù, ông và Văn Thù có thể cùng nhau ra mắt mà luận nói pháp mầu, xong rồi sẽ về”.
Ngay khi ấy, Bồ tát Văn Thù và các Bồ tát tùy tùng ngồi trên hoa sen lớn, từ nơi cung Rồng (Long cung) Ta kiệt la trong biển lớn bay lên hư không, rồi bay đến núi Linh Thứu, từ hoa sen bước xuống, đảnh lễ Phật Đa Bảo và Phật Thích Ca, kế đến hỏi thăm Bồ tát Trí Tích, sau đó ngồi qua một bên.
Bồ tát Trí Tích bèn hỏi Bồ tát Văn Thù: “Ngài qua cung Rồng hóa độ được bao nhiêu chúng sinh?” Bồ tát Văn Thù đáp: “Vô lượng. Nếu Ngài không tin, sẽ tự chứng biết”.
Bồ tát Văn Thù nói chưa dứt lời thì có vô số Bồ tát ngồi hoa sen từ biển bay lên đến núi Linh Thứu, trụ trên hư không, tất cả đều do Bồ tát Văn Thù hóa độ. Bồ tát Văn Thù nói: “Ở biển, ta thường tuyên thuyết kinh Diệu Pháp”. Bồ tát Trí Tích hỏi: “Kinh này rất thâm diệu. Vậy có chúng sinh nào siêng tu theo kinh này mà mau thành Phật không?” Bồ tát Văn Thù đáp: “Có con gái của Long vương, mới lên tám tuổi mà đầy đủ trí đức, trong khỏanh khắc phát Bồ đề tâm, được bậc bất thối chuyển, biện tài vô ngại, từ bi rộng lớn, công đức đầy đủ, có khả năng đến Bồ đề”.
Bồ tát Trí Tích không tin hỏi: “Chính Đức Phật Thích Ca còn phải trải qua vô lượng kiếp tu tạo nhiều công đức, làm những hạnh khó làm mới thành đạo Bồ đề, làm sao tin được Long nữ trong chốc lát mà chứng thành Chánh giác”.
Đàm luận chưa xong, Long nữ bỗng hiện ra, cung kính đảnh lễ Phật rồi đứng qua một bên, nói kệ xưng tán pháp thân và cho biết nhờ nghe được diệu pháp mà nàng đã thành Bồ đề, nhưng việc này chỉ Phật chứng biết mà thôi.
Bấy giờ Tôn giả Xá Lợi Phất nói với Long nữ: “Thân gái nhơ uế, có năm điều chướng ngại, còn con đường Phật đạo xa diệu vợi, phải trải qua vô lượng kiếp cần khổ mới đi hết, mà ngươi nói tu không bao lâu đã chứng được vô thượng Chánh giác. Làm sao tin được?” Long nữ bèn lấy một hạt châu hiến dâng Đức Phật Thích Ca, Đức Phật thọ nhận. Bấy giờ Long nữ hỏi Bồ tát Trí Tích: “Tôi hiến châu, Thế Tôn nhận lấy, việc ấy có mau chăng?” Bồ tát Trí Tích đáp: “Mau”. Bấy giờ Long nữ nói: “Ông hãy lấy thần lực của ông xem đây, tôi thành Phật còn mau hơn việc đó”.
Chúng hội liền thấy Long nữ thọat nhiên biến thành nam tử, đủ hạnh Bồ tát, qua cõi Vô cấu phương nam, ngồi hoa sen báu, thành bậc Đẳng Chánh giác”.
Câu chuyện Long nữ thành Phật có ý nghĩa cao sâu: Tất cả chúng sinh đều có Phật tính, dù là lòai nào, nam, nữ, già, trẻ, bé, lớn đều có khả năng thành Phật nếu như đầy đủ trí tuệ và công đức phước báu, tu hành không thối chuyển, có tâm từ bi rộng lớn, có vô ngại biện tài. Cũng như Long nữ vốn là lòai rồng (súc sinh), lại mang thân nữ, chỉ mới tám tuổi thôi, nhưng nhờ tu tập, tích chứa công đức phước báu, có tâm tánh, ý chí của bậc nam nhi trượng phu quân tử (Long nữ biến thành thân nam), hội đủ điều kiện nhân duyên (thành tựu Lục độ vạn hạnh, chứng đạt tâm thanh tịnh, sạch vô minh phiền não (qua cõi Vô cấu) mà Long nữ đã thành bậc Đẳng Chánh giác.
Theo kinh điển Phật giáo, Rồng là một trong Tám bộ chúng thường theo ủng hộ Phật pháp (Thiên long bát bộ): Thiên (Trời), Long (Rồng), Dạ xoa (Thần Dạ xoa, quỷ Dạ xoa), Kiền thát bà (Thần âm nhạc ở cõi trời, thường tấu thiên nhạc hầu vua trời Đế Thích), A tu la (Phi thiên, các chúng sinh này có phước báu như chư thiên nhưng kém đức, tâm thường sân hận và ưa tranh đấu), Ca lâu la (Kim sí điểu, lòai chim cánh vàng), Khẩn na la (Nhơn phi nhơn, hình dáng giống con người nhưng chẳng phải người, là vị thần đánh pháp nhạc cho trời Đế Thích nghe), Ma hầu la già (Thần mình người đầu rắn, bụng to). Trong các thời pháp của Đức Phật đều có sự tham dự của hàng Thiên long bát bộ.
Phan Minh Đức
---
TẠI SAO TIỂU LONG NỮ THÀNH PHẬT NHANH (trong Sát na)?.
.
* Kinh Pháp Hoa là vua các kinh. Ẩn chứa Phật Pháp sâu kín Vi Diệu.
- Điều ẩn kín lớn nhất toàn bộ kinh là pháp hành “Diệu Pháp” mà Thầy Võ Hoành Sơn đã khai thị.
- Ngoài ra, từng Phẩm cũng còn ẩn kín những ý nghĩa riêng, để giúp người hành ứng dụng mau thành tựu “Diệu Pháp”.
.
* Đây muốn nói những ý nghĩa ẩn vụ trong Phẩm Đề Bà Đạt Đa, trong kinh Pháp Hoa.
* Những ẩn dụ:
- Đề Bà Đạt Đa ẩn dụ cho Bồ tát Nghịch Hạnh.
- Vị Quốc Vương phát nguyện cầu đạo ẩn dụ cho người thực hành Sáu Ba La Mật.
- Trí Tích Bồ Tát ẩn dụ cho Tri kiến của phàm phu, chấp kinh tu vô lượng kiếp mới được Thành Phật.(Trí Tích và ở hạ phương ).
- Bồ Tát Văn Thù ẩn dụ cho Trí Huệ Phật (Độ vô lượng Bồ Tát không thể tính,không thể nói, tâm không thể lường được).
- Tiểu Long Nữ ẩn dụ cho Thân Người, mới thực hành thiền có đủ 8 Thức (8 tuổi).
- Ngài Xá Lợi Phất ẩn dụ cho Vọng Tâm: Chấp Ngã, Chấp Pháp và óc phân biệt của người thế gian.
1/-Chấp Ngã: - Thân gái nhơ uế… (Vì có Ngã nên có Nhân; thân gái…)
2/- Chấp Pháp: -Đạo Phật xa rộng phải trải qua vô lượng kiếp cần khổ chứa công hạnh…
3/- Óc phân Biệt: - Là 5 Điều chướng . Đồng thời cũng là ẩn dụ cho Ngủ Uẩn trong Thân – Tâm con người.
- Hột Châu báu:- Ẩn dụ cho Tất cả kiến Chấp to lớn kể trên.
- Đem dâng lên Đức Phật: - Ẩn dụ cho Buông Lìa vào trạng thái Thân – Tâm Rỗng Không.
- Phật liền nhận lấy: - Ẩn dụ cho Nhập Tri Kiến Phật.
- Tiểu Long Nữ hóa thành Thân Nam Tử thành bậc Đẳng Chánh Giác: - Ẩn dụ cho Phật Tánh trùm khắp vô phân biệt.
* Vậy tại sao Tiểu Long Nữ Thành Phật nhanh? .
- Xâu chuỗi lại các điều trên; Chư Vị sẽ hiểu vì sao Tiểu Long Nữ Thành Phật rất nhanh.
- Tiểu Long Nữ nói “ Tôi hiến châu báu, Đức Thế Tôn nạp thọ, việc đó có mau chăng?”.
- “Lấy sức thần của các ông xem tôi thành Phật lại mau hơn việc đó”
* Lời kết:
- Thực hành thiền trực tiếp “Diệu Pháp” trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa thành tựu thì việc Thành Phật (Trực nhận Phật Tánh) cũng không khác như trên.
.
Pháp Hoa Hội Thiền Việt Nam,
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT.
----------------
Đoàn Trung Còn (1908–1988), pháp danh Hồng Tai, hay Tỳ kheo Thích Hồng Tại, là một cư sĩ Phật giáo và học giả Phật học có tiếng tại Việt Nam. Ông được đánh giá là có công rất lớn cho sự nghiệp chấn hưng Phật giáo và phổ biến Phật học tại Việt Nam vào giai đoạn nửa đầu thế kỷ 20.
Ông sinh ngày 2 tháng 11 năm 1908, quê tại xã Thắng Nhì, thị xã Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa, nay thuộc phường Thắng Nhì, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Lúc nhỏ ông theo học trường Pháp Việt tại Vũng Tàu, sau lên học ở Sài Gòn. Sau khi tốt nghiệp với bằng Thành chung (Diplomat), ông ra làm tư chức và lập nghiệp tại Sài Gòn.
Bản thân căn bản học vấn của trường Pháp Việt, do đó ông rất thông thạo tiếng Pháp. Bên cạnh đó, vốn xuất thân trong một gia đình có truyền thống Nho học và tín ngưỡng Phật giáo, ông còn chuyên tâm tự học chữ Hán, trở thành một người có căn bản Hán học. Ngoài ra, ông còn thường xuyên tiếp xúc với các sư sãi người Khmer và Phật giáo Nam Tông, có điều kiện nghiên cứu và học tập từ các kinh sách Phật giáo chép bằng chữ Bắc Phạn (Sanscrit) hoặc chữ Nam Phạn (Pàli). Chính nhờ đó mà ông có một căn bản khá vững chắc về Hán học và Phạn học, đủ giúp ông đi sâu vào nghiên cứu kinh điển nhà Phật, danh cả đời chuyên tâm nghiên cứu, dịch kinh sách Phật giáo.
Ông bắt đầu viết và xuất bản các tác phẩm về Phật giáo vào năm 1931, cho xuất bản các sách Chuyện Phật đời xưa, Văn Minh Nhà Phật Qua Tàu, Triết Lý Nhà Phật do nhà Agence Saigonnaise de Publicité ấn hành.
Năm 1932, ông sáng lập Phật học Tòng Thơ để xuất bản các sách ông biên khảo về Phật giáo và các bộ kinh căn bản do ông phiên âm và dịch nghĩa. Song song đó, ông sáng lập thêm Trí Đức Tùng Thư để xuất bản các bộ sách quan trọng của Nho giáo do ông phiên âm và dịch nghĩa, với mục đích là duy trì nền đạo học chân chính, hầu giúp cho lớp hậu tiến biết cách tu thân, tề gia và trị quốc. Mục đích tôn chỉ của hai tùng thư này đã được ông minh thị trong lời bố cáo như sau:
“Những kinh sách của bổn quán xuất bản, hoặc in có chữ Hán, hoặc in toàn chữ Việt, đều được nghiên cứu và nhuận sắc rất kỹ lưỡng, vì mục đích của bổn quán là muốn truyền bá Phật pháp, cho nên chẳng ngại công cán và thì giờ.
“Vậy mong rằng kinh sách ấy sẽ bổ ích cho độc giả thiện tâm trên đường tu học.
“Vì sau này giấy đắt công cao, vậy bổn quán yêu cầu những vị đã thỉnh kinh sách, khi coi rồi thì nên cho bà con quen biết mượn coi, đó là quý vị phụ lực với bổn quán mà truyền bá đạo lý vậy.
“Và bổn quán cũng yêu cầu những vị “hằng tâm hằng sản” nên thỉnh kinh sách Phật mà ấn tống, thì phước đức vô lượng. Những nhà từ tâm bố thí có lẽ cũng dư biết rằng, trong các việc bố thí, chỉ có việc thí Pháp là có công đức hơn hết”.
Những năm sau đó, ông cho xuất bản tiếp các sách như: Truyện Phật Thích ca (1932) Tăng đồ Nhà Phật (1934), Các Tông Phái Đạo Phật ở Viễn Đông (1935). Ngoài ra, ông còn xuất bản một số kinh sách do các tăng sĩ, cư sĩ khác biên soạn dưới danh nghĩa Phật học Thơ Xã.
Sau ông dùng nhà riêng tọa lạc tại 143 đường Đề Thám (Dixmude cũ), Quận Nhứt, Sàigòn làm nhà Xuất bản Phật học Tòng Thơ để xuất bản những Kinh, sách Phật giáo do ông soạn, dịch. Ông cũng xuất bản những sách Khổng giáo hay Hán văn dưới tên nhà xuất bản Trí Đức Tòng Thơ.
Năm 1955, ông hợp tác cùng với một số tăng sĩ và thân hữu thành lập Hội Phật giáo Tịnh độ tông Việt Nam, đặt trụ sở tại chùa Giác Hải, Phú Lâm Chợ Lớn. Ông được bầu giữ chức Trị sự trưởng Ban chấp sự Trung ương. Năm 1959, ông xây cất chùa Liên Tông tại số 145 Đề Thám, Giáo hội Tịnh Độ Tông dời trụ sở về đây hoạt động.
Đầu thập niên 1970, ông xuất gia, thọ giới trở thành tu sĩ Thích Hồng Tại. Mặc dù trải qua nhiều biến động, ông vẫn tiếp tục nghiên cứu, biên soạn và sáng tác cho đến khi qua đời vào ngày 15 tháng 3 năm 1988, hưởng thọ 80 tuổi với trên 50 năm cống hiến cho sự nghiệp nghiên cứu và truyền bá Phật giáo. Giáo hội Tịnh Độ Tông Việt Nam tổ chức tang lễ của ông tại chùa Liên Tông sau đó di quan đến nơi hỏa táng ở đồi khuynh diệp của Bác sĩ Tín ở Xa lộ Biên Hòa.
Các tác phẩm Phật học của ông được biên soạn, dịch thuật thường căn cứ trên những thư tịch Phật giáo Tây phương. Sách của ông được lưu hành rộng khắp cả ba miền đất nước và có số lượng khá cao so với các tác giả, dịch giả khác.
Công trình lớn nhất của ông là bộ Phật học từ điển (3 quyển, khổ 24 x 15 cm, 2415 trang). Đây là bộ từ điển Phật học đồ sộ và giá trị nhất từ trước đến nay. Hiện nay thư tịch Phật học Việt Nam cũng chưa có bộ từ điển nào có số mục từ đồ sộ và giải thích rõ các thuật ngữ chuyên môn Phật học như bộ sách của ông. Đây là lần đầu tiên Từ điển Phật học này sắp xếp các mục từ theo mẫu tự La tinh và mỗi mục từ được chua thêm các thứ tiếng Pháp, Hán, Tạng, Pali, Sancrit rất rõ, giúp độc giả có điều kiện tham khảo từ các sách viết bằng các ngoại ngữ trên.
Những sách Khổng giáo, Hán văn do ông soạn dịch xuất bản trong Trí Đức Tòng Thơ
Truyện đức Khổng tử
Nhị thập tứ hiếu (Hán Việt)
Hiếu Kinh (Hán Việt).
Tam tự Kinh (Hán Việt).
Tứ thơ: Đại học, Trung dung, Luận ngữ, Mạnh tử (Hán Việt).
Tam thiên tự (3 cuốn: 1 cuốn in theo xưa Hán Việt, 1 cuốn in theo Tiểu tự điển Hán Việt Pháp, 1 cuốn in theo Tiểu tự điển Pháp Hán Việt)
Minh Đạo Gia Huấn (Hán Việt)
Ngũ thiên tự: 2 quyển: 1 quyển theo xưa, 1 quyển theo lối tự điển Hán, Việt, Pháp
Học Chữ Hán một mình.
Những kinh, sách do tự ông hay cộng tác với người khác soạn dịch, nhà xuất bản Phật học Tòng Thơ
Truyện Phật Thích Ca
Du lịch xứ Phật
Đạo lý nhà Phật
Chuyện Phật đời xưa
Văn minh nhà Phật.
Triết lý nhà Phật.
Lịch sử nhà Phật.
Pháp giáo nhà Phật
Tăng đồ nhà Phật (1934)
Các tông phái đạo Phật.
Diệu pháp liên hoa kinh (1936).(In lần thứ ba 1969)
Một trăm bài kinh Phật.
Na Tiên Tỳ kheo kinh.
Mấy thầy tu huyền bí.
Tam bảo văn chương.
Pháp Bảo đàn kinh, cùng dịch với Huyền Mặc Đạo Nhơn (1947)
Vô Lượng Thọ kinh. Hán Việt.
Quán Vô Lượng Thọ kinh. Hán Việt (1947)
Địa Tạng kinh. Hán Việt.
Di Lặc kinh. Hán Việt. (in lần thứ hai, 1949)
Bồ Tát Giới kinh. Hán Việt (1953)
Qui nguyên trực chỉ.
Phật học từ điển. Việt, Hán, Pháp, Phạn (1963)
Yếng sáng Á châu
Kim cang kinh. Hán Việt
Chư Kinh tập yếu (A Di Đà Kinh, Phổ môn, Tứ thập nhị chương kinh, Phật Di giáo kinh, Vô lượng nghĩa Kinh). Hán Việt
Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh Hán Việt (1971)
Đại Bát Niết Bàn Kinh Hán Việt.
Sau khi ông qua đời năm 1988, hệ phái Tịnh Độ Non Bồng (núi Dinh - Bà Rịa) tôn vinh ông lên ngôi vị Hòa thượng.
Ông lập gia đình với bà Lê Thị Tàu, quê ở An Giang, sinh được 2 người con, một trai, một gái. Bà mất năm 1985.
http://www.tuvienquangduc.com.au/tacgia/doantrungcon.html
https://thuvienhoasen.org/a13268/tieu-su-ty-kheo-thich-hong-tai-tuc-doan-trung-con-1908-1988-nha-phat-hoc-mien-nam
https://thuvienhoasen.org/a13355/kinh-sach-do-thay-doan-trung-con-cu-si-nguyen-minh-tien-dich-pdf
No comments:
Post a Comment