Tuesday, February 14, 2023

Uống Dòng Suối Núi

Mila có một cảm thức khôi hài châm biếm nghiêng về sự chế giễu và tuyệt đối bộc trực và thẳng thắn với người khác.


https://youtu.be/qdDkl24dKLs


 Một yếu tố chính cho sự chuyển đổi sâu xa trong bất kỳ thời nào là sự rối loạn bất định. Đối mặt với nhiều sự lựa chọn trong niềm tin và thực hành như vậy, người Tây Tạng vận dụng cảm quan căn bản của họ trong viễn cảnh và khuynh hướng về sự thống nhất, cũng như chúng ta, với tính cách hướng đến sự xác định những nguyên lý thống nhất của sự vật, luôn luôn đi tới một quan điểm hợp nhất và trật tự về vũ trụ. Cả hai nền văn hóa đôi khi bị rơi vào cùng những lầm lẫntrong việc thâu hóa sự việc mới này : quá đơn giảnhóa đến mức không dùng được, trộn lẫn những yếu tốkhác biệt thay vì hội nhập chúng vào một hệ thốngthống nhất, tư biện trí thức không khơi mở được sức sống mới, và sự gắn bó giáo điều vào một cách giải thích hơn mọi thứ khác.


Trong những thời kỳ chuyển biến như vậy, những con người có khuynh hướng thực tiễn lưu ý trước tiên đến sự đánh giá những hệ thống tư tưởng khác nhau để xác định “sự thực hành chân chánh”. Milarepa xuất hiện trong lúc một số hành giả cũng dấn thân như vậy. Một số theo đuổi sự tìm kiếm trong những nhóm lớn hoặc nhỏ của các tu viện, trong khi số khác, như Milarepa lang thang núi đồng theo kiểu sống sannyasin của Ấn Độ – tóc dài, xa cách xã hội, không nhà cửa, tài sảnkhất thực trên những đường làng và thiền định trong những chốn ẩn cư hẻo lánh. Đây là sự khác biệt có ý nghĩa nhất giữa môi trường văn hóacủa Milarepa với chúng ta. Trong xứ Tây Tạng thời Milarepa cũng như ở Ấn Độ trước đó, có sự công nhận của xã hội và ngay cả sự kính trọng đối với việc theo đuổi giải thoát cho chính mình. Dầu cho nó vượt khỏi quan kiến của đa số dân chúng, có một không gian hiện hữu ngoài những biên cương của những hình thức xã hội giành cho những ai muốn bỏ gia đìnhvà tài sản vì cơ may mong manh đạt đến giác ngộ.

Dù với sự chấp nhận của xã hộiđời sống cũng không dễ dàng cho một thiền giả vào thời Milarepa. Có sự cạnh tranh từ những người ăn xin đói khát khác và từ những cơ cấu tôn giáo được thiết lập vững chắc hơn. Không luôn luôn dễ dàng để xin một bữa ăn từ những người nông dân nghèo đã mệt mỏi vì nhu cầu của những người xa lạ với cặp mắt hoang dã trong làng của họ. Đối với những dân làng này Milarepa là một kinh ngạc và thích thú thường trực. Ngài tiêu khiểncho họ bằng những bài hát, khiển trách và phê phán, tán tỉnh, kể những chuyện mua vui châm chọc, và khuyến khích họ với lòng đại bi của mình. Ngài dạy họ Chánh Pháp, và qua mọi việc đó luôn luôn chiếu sáng tính độc nhất của nhân cách ngài, sức mạnh thẩm thấu của trí năng ngài và sự tỏa sáng của sự chứng đắc của ngài.

Cuộc đời của Mila và nhiều kỳ công của ngài đã được kể lại rất hay trong tiểu sử và Một Trăm Ngàn Bài Ca. Ngài thường giải bày chính mình và kể câu chuyện đời ngài nhiều lần, như trong bài đầu tiên của cuốn sách này. Ngài sinh năm 1052 trong một đô thị nhỏ của miền quê Tây Tạng. Tên gia đình của ngài là Mila truyền từ một nội tổ được xem là có những thần lựcphù thủy, và ngài được đặt là Thošpa Ga, Vui VẻNghe. Nhờ công việc buôn bán thành công của cha, gia đình ngài giàu có trong làng ; nhưng cái chết của cha ngài khi Mila và em gái còn con nít, đã làm cho họ thành kẻ không nhà. Họ còn là nạn nhân của bà cô và ông chú, ép buộc người mẹ và hai đứa con làm việc như đầy tớ và người lao động. Mila bỏ đi và theo lời chỉ bảo của mẹ, đến học với một người bùa phép thông thạo những năng lực siêu nhiên. Mila có một khuynh hướng tự nhiên với những điều huyền bí và đã nhanh chóng sở đắc những năng lực hủy hoại, đặc biệt là năng lực tạo ra những trận mưa đá tàn phá. Trang bị như vậy rồi, Mila trở về làng mình để làm thỏa mãn ước muốn báo thù của mẹ. Ngài phạm vào việc giết hại tất cả gia đình người cô và trốn đi. Sau đó ngài hối tiếc cho những hành động của mình và những nghiệp quả khổng lồ của những hành động ấy. Hiểu rằng việc làm ấy cần được sửa chữa lại trong đời này để tránh một tái sanh rất xấu sau này, ngài đi tìm sự dạy bảo trong Phật giáo. Vị thầy đầu tiên của ngài thuộc về cựu phái, tức là phái Nyingma, bảo đảm với ngài rằng hệ thống của ông sẽ đem lại những kết quả chắc chắn và tức thời. Sau một thời gian thực hànhkhông kết quả, vị thầy bảo với Mila rằng mối liên hệ nghiệp quả của ngài thì mạnh hơn với một lama khác tên là Marpa Lotsawa, “Dịch giả họ Mar”, và gởi Mila đến tìm gặp vị này.

Marpa là một người lạ thường. Ông là một người chủ gia đình, một bậc thầy Mật thừa vĩ đại, và là một dịch giả nhiều kinh điển Phật giáo tiếng Phạn, chúng đã trở thành một phần tiêu chuẩn của đại tạng kinh Tây Tạng. Ông đã sống sót sau vài chuyến đi khó khăn và nguy hiểm đến Ấn Độ trong đó nhiều bạn đồng hànhđã chết. Ở Ấn Độ, vị thầy chính của ông là Naropa, và thầy của Naropa là Tilopa, vị này đã nhận những giáo pháp từ đạo sư bổn nguyên của họ là Phật Vajradhara, đức Phật nguyên sơ của dòng phái Kagyu. Trở về Tây Tạng, Marpa dịch những kinh sách đã học được ở Ấn Độ và trao truyền những giáo pháicho những đệ tử.

Trong dạy dỗ, ngài Marpa biểu lộ một nhân cách cứng rắn và đe dọa trên bản chất ấm áp và từ bi của mình. Phương cách làm việc này đối với các đệ tử tỏ ra đặc biệt thích hợp cho Mila-repa, người có nhiều yếu tốtiêu cực và những chướng ngại về nghiệp lớn lao cần được tẩy trừ. Marpa bắt Milarepa chịu vài năm thử thách làm nản lòng trước khi trực tiếp chỉ dạy. Sau sự tịnh hóa và lòng thiết tha được kích thích dữ dội như vậy, Mila hoàn toàn hiến mình cho việc thực hành những giáo pháp này, mới được chuyển từ Ấn Độ qua trồng trên đất Tây Tạng. Ngài đã thành công, hoặc người Tây Tạng đã tin như thế, và đạt đến mục đíchcủa mình là xác chứng bằng kinh nghiệm hệ thống giải thoát của Phật giáo, để lại trên lối đi của mình những thế hệ hành giả thành tựu và rất nhiều chỉ dạy bằng bài ca.

Khi Mila đã từ giã Marpa và sống tự mình, ngài đã theo đuổi sự thực hành liên tục, hầu hết là ở trong những động nơi núi non hẻo lánh của vùng tây nam Tây Tạng và tây Nepal. Sự thực hành khổ hạnh của ngài suốt năm chỉ mặc một chiếc áo vải khiến ngài có tên là “repa”, thêm vào với tên gia đình là “Milarepa”. Thỉnh thoảng ngài viếng thăm một làng hay chỗ cắm lều của những người chăn gia súc để xin thức ăn, và đổi lại ngài hát những bài ca chỉ dạy ứng khẩu, một tục lệ đã có trong thời của ngài. Sự việc đôi khi khó khăn, nhưng Mila luôn luôn biểu lộ một sự can đảmkhông thể khuất phục được trong khi đối mặt với những cản ngại cho thực hành và những hoàn cảnhđối nghịch. Rồi tiếng đồn về ngài lan truyền trong dân chúng, và người ta tin ngài là một siddha thành tựu.

Danh tiếng không làm vui lòng ngài, và ngài không dễ gặp được. Người ta có thể nghĩ ngài là một thiền giả quan tâm đến lợi lạc riêng đến nỗi mất mọi lưu ý đến những tương quan con người và nhìn sự tiếp xúc xã hội như là rắc rối không cần thiết. Mila đã ghi nhận những cảm giác như vậy trong những bài ca của mình, và hình như ngài luôn luôn từ chối những người muốn trở thành đệ tử và vật cúng dường của họ ; nhưng đây đúng là một nghịch lý trong nhiều nghịch lýcủa nhân cách độc đáo của ngài – những nghịch lý ngài đã dùng rất thiện xảo trong việc giáo hóa dân chúng. 

Mila có một cảm thức khôi hài châm biếm nghiêng về sự chế giễu và tuyệt đối bộc trực và thẳng thắn với người khác. Ngài có một số lớn đệ tử dù với phong cách sống ẩn sĩ của ngài. Họ bị lôi kéo về phía ngài, như những vệ tinh không cưỡng chống lại sức hút bất khả kháng của một hành tinh lớn: những người cô độc, những học giả, những đệ tử của các vị thầy khác. Và còn vô số nông dân và chủ gia đình mà ước mong siêu thoát được làm bùng cháy lên khi gặp gỡ thiền giả vĩ đại này.

Để hiểu biết Milarepa, hãy cân sức nặng những lời nói so với những hành động của ngài ; chính trong những trái nghịch và bổ sung của chúng mà sự đối xử khéo léo của nhân cách Milarepa và những mối tương quan được mang ra ánh sáng.

Trích: Thế Giới của Milarepa 
Sách: Uống Dòng Suối Núi


Những Bài Ca của vị Thánh được Mến Yêu của Tây Tạng, Milarepa

Nguyên tác: Drinking the Mountain Stream, Song of Tibet’s Beloved Saint, Milarepa

Translated by Lama Kunga Rinpoche & Brian Cutillo, Wisdom Publications, 1995

Việt dịch: Tha Nhân - Nhà xuất bản Thiện Tri Thức, 2002


Hình: Nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu https://youtu.be/j98p_ElQFwY

Bài ca trong mưa của Mila

Tôi đã du hành qua những đồng bằng của sáu cõi huyễn
Nơi cơn mưa của thống khổ rơi không ngừng nghỉ
Và sương mù tối tăm của vọng tưởng đầy đặc quanh tôi.

Tôi đã không có cái mũ rộng của chánh kiến,
Áo mưa của niềm tin không nao núng,
Và hang động khô ấm của sự quy y tốt đẹp.
Bị cuốn trôi bởi dòng sông tâm thức khát khao.
Bị sưng phồng vì những cơn mưa quất của nghiệp xấu,
Tôi đã bị đem tới chân trời xa của đại dương thống khổ,
Đẩy đưa trên những ngọn sóng của ba cõi thấp,
Và va vào những tảng đá của nghiệp dữ.

Sợ hãi những khổ đau không thể chịu nổi như thế
Trong những đời tương lai không thể tính đếm,
Tôi dựng lên chiếc lều trắng của chánh kiến
Trên bình nguyên bao la của niền tin không nao núng.

Tôi siết chặt những sợi thừng cột lều của kinh nghiệmthiền định.
Đóng chắc những cọc lều của sự thực hành không lầm lỗi
Dựng thẳng những cây chống của ba thân có được,
Và dương lên ngọn cờ của tịnh hạnh.

Tôi truyền bá tiếng trống thánh pháp đi mọi hướng,
Và trên ngai của thế giới bên ngoài đa dạng
Uống nước cốt của mọi giáo lý thâm sâu.

Trên cao nguyên rộng lớn của tình thương và bi mẫn,
Tôi chăn dắt đàn cừu của sáu cõi ra khỏi bờ vực
Và gom góp cam lồ của toàn trí
Không chướng ngại đối với mọi sự vật.

An lạc bên trong, tôi không ấp ủ
Cái ý niệm “Tôi đang khổ đau”
Khi cơn mưa không dứt đổ xuống bên ngoài.

Ngay cả trên những đỉnh núi tuyết trắng xóa
Ở giữa cơn mưa tuyết xoáy cuộn
Theo những ngọn gió đông đầu năm
Cái áo vải này cũng rực lên như lửa.

Người đàn bà trẻ xúc động với lòng tin mạnh mẽ. Chiều hôm đó bà bà cầu xin ban phước và lễ nhập môncúng dường một lễ cúng. Mọi người khác của chỗ đóng trại ấy cũng đến để kết duyên với Jetsušn. Họ dâng nhiều thứ cúng dường, nhưng ngài không nhận, hát bài ca này :

Con cầu nguyện dưới chân lama từ ái của con.
Mọi đồ ăn thức uống các bạn đã dùng
Qua suốt sanh tử từ vô thủy
Cho đến đời hiện nay
Đã không cho các bạn sự thỏa mãn hay hài lòng.
Bởi thế hãy ăn thức ăn này
Của chánh định, hỡi những người có phước.

Mọi sự thịnh vượng các bạn đã sở đắc
Từ thời vô thủy đến nay
Đã thất bại không thể đáp ứng mọi ham muốn của các bạn.
Bởi thế hãy trau dồi viên ngọc như ý này
Của sự điều độ, hỡi những người có phước.

Mọi bạn bè của bạn đã biết
Từ thời vô thủy đến nay
Đã không bao giờ ở lại bên cạnh bạn.
Bởi thế hãy giữ sự bầu bạn trường cửu
Với Đại Ấn bổn nguyên, hỡi những người có phước.

Biết rằng tài sản tích trữ rồi cũng bị bỏ lại đàng sau,
Tôi không khao khát sự thịnh vượng của một người giàu,
Và vì thế tôi không muốn các đồ cúng dường của các bạn.

Mong các bạn sống lâu, hạnh phúc và sức khỏe,
Thoát khỏi khổ đau và cái chết bất ngờ,
Và tái sanh trong một cõi thanh tịnh của Phật.

Rồi Mila bỏ đi đến Núi Khối Đỏ đồng bằng Gungthang.


No comments:

Post a Comment